Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Huế
Điện thoại: 0935878216
Email:
MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÍ LUẬN VÀ
THỰC
TIỄN
CỦA VIỆC SỰ
DỤNG YẾU TỐ
BIỂU
CẢM
TRONG
VĂN
NGHỊ LUẬN
ThS.TRẦN VĂN CHUNG
TĨM TẮT
Yếu tố biểu cảm có vai trị quan trọng, không chỉ bổ sung cho phƣơng thức lập
luận mà cịn góp phần làm tăng tính truyền cảm và sức hấp dẫn cho bài văn nghị luận.
Bài báo này tập trung nêu lên một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc sử dụng yếu tố
biểu cảm một cách có hiệu quả trong bài văn nghị luận.
Từ khố: nghị luận, biểu cảm, sử dụng.
ABSTRACT
Theoretical and Practical Issues in the Effective Utilization of Expressive
Elements in Writing Argumentative Essays
Expressive elements play a vital role in writing discursive essays because they
not only complement modes of discourse but also contribute inspirational and attractive
essays. Hence, this article focuses on theoretical and practical issues in the effective
utilization of those elements in writing argumentative essays.
Key words: argumentative essays, expressive, utilization.
Mở đầu
Đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thông hiện nay không chỉ hƣớng
học sinh – những chủ nhân tƣơng lai của đất nƣớc – tìm về với những giá trị truyền
thống, với cái đẹp của một dân tộc trọng tình cảm, trọng thiên lƣơng hơn là sức mạnh
537
của sự áp đặt mà cịn phải hình thành ở các em một cái nhìn dân chủ, một tƣ duy linh
hoạt, một cá tính dám bộc lộ, dám bày tỏ chính kiến của mình. Thiết nghĩ, những phẩm
chất này ít nhiều đều tồn tại trong những tâm hồn ngây thơ, trong sáng của học sinh, và
dạy học Ngữ văn phải góp phần làm cho nó trỗi dậy một cách mạnh mẽ, thành một làn
sóng mới, thành một ngọn lửa có thể tỏa sáng mọi nơi ngay cả khi đối diện với giơng tố
bão bùng… Ngọn lửa đó chỉ có thể đƣợc nhen nhóm, đƣợc hình thành nếu chúng ta biết
cách phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong mỗi bài học, lớp
học; tôn trọng, nâng niu những cảm xúc vừa độc đáo, sáng tạo trong cách thể hiện của
các em.
Nội dung
1.
Lâu nay, hai mục tiêu cụ thể của dạy học Ngữ văn trong nhà trƣờng là giúp học
sinh có khả năng tiếp nhận và tạo lập văn bản. Tiếp nhận để hiểu, để suy nghĩ, trăn trở
và tự ý thức về bản ngã của mình. Tạo lập để “vật chất hóa” những tình cảm sâu sắc,
những nỗi niềm riêng kín, những suy tƣ dằn vặt về lẽ thị phi trong cuộc đời và quan
trọng nhất là phải biết bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình một cách “thấu tình đạt lí”.
Hai mục tiêu này có mối quan hệ vơ cùng chặt chẽ với nhau, tiếp nhận là tiền đề, là
động lực kích thích quá trình tạo lập, ngƣợc lại, tạo lập là con đƣờng duy nhất để những
điều tiếp nhận đƣợc hiện hữu một cách rõ ràng, cụ thể hơn, có sức mạnh tác động lớn
hơn. Vì lẽ đó, việc dạy học làm văn trong nhà trƣờng phổ thơng có vai trị và vị trí rất
quan trọng khơng chỉ phục vụ cho nhu cầu giao tiếp của học sinh mà còn ảnh hƣởng rất
lớn đến đời sống xã hội.
Làm văn trong nhà trƣờng phổ thơng hiện nay có mục tiêu cung cấp những kiến
thức và hình thành những kĩ năng cần thiết để học sinh có khả năng tạo lập văn bản theo
những thể loại khác nhau. Từ quan niệm làm văn là sự biểu lộ, sự bày tỏ, các nhà nghiên
cứu, biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay đã chia các thể loại làm văn dựa trên
các phƣơng thức biểu đạt nhƣng cũng không quên giúp các em thấy đƣợc sự giao thoa,
liên hệ giữa các thể loại này. Bên cạnh đƣa vào những bài học về đặc điểm của từng
kiểu văn bản, sách giáo khoa hiện hành đã dành một thời lƣợng đáng kể giúp học có khả
năng sử dụng linh hoạt các yếu tố đặc trƣng của thể loại này vào việc tạo lập thể loại
khác nhƣ sử dụng yếu tố tự sự miêu tả, nghị luận trong văn tự sự, tự sự và miêu tả trong
văn nghị luận… Đây là những nội dung rất thiết thực, tạo cho việc làm văn sự uyển
chuyển và linh hoạt hơn. Nó cũng phù hợp với q trình giao tiếp vốn dĩ vô cùng phức
tạp với nhiều cung bậc, sắc thái và cách thể hiện khác nhau. Muốn tạo nên một thông
điệp, ngƣời viết không thể chỉ sử dụng một kiểu văn bản duy nhất mà phải biết sử dụng
538
kết hợp một cách linh hoạt nhiều yếu tố đặc trƣng của các kiểu văn bản khác, yếu tố này
bổ sung, làm rõ cho yếu tố kia: “Trong văn biểu cảm cũng sử dụng khá phổ biến các yếu
tố nhƣ màu sắc, ánh sáng, âm thanh… nhƣng chúng chỉ là phƣơng tiện chứ khơng phải
mục đích… Trong văn miêu tả, trái lại, cũng có nhiều yếu tố nhƣng các yếu tố cảm xúc
đó cũng khơng nằm trong mục đích của ngƣời viết (nói) mà chỉ là phƣơng tiện để miêu
tả con vật, con ngƣời thêm sinh động, có hồn” [8, tr 148].
Cùng với nhiều kiểu văn bản khác, văn nghị luận trong nhà trƣờng phổ thơng là
một thể loại có vị trí rất quan trọng. Rõ ràng, nghị luận khơng chỉ cần thiết trong nhà
trƣờng mà còn “kéo dài ra khỏi cửa ngõ học đƣờng và còn tiếp nối ra đến ngoài đời thực
tế… Gác ngoài sự may rủi ở đời và những tín ngƣỡng về định mạng, nhân quả, sự thành
công hay sự thất bại của ta trong trƣờng tranh đấu giữa xã hội vốn tùy thuộc một phần ở
tài nghị luận” [7, tr 2]. Những vĩ nhân của dân tộc nhƣ Lí Thƣờng Kiệt, Trần Hƣng Đạo,
Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh sở dĩ có thể tập hợp đƣợc sức mạnh của đông đảo nhân quần
để làm nên những bƣớc ngoặt trong lịch sử cũng một phần biết cách sử dụng sáng tạo
kiểu văn độc đáo này.
Nhƣ nhiều kiểu văn bản khác, văn nghị luận cũng bị giới hạn bởi yêu cầu về thể
loại. “Văn nghị luận là loại văn trong đó trong đó ngƣời viết đƣa ra những lí lẽ, dẫn
chứng về một vấn đề nào đấy và thông qua cách thức bàn luận mà làm cho ngƣời đọc
hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề
xuất” [1, tr.137]. Nghĩa là nó “cốt yếu lấy sự bàn bạc, thảo luận với ngƣời khác về đời
sống xã hội và văn học nghệ thuật làm chính” [4, tr. 177]. Mục đích của nghị luận là
thuyết phục nên những gì đề cập trong bài văn nghị luận phải trung thực, chính xác, là
những bằng chứng khơng gì có thể lay chuyển đƣợc. Nó khơng cho phép ngƣời ta liên
tƣởng một cách thái quá, hƣ cấu nên những hình tƣợng li kì, lạ lẫm mà chỉ là “hình
tƣợng minh họa” [3, tr. 400]. Nó cũng khơng dùng lời nói đƣa đẩy, ẩn ý để ngƣời đọc
phải chìm đắm trong sự suy tƣ mà là “một thể loại nhằm phát biểu tƣ tƣởng, tình cảm,
thái độ, quan điểm của ngƣời viết một cách trực tiếp về văn học, hoặc chính trị, đạo đức,
lối sống… nhƣng lại đƣợc trình bày bằng một thứ ngơn ngữ trong sáng, hùng hồn, với
những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục.” [8, tr.132]. Vì thế, có khi ngay
từ nhan đề, ngƣời ta đã biết văn bản nói lên điều gì. Thứ duy nhất mà ngƣời ta quan tâm
đến là khả năng lập luận, là cách biểu lộ tình cảm của ngƣời viết trong bài văn nghị luận
nhƣ thế nào. Nếu nhà văn là ngƣời “sáng tạo ra những gì chƣa có, phát hiện ra những gì
mới mẻ thì ngƣời viết văn nghị luận phải biết dùng những cái quen thuộc, gần gũi một
cách “sáng tạo”, để ngƣời đọc phải ngỡ ngàng và thuyết phục.
2.
539
Sự sáng tạo trong văn nghị luận có lẽ khơng chỉ nằm ở quá trình lập luận hay cách
thức sử dụng lí lẽ và dẫn chứng một cách phù hợp mà quan trọng hơn là sự phối hợp các
phƣơng thức biểu đạt khác vào quá trình tạo lập. Bộc lộ quan điểm, ý kiến là điều ai cũng
có khả năng làm đƣợc nhƣng biết làm cho ý kiến của mình trở nên ấn tƣợng, hấp dẫn, thu
hút đƣợc sự chú ý của ngƣời khác là điều không hề đơn giản. Cũng nhƣ nhà thơ, trong rất
nhiều từ ngữ, nhiều cách diễn đạt, ngƣời làm văn nghị luận cũng phải biết cách chọn lấy
một từ ngữ, một cách diễn đạt vừa có khả năng làm nổi bật vấn đề, vừa sáng tạo, độc đáo
nhƣng cũng không vi phạm vào giới hạn của thể loại. Cũng nhƣ nhà văn, trong bức tranh
hiện thực đời sống với vô vàn những hiện tƣợng “trắng và đen”, cao thƣợng và thấp hèn,
thậm chí đan xen hòa lẫn với nhau, ngƣời làm văn nghị luận cũng phải chọn lấy một đối
tƣợng phù hợp để minh chứng cho quan điểm của mình. Điều đó cũng cho thấy rằng, dù
muốn hay không, ngƣời ta cũng phải sử những yếu tố đặc trƣng của các kiểu văn khác
nhƣ biểu cảm, tự sự, miêu tả vào trong bài văn nghị luận. Nếu sử dụng sáng tạo, hợp lí
những yếu tố này khơng chỉ tạo nên tính thuyết phục mà cịn tăng thêm tính truyền cảm
cho văn nghị luận, khơng chỉ hƣớng vào lí trí mà cịn lay động tình cảm của con ngƣời,
làm cho khối óc và trái tim bị chinh phục hoàn toàn.
Cùng với các yếu tố khác, biểu cảm có vai trị rất quan trọng, làm cho văn nghị luận
khơng cịn rơi vào sự khơ khan, thuyết lí, làm cho “ngƣời đọc (ngƣời nghe) không chỉ bị
thuyết phục bằng lí lẽ (lí tính) mà cịn đƣợc cảm hóa thơng qua những xúc động cụ thể,
sâu sắc (tình cảm)” [2, tr. 205]. Biểu cảm đã làm cho những quan điểm, thái độ của
ngƣời viết đến với ngƣời đọc một cách nhẹ nhàng, tự nhiên hơn mà không phải là sự
huấn thị khô khan. Muốn vậy, ngƣời viết văn nghị luận phải có một tình cảm chân
thành, tha thiết chứ khơng phải sự giả tạo, hình thức. Khơng có nó, mọi ngôn từ dù hấp
dẫn bao nhiêu cũng chỉ là sự tô vẽ của một ngƣời thợ lành nghề, không có khả năng lơi
cuốn ngƣời đọc. Nói cách khác, biểu cảm là nguồn cảm hứng của bài văn nghị luận, bài
văn nghị luận “có sinh khí mãnh liệt, lơi cuốn ngƣời đọc hay không cũng là ở chỗ, tác
giả viết trong lúc có cảm hứng nhiều hay ít”. Cảm hứng không phải là sự xúc động giả
tạo mà phải là cảm hứng thực, “là cái cảm hứng thâm trầm thƣờng chỉ nổi dậy khi ta
ngẫm nghĩ, ôm ấp vấn đề ấy một cách nhiệt thành và trong một khoảng thời gian khá
lâu” [10, tr. 121]. Cảm hứng thực đó “sẽ nảy ra không phải là một sự tối tăm huyền ảo
mà là một sự sáng suốt cao cả” [10, tr. 150]. Rõ ràng, ở mức độ nào đó, biểu cảm khơng
chỉ đan xen trong văn nghị luận mà cịn trở thành “ngọn đèn” dẫn đƣờng cho nghị luận.
“Bài văn trôi chảy, linh động nhiều hay ít là do sự tiến triển mạch lạc của tƣ tƣởng trong
toàn thể, mà cũng còn do sự chuyển biến liên tục của cảm hứng nữa. Xét cho kĩ thì ngay
sự tiến triển mạch lạc của tƣ tƣởng cũng chịu ảnh hƣởng của sự chuyển biến liên tục
trong cảm hứng mà tác giả đã trải qua giữa lúc cầm bút viết văn” [10, tr. 121].
540
Tình cảm thì mn đời vẫn thế, vẫn là sự ngợi ca hay phê phán, đồng tình hay mỉa
mai, xót xa hay vô cảm nhƣng mỗi ngƣời, mỗi thời lại có cách biểu hiện khác nhau. Nếu
thơ ca trung đại gửi nỗi buồn, tâm sự vào cảnh vật, đến nhƣ Tản Đà cũng chỉ dám nói
với “chị Hằng” mà thơi thì Thơ mới ra đời đã thay đổi hẳn cách biểu thị tình cảm trong
thơ, một Xn Diệu khơng ngần ngại bày tỏ sự khao khát tình yêu, khao khát cuộc sống
đến cuồng nhiệt, một Huy Cận làm cho sông nƣớc mênh mông cũng nặng trĩu nỗi
buồn... Ở mỗi thể loại, ngƣời viết cũng có cách biểu lộ tình cảm khác nhau. Nếu thơ
thƣờng biểu lộ tình cảm, cảm xúc một cách trực tiếp thì văn xi lại thƣờng gửi gắm
tình cảm vào thế giới nhân vật, vào bức tranh đời sống. Ngƣời làm văn nghị luận không
chỉ nuôi dƣỡng cảm xúc chân thành mà cịn phải tìm cho mình những cách thức phù hợp
để thể hiện điều này. Nhƣng có lẽ, tìm một khn mẫu để biểu thị tình cảm trong văn
nghị luận là một điều không đơn giản. Mỗi ngƣời có những cách thức biểu lộ khác nhau,
có khi bộc trực, có khi lại kín đáo và tế nhị. Tuy nhiên, để giúp học sinh biết cách sử
dụng yếu tố biểu cảm trong bài văn nghị luận của mình, chúng tơi nêu ra một số định
hƣớng cụ thể nhƣ sau:
Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với các từ giàu sắc thái biểu cảm
Về phƣơng diện ngữ nghĩa, biểu cảm là một thành phần ý nghĩa rất quan trọng của
từ ngữ. Tự nó đã tồn tại một ý nghĩa biểu cảm nhất định và giới hạn phạm vi sử dụng
cho con ngƣời. Loại từ có khả năng biểu đạt cảm xúc rõ ràng nhất là những từ, ngữ cảm
thán nhƣ: chao ôi, hỡi ôi, than ôi, biết bao, xiết bao, biết chừng nào... Loại từ này đƣợc
sử dụng để bày tỏ trực tiếp cảm xúc của ngƣời viết (ngƣời nói). Để tạo ra tính truyền
cảm và thu hút sự chú ý của ngƣời nghe (ngƣời đọc), chúng ta cũng có thể sử dụng loại
từ này để tạo nên các câu cảm thán hay kết hợp với một nội dung thơng báo nào đó
trong bài văn nghị luận.
- “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngƣơi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!
(Trần Quốc Tuấn, Hịch tƣớng sĩ)
- “Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp đƣợc nhờ cách ngao du thú vị ấy,
không kể sức khỏe đƣợc tăng cƣờng, tính khí trở nên vui vẻ”.
(Ru – xơ, Ê-min hay Về giáo dục)
Bên cạnh đó, các đại từ nhân xƣng trong tiếng Việt cũng có khả năng bộc lộ thái
độ, tình cảm của ngƣời nói (ngƣời viết) một cách rất mạnh mẽ. Vì thế, loại từ này cũng
có thể sử dụng và phát huy hiệu quả biểu cảm trong bài văn nghị luận, nhất là nghị luận
xã hội. Trong đó, các đại từ ngơi thứ nhất số nhiều nhƣ: nhân dân ta, đất nƣớc ta, ta,
chúng ta, đồng bào... thƣờng biểu thị tinh thần đoàn kết, thống nhất trong suy nghĩ và
541
hành động. Các đại từ ngôi thứ hai, thứ ba số ít hoặc số nhiều nhƣ: bọn, bọn bay, chúng,
chúng bay, bọn chúng thƣờng bày tỏ sự căm thù, khinh bỉ, đối nghịch:
“Về chính trị, chúng tuyệt đối khơng cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nƣớc nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trƣờng học. Chúng thẳng tay chém giết những
ngƣời yêu nƣớc thƣơng nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những
bể máu.
Chúng ràng buộc dƣ luận, thi hành chính sách ngu dân.
(Hồ Chí Minh, Tun ngơn độc lập)
Để công khai bày tỏ quan điểm, thái độ của mình, ngƣời làm văn nghị luận cũng
có thể sử dụng các từ mang ý nghĩa khẳng định (sự thật là, tin rằng, chắc chắn rằng,
quả quyết rằng...) hay phủ định (không, không chịu, không đƣợc...), các từ biểu thị sự
quyết tâm, kiên quyết (nhất định, quyết, phải đƣợc...). Những từ này vừa có khả năng
biểu đạt cảm xúc, thái độ mạnh mẽ vừa làm cho lời văn trở nên đanh thép hơn:
- “Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thƣờng mệnh trời, khơng
noi theo dấu cũ của Thƣơng, Chu, cứ đóng n đơ thành ở nơi đây, khiến cho triều đại
không đƣợc bền lâu, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật khơng đƣợc
thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, khơng thể khơng dời đổi”.
(Lí Cơng Uẩn, Chiếu dời đơ)
- “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nƣớc ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa.
(Hồ Chí Minh, Tun ngơn độc lập)
c.“Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân
tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!... Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
(Hồ Chí Minh, Tun ngơn độc lập)
Ngồi ra, trong bài làm văn nghị luận, ngƣời viết cịn có thể sử dụng thêm những
từ, cụm từ đậm phong cách khẩu ngữ vào câu văn nghị luận nhằm tạo đƣợc sự chú ý
cho ngƣời đọc.
542
- “Huống chi ta cùng các ngƣơi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan.
Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đƣờng, uốn lƣỡi cú diều mà sỉ mắng triều
đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”.
(Trần Quốc Tuấn, Hịch tƣớng sĩ)
Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với các loại câu nhiều thành phần có kết cấu cân
xứng
Ngồi từ ngữ, sức mạnh biểu cảm trong bài văn nghị luận còn đƣợc tạo nên bởi
cách sử dụng và tạo lập câu của ngƣời viết. Trong văn nghị luận, ngƣời viết phải cố
gắng đi tìm những cách diễn đạt mới mẻ, độc đáo. Bên cạnh những câu ngắn dùng để
nhấn mạnh, ngƣời viết có thể sử dụng những câu dài, nhiều thành phần có kết cấu cân
xứng nhằm ra nhịp điệu và sức lan tỏa mạnh hơn:
“Chƣa bao giờ ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở nhƣ Thế Lữ,
mơ màng nhƣ Lƣu Trọng Lƣ, hùng tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng nhƣ Nguyễn
Nhƣợc Pháp, ảo não nhƣ Huy Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính, kì dị nhƣ Chế Lan
Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn nhƣ Xuân Diệu”.
(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
Trong một số trƣờng hợp, ngƣời viết có thể dùng câu đơn khơng gắn với các thành
phần phụ hay tách các vế câu ra thành câu độc lập nhằm mục đích nhấn mạnh một nội
dung nào đó.
“Một cái giật mình tái mặt khi nhận ra chân tƣớng của chính mình. Một thái độ tự
phê phán nghiêm khắc đầy hối hận khiến chúng ta kính trọng”.
(Vũ Quần Phƣơng, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy – một tứ thơ sâu sắc”)
Ngoài ra, ngƣời viết văn nghị luận cũng cần đặt những câu có tính chất hội thoại,
gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày nhằm thu hút sự chú ý và hứng thú của ngƣời
đọc, từ đó góp phần tăng thêm tính biểu cảm cho lời nói:
“Bọn thực dân pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn trƣớc”
(Theo Hữu Đạt, Phong cách học Tiếng Việt)
Có thể nói, nhằm tạo ra tính biểu cảm cho bài văn nghị luận, việc sử dụng câu
không theo một mơ hình hạn định nào mà phụ thuộc vào năng lực sử dụng ngôn ngữ
của ngƣời viết. Đôi khi, không cần quá cầu kì trong câu văn nhƣng ngƣời viết vẫn có
thể tạo ra một bài văn nghị luận chặt chẽ, sâu sắc và truyền cảm.
Sử dụng yếu tố biểu cảm gắn với một số biện pháp tu từ
543
Biểu cảm và tạo hình là hai chức năng chính của các biện pháp tu từ: “Biện pháp
tu từ, định nghĩa một cách khái quát nhất, đó là những cách phối hợp sử dụng trong hoạt
động lời nói các phƣơng tiện ngơn ngữ (khơng kể trung hịa hay diễn cảm) để tạo ra
hiệu quả tu từ (tác dụng gợi hình, gợi cảm, nhấn mạnh, làm nổi bật...) do sự tác động
qua lại giữa các yếu tố trong một ngữ cảnh rộng” [2, tr. 61]. Nghĩa là, bất cứ biện pháp
tu từ nào, ngồi tác dụng gợi hình, cịn có tác dụng gợi cảm. Trong mỗi loại văn bản,
biện pháp tu từ đƣợc sử dụng với những mục đích khác nhau. Nếu nhƣ trong ngôn ngữ
nghệ thuật, việc sử dụng biện pháp tu từ chỉ cốt yếu tạo ra tính hình tƣợng thì trong văn
bản nghị luận, nó lại đƣợc sử dụng nhằm tăng thêm sức mạnh cho sự đánh giá, bình
luận và tăng thêm tính truyền cảm cho lời văn, làm cho vấn đề nghị luận trở nên gần
gũi, sinh động, câu văn nghị luận cũng trở nên “hài hòa, uyển chuyển về âm điệu, có
thêm lƣợng nghĩa biểu cảm – cảm xúc” [2, tr. 221]. Vì vai trị quan trọng đó, khơng một
bài văn nghị luận nào, nhất là các văn bản chính luận lại khơng sử dụng các biện pháp tu
từ. Dƣới đây là một số biện pháp tu từ thƣờng đƣợc sử dụng trong bài văn nghị luận
nhằm tạo ra hiệu quả biểu cảm:
- So sánh trong văn nghị luận chủ yếu làm cho vấn đề nghị luận hiện lên cụ thể,
vừa gần gũi vừa ấn tƣợng, dễ đi vào lòng ngƣời đọc hơn:
“Mỗi nét bút nhƣ một nhát khắc của một nghệ sĩ tạo hình làm cho các hình tƣợng
nhƣ đƣợc chạm nổi, những khối hình nhƣ hằn lên trên bề mặt chữ nghĩa”.
(Chu Văn Sơn, Cái đẹp nổi loạn trong “Chữ ngƣời tử tù”)
- Điệp ngữ là sự “lặp đi lặp lại có ý thức những từ, ngữ nhằm mục đích nhấn
mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tƣợng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng ngƣời
đọc, ngƣời nghe... Nhờ điệp ngữ, câu văn mới tăng thêm tính cân đối, nhịp nhàng, hài
hịa, có tác dụng nhấn mạnh một sắc thái ý nghĩa, tình cảm nào đó, làm nổi bật những từ
quan trọng, khiến cho lời nói trở nên sâu sắc, thấm thía, có sức thuyết phục mạnh” [2, tr.
93 – 94]. Với khả năng đó, điệp ngữ đƣợc sử dụng nhằm tạo ra đƣợc tính truyền cảm
cho văn bản nghị luận:
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc
đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải đƣợc
tự do! Dân tộc đó phải đƣợc độc lập!”
- Câu hỏi tu từ: là loại câu có hình thức nghi vấn nhƣng nội dung của nó đã bao
hàm ý trả lời. Xét về hiệu quả biểu cảm, câu hỏi tu từ dùng để khẳng định hay phủ định
một vấn đề nào đó đƣợc đề cập đến trong câu và tăng cƣờng tính diễn cảm của lời nói.
544
“Lúc bấy giờ, dẫu các ngƣơi muốn vui vẻ phỏng có đƣợc khơng?... Lúc bấy giờ, dẫu
các ngƣơi khơng muốn vui vẻ phỏng có đƣợc khơng?... Nếu vậy, rồi đây sau khi giặc dã dẹp
yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”
(Trần Quốc Tuấn, Hịch tƣớng sĩ)
Ngồi ra, ngƣời viết cũng có thể sử dụng thêm nhiều phƣơng tiện và biện pháp tu
từ khác nhằm tăng thêm tính biểu cảm và thuyết phục cho văn bản nghị luận nhƣ phép
đối, phép sóng đơi, liệt kê...
Có thể nói, biểu cảm thể hiện một cách hết sức đa dạng trong văn nghị luận. Muốn
sử dụng hiệu quả yếu tố này này, học sinh không những phải hiểu rõ về khả năng biểu
cảm của các đơn vị ngơn ngữ, các biện pháp tu từ mà cịn phải có một thái độ nghiêm
túc, một tình cảm chân thành thiết tha với vấn đề nghị luận. Chỉ nhƣ vậy, bài văn viết ra
mới có thể thuyết phục đƣợc lí trí và lay động đƣợc trái tim của ngƣời đọc, ngƣời nghe.
3.
Ngày nay, chúng ta cũng đã thấy vui mừng khi đƣợc đọc ngày càng nhiều những bài
văn hay của học sinh. Những bài văn nghị luận về “đồng tiền”, về “bài học của sự thành
công”… không chỉ chặt chẽ, thuyết phục mà cịn giàu cảm xúc, chín chắn trong suy nghĩ.
Những điều đó kết hợp với nhau tạo nên những trang văn khiến những ngƣời trƣởng
thành cũng phải thảng thốt, trầm trồ! Tuy nhiên, ta vẫn phải đọc rất nhiều những bài văn
hời hợt về cảm xúc, rời rạc về ý tứ, những bài văn đơn điệu, nhàm chán là “bản sao”
khơng hồn chỉnh từ nhiều “bản sao” khác nên thiếu đi bản sắc, phong cách của ngòi bút.
Thực trạng này xuất phát từ đâu?
Trƣớc hết, ta có thể khẳng định rằng, sử dụng kết hợp các phƣơng thức biểu đạt nói
chung và biểu cảm nói riêng là một việc làm không hề dễ dàng, ngay cả đối với những
cây bút chun nghiệp. Nó khơng chỉ địi hỏi kiến thức về các phƣơng thức này mà cịn
phải có kinh nghiệm giao tiếp và vốn sống, vốn ngôn ngữ nhất định. Vì thế, những kiến
thức về sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm khó có thể chuyển hóa thành kĩ năng nếu các em
vẫn còn học tập một cách đối phó, càng khơng thể sử dụng đƣợc nếu các em tỏ ra hời hợt,
vô cảm với đề văn.
Hơn nữa, những tri thức đƣợc trình bày sách giáo khoa vẫn cịn mang tính khái
qt, chủ yếu mới nhấn mạnh đến vai trò, nguyên tắc mà chƣa chỉ ra cụ thể cách thức sử
dụng sao cho phù hợp. Các em sẽ lại càng khó khăn hơn nếu giáo viên khơng đầu tƣ một
cách đúng mức vào bài học. Chỗ dựa cuối cùng của ngƣời học chính là các nguồn tài liệu
với những tên gọi rất mĩ miều là “những bài văn hay”, những bài văn mẫu” đƣợc bày bán
tràn lan khơng ai kiểm sốt. Chúng ta khơng phủ nhận vai trị của bài văn mẫu nếu nó
545
xứng đáng với tên gọi này. Những bài văn mẫu trích từ những nguồn uy tín đƣơng nhiên
rất hữu ích cho các em nhƣng tiếc thay, rất nhiều tài liệu tham khảo dạng này đƣợc in ấn,
bày bán mà thiếu sự chọn lọc, chỉnh sửa. Nhiều tác giả sử dụng bài viết của học sinh rồi
gọi nó là bài văn mẫu, kể cả khi vẫn còn những lỗi “ngớ ngẩn” trong các bài văn mẫu, vẫn
còn sự kể lể lan man, dàn trải, không tiêu biểu cho một sự kết hợp nào cả! Điều này đã
ảnh hƣởng lâu dài đến cách nói, cách viết, triệt tiêu sự sáng tạo và phong cách riêng của
các em và dần dần, chúng ta sẽ mất đi nhiều thứ khác nữa…
Một số đề nghị
Có thể thấy rằng, sử dụng kết hợp yếu tố biểu cảm nói riêng và các phƣơng thức biểu
đạt nói chung là yêu cầu tất yếu của quá trình tạo lập văn bản nghị luận. Vì vậy, chƣơng
trình sách giáo khoa Ngữ văn sau năm 2015 nên dành thời lƣợng nhiều hơn nữa cho việc
dạy học về sử dụng kết hợp các phƣơng thức biểu đạt trong văn bản nói chung và văn bản
nghị luận nói riêng ở THCS và THPT. Chỉ nhƣ vậy, chúng ta mới có thể giúp học sinh biết
cách sử dụng ngôn ngữ để làm cho lời nói sinh động hơn, ý nghĩ và tình cảm cũng đƣợc thể
hiện nổi bật và hấp dẫn hơn. Đó cũng là cách để tạo cho thế hệ tƣơng lai một trí tuệ sắc sảo
và một tâm hồn nhiệt thành, tích cực hơn với cuộc đời. Ngoài ra, mỗi giáo viên cũng phải
tìm những biện pháp để phát huy tính tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong việc
sử dụng kết hợp các phƣơng thức biểu đạt vào việc tạo lập văn bản nhƣ thay đổi cách ra đề,
cách đánh giá và giúp các em khơng cịn lệ thuộc những bài vẫn mẫu “dởm” để tạo nên
những “tác phẩm” thực sự của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Nguyễn Trí (2001), Giáo trình Làm văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Hoàng Dân (2009), Văn nghị luận ở THCS và THPT, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên)(2011), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn ở THCS, Nxb ĐHSP Hà
Nội.
5. Đinh Trọng Lạc (1999), 99 biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) (2004), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
7. Ngô Văn Phát (1968), Phƣơng pháp làm bài nghị luận, Bộ giáo dục – Trung tâm học
liệu, Sài Gòn.
8. Đỗ Ngọc Thống (chủ biên) (2008), Làm văn, Nxb Đại học sƣ phạm Hà Nội.
546
9. Đỗ Ngọc Thống (2012), Bồi dƣỡng học sinh giỏi Ngữ văn THCS quyển 1, Nxb Giáo
dục Việt Nam.
10. Phạm Việt Tuyền (1969), Phƣơng pháp nghị luận, phân tích và phê bình văn
chƣơng, Nxb Phong trào văn hóa, Sài Gịn.
547