Trƣờng THPT Nguyễn
Trung Trực, Quận Gị Vấp,
TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0903908005
ThS. TRƢƠNG THƯY HÀ
Email:
truongthuyha1308@yahoo.
com.vn
ĐỔI MỚI HOẠT
ĐỘNG
RÈN
LUYỆN KỸ NĂNG
NĨI CHO HỌC
SINH TRONG DẠY
HỌC MƠN NGỮ
VĂN Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ
THƠNG
TĨM TẮT
Rèn luyện kỹ năng nói là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc dạy
học môn Ngữ văn trong nhà trƣờng phổ thơng. Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh
đã có nhiều kết quả, nhƣng vẫn cịn nhiều bất cập, trong đó có những khó khăn về sử
dụng phƣơng pháp rèn luyện. Ngoài việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc rèn luyện kỹ năng nói, ngƣời giáo viên Ngữ văn phải không ngừng đổi mới, tìm tịi,
sáng tạo, vận dụng những phƣơng pháp truyền thống với các phƣơng pháp hiện đại để
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả dạy học mơn Ngữ văn, trong đó có việc rèn luyện kỹ
năng nói.
Từ khóa: đổi mới, kỹ năng, nói
ABSTRACT
Speaking practice is one of the primary duties in teaching literature at high
schools. Although there have been better results in helping students practice speaking,
disadvantages have still remained, including difficulties related to methods. On one
hand, literature teachers have increasingly realised the importance of practising
speaking. On the other hand, they have never stopped improving, researching, creating
as well as using methods that are traditional and modern so that quality and
effectiveness in teaching literature can be raised and so can speaking practice.
Key words: innovation, skill, speak
1.
559
Cùng với Nghị quyết TW 2 khóa VIII, Chiến lƣợc phát triển giáo dục 20112020, Văn kiện Đại hội Đảng lần XII, việc ban hành Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 411-2013 của Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa XI về đổi mới căn
bản, tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã tiếp tục
nhấn mạnh mục tiêu giáo dục con ngƣời mới, rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng nghề
nghiệp cho ngƣời học. Dạy học phải chú trọng phát triển tồn diện năng lực, phẩm chất
ngƣời học, ngƣời cơng dân mới. Ngành giáo dục đang tiếp tục đổi mới mục tiêu, nội
dung chƣơng trình, phƣơng pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả; tạo điều kiện để
ngƣời học tự cập nhật, đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Hình thành, bồi
dƣỡng, phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) trong dạy học mơn
Ngữ văn chính là góp phần thực hiện mục tiêu đó.
2.
Trong nhà trƣờng phổ thơng, Tiếng Việt là một mơn học, một nội dung dạy học,
có nhiệm vụ góp phần giáo dục, hình thành, phát triển nhân cách con ngƣời Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
(HS) tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Với những đổi mới về mục tiêu, chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp và hình
thức kiểm tra đánh giá, việc dạy học tiếng Việt đã thực hiện mục tiêu đức, trí, thể, mỹ,
kỹ. Tuy nhiên, việc dạy học Ngữ văn nói chung và tiếng Việt nói riêng trong trƣờng phổ
thơng hiện nay vẫn nặng về hàn lâm, cung cấp tri thức lý thuyết, chƣa chú ý nhiều đến
việc hình thành năng lực, kỹ năng cá nhân. Vì vậy, năng lực sử dụng tiếng Việt của HS
với tƣ cách là một công cụ để tƣ duy, giao tiếp, công cụ để học tập vẫn cịn nhiều bất
cập. Trong đó, những hạn chế, yếu kém về kỹ năng nói (KNN) của HS trung học phổ
thông (THPT) đang là một vấn đề đƣợc nhà trƣờng, xã hội, phụ huynh quan tâm tìm
biện pháp khắc phục. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhƣ « một trận đánh lớn » mà
mỗi việc, mỗi cơ sở, mỗi một cán bộ, giáo viên (GV) phải làm tốt từng công việc nhỏ.
Làm tốt hoạt động rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho HS chính là góp phần vào
trận đánh lớn đó !
3.
Hoạt động rèn luyện KNN cho HS đƣợc thực hiện bằng nhiều phƣơng pháp,
hình thức và ở các môi trƣờng khác nhau. Tuy nhiên, việc rèn luyện KNN cho HS trong
dạy học môn Ngữ văn là hình thức quan trọng, đạt đƣợc hiệu quả, chất lƣợng nhanh và
có tính bền vững nhất. Rèn luyện KNN cho HS chính là nhằm góp phần phát triển toàn
diện năng lực của các em, rèn luyện kỹ năng mềm, kỹ năng hoạt động xã hội, kỹ năng
560
thích ứng với cuộc sống, làm cho mình hiểu mọi ngƣời và mọi ngƣời hiểu mình. Đó
cũng là một trong những biểu hiện của việc xây dựng “trƣờng học thân thiện, học sinh
tích cực”. KNN của HS phải đảm bảo các tiêu chí của một hoạt động ngơn ngữ và đạt
đƣợc hiệu quả cao nhất trong một giao tiếp cụ thể (nói đúng, nói rõ ràng, nói diễn cảm,
phù hợp nội dung, đối tƣợng và hồn cảnh,...). Kỹ năng đó phải đảm bảo tính phát triển,
sự linh hoạt, thích ứng và có tính bền vững, ngày càng hồn thiện về các phẩm chất nói.
Mặt khác, việc rèn luyện KNN đảm bảo tính phù hợp, khả thi với đối tƣợng học sinh
THPT, với nội dung dạy học môn Ngữ văn, với năng lực của GV và điều kiện dạy học
của các trƣờng THPT hiện nay.
Học sinh THPT có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi, đã hội tụ đƣợc một mức độ nhất
định về sự phát triển thể lực, trí lực, tâm sinh lý và các kỹ năng cơ bản của một con
ngƣời chuẩn bị bƣớc vào tuổi trƣởng thành. Nhiều kỹ năng của HS THPT đƣợc hình
thành, phát triển ở các cấp học trƣớc cũng nhƣ trong cuộc sống đã đạt đƣợc mức độ ổn
định. Sự ổn định có tính tích cực đó nhiều lúc có những mặt trái, nhất là những kỹ năng
lệch chuẩn. Trong quá trình phát triển nhân cách, một số kỹ năng của HS có thể đƣợc
tiếp tục điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện hơn. KNN của HS THPT cũng là một trƣờng
hợp nhƣ vậy: HS đã tạo lập đƣợc một số phẩm chất của KNN, nhƣng ở bậc THPT có
thể tiếp tục bổ sung, chuẩn hóa, hồn thiện để đạt kết quả cao nhất trong giao tiếp, nói
năng.
Hiện nay, chƣơng trình Ngữ văn THPT đƣợc xây dựng theo nguyên tắc tích hợp,
với hai trục là đọc văn và làm văn nhằm hình thành, rèn luyện cho HS năng lực đọc –
hiểu cũng nhƣ cách thức tạo lập các loại văn bản. Việc coi trọng KNN trong dạy học
môn Ngữ văn sẽ giúp HS ý thức cao hơn trong việc tiếp thu tri thức và thực hành luyện
tập. Kết quả cuối cùng của việc rèn luyện KNN là HS có sự hiểu biết đầy đủ về ngơn
ngữ, có kĩ năng chủ động tiếp nhận và tạo lập văn bản, có đƣợc những phẩm chất của
hùng biện, không đơn thuần chỉ nắm một số kiến thức lý thuyết ngôn ngữ.
Về cơ bản, đội ngũ GV dạy học Ngữ văn hiện nay đủ trình độ, năng lực để rèn
luyện KNN cho HS qua dạy học môn Ngữ văn. Môi trƣờng học tập, rèn luyện, sinh hoạt
của HS trong các trƣờng THPT cũng tạo điều kiện để các em rèn luyện KNN (sinh hoạt
lớp, diễn đàn, phát biểu, hùng biện, hoạt động ngoài giờ lên lớp,...). Cuộc sống xã hội,
gia đình, những tác động của các phƣơng tiện thơng tin đại chúng (truyền hình, sân
khấu, phim,...) cũng góp phần rèn luyện KNN cho HS.
4.
Thực tiễn dạy học và quản lý tổ chuyên môn nhiều năm ở các trƣờng THPT
Quận Gị Vấp (TP. Hồ Chí Minh), chúng tơi nhận thấy rằng, một bộ phận HS còn yếu
561
cả kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Các em rất ngại nói trong giờ học, có tâm lý ngƣợng
ngùng, dè dặt, sợ mình nói sai. Sự hạn chế về vốn sống, vốn hiểu biết và kinh nghiệm
giao tiếp dẫn đến các em thiếu sự đa dạng, linh hoạt trong việc thực hiện các chủ đề,
hình thức nói năng. Các hoạt động tập thể, trao đổi, thảo luận, tập diễn thuyết, hùng
biện,... khó đƣợc tổ chức nên HS ít có điều kiện để rèn luyện KNN. Nhiều HS bị cuốn
hút vào các trò chơi hiện đại nhƣ game, chat,... khiến vốn từ vựng không đƣợc bổ sung
và chỉ phát triển ở hình thức ngơn ngữ thầm. Lối sống hiện đại, cơng việc tất bật... khiến
nhiều phụ huynh khơng có thời gian giao tiếp, chuyện trị với con em mình nên tạo điều
kiện cho các em dần dần khép kín, ngại nói năng, giao tiếp, có thái độ tự kỷ. Quy mơ
mỗi lớp học đơng nên GV ít có thời gian rèn luyện KNN cho từng HS. Một bộ phận GV
chú trọng rèn luyện kỹ năng viết, chƣa có phƣơng pháp linh hoạt, sáng tạo để động viên,
khuyến khích, tạo điều kiện cho HS luyện nói hiệu quả. Chƣơng trình Ngữ văn THPT
hiện hành đã chú ý đến việc rèn kĩ năng sử dụng ngơn ngữ, nhƣng thời lƣợng q ít, lại
khơng yêu cầu kiểm tra đánh giá rèn luyện KNN. Áp lực thi cử với chỉ tiêu thi đua, chạy
theo bệnh thành tích làm cho GV buộc phải tập trung vào việc cung cấp kiến thức và kĩ
năng viết văn để đối phó với các kì thi HS giỏi, thi tốt ngiệp THPT, thi đại học,...
5.
Trong nhà trƣờng phổ thông, hoạt động rèn luyện KNN cho HS phải đảm bảo
các nguyên tắc giáo dục, nguyên tắc dạy học, đƣợc vận dụng cụ thể vào một không
gian, thời gian, đối tƣợng nhất định. Phải bám sát mục tiêu giáo dục của nhà trƣờng,
những quy luật khoa học về bản chất của hoạt động ngơn ngữ, của tâm lý học, của con
đƣờng hình thành kỹ năng. Rèn luyện KNN phải bám sát nội dung, chƣơng trình dạy
học và phải đƣợc cá thể hóa theo từng đối tƣợng HS. Từ những cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn trong dạy học môn Ngữ văn ở các trƣờng THPT Quận Gị Vấp, chúng
tơi thấy rằng, để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả rèn luyện KNN cho HS, phải chú ý thêm
các nội dung sau.
5.1. Vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương pháp dạy học tiếng truyền thống
Rèn luyện theo mẫu là một phƣơng pháp đƣợc áp dụng rộng rãi trong giáo dục
ngôn ngữ nói chung và dạy học tiếng Việt nói riêng. Thực chất của quá trình học tiếng
là một quá trình bắt chƣớc có ý thức nên phƣơng pháp này đƣợc áp dụng tốt cho việc
rèn luyện KNN. Điều quan trọng là GV phải có đƣợc những mẫu tốt, phân tích đƣợc
những đặc trƣng của chúng để HS hiểu và nắm vững cơ chế hoạt động nói, từ đó dựa
theo mơ hình để thực hiện hoạt động nói năng đúng chuẩn, sáng tạo, hiệu quả. Ngoài
việc sử dụng các loại mẫu (qua ghi âm, phim ảnh, thông tin mạng,…), GV cũng phải
rèn luyện KNN của mình để trở thành một mẫu cho HS làm theo.
562
Giao tiếp là phƣơng pháp có nhiều ƣu thế trong việc rèn luyện KNN, năng lực
giao tiếp cho HS, phù hợp với bản chất của ngôn ngữ, mục tiêu dạy học và nguyên tắc
trực quan trong giáo dục. Cần tạo các tình huống ngơn ngữ để kích thích nhu cầu giao
tiếp và định hƣớng giao tiếp cho HS về việc nói làm gì, nói nội dung gì, nói với ai, nói
trong hồn cảnh nào, sử dụng hình thức hỗ trợ nào,... Các em biết sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ (từ, cấu trúc ngữ, cấu trúc câu, các yếu tố ngôn điệu, tu từ, phong cách...) và
những yếu tố phi ngơn ngữ (điệu bộ, phƣơng tiện, ngƣời nói, ngƣời nghe, khơng gian,
thời gian,…) để thực hiện một hoạt động nói năng đúng chuẩn cho từng hoạt động giao
tiếp cụ thể.
5.2. Đa dạng hóa các hình thức, mơi trường rèn luyện KNN cho HS trong dạy học
môn Ngữ văn
Hoạt động rèn luyện KNN cho HS trong giờ dạy học chính khóa mơn Ngữ văn ở
trƣờng THPT đƣợc sử dụng có hiệu quả, nhƣ hình thức kể chuyện theo vai, bằng lời của
nhân vật hoặc kể chuyện sáng tạo dựa theo một tác phẩm đã đƣợc học, đọc thêm. Hình
thức kể chuyện theo vai đƣợc thể hiện chủ yếu trong dạy học đọc – hiểu văn bản ở lớp
10. Rèn luyện KNN qua hình thức kể chuyện theo vai cũng là góp phần bồi dƣỡng tƣ
tƣởng, tình cảm; trau dồi, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống; phát triển vốn từ ngữ,
vốn văn học, khả năng sáng tạo, thói quen quan sát, ghi nhớ; phát triển năng lực trí tuệ
cho HS. Đàm thoại là hình thức trao đổi giữa GV và HS hoặc giữa HS với nhau, trong
đó GV nêu ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt hợp lý để HS tập luyện KNN đúng, phản ứng
nhanh, biểu lộ đƣợc tình cảm và phong cách ngôn ngữ phù hợp. Khi luyện tập KNN qua
đàm thoại, cần chú ý đảm bảo số lƣợng, nội dung, mức độ của câu hỏi để phù hợp với
trình độ HS, tạo hứng thú nói năng cho HS. Thảo luận nhóm là một hình thức dạy học
phân hóa, HS hợp tác làm việc với nhau, thơng qua giao tiếp, trao đổi, tranh luận, chia
sẻ và có cơ hội để diễn đạt ý nghĩ của mình, tìm tịi và mở rộng hình thức bộc lộ suy
nghĩ để rèn luyện KNN. Tổ chức dạy học theo nhóm giúp những HS nhút nhát, diễn đạt
yếu có điều kiện rèn luyện, tập dƣợt để dần dần khẳng định tính tự chủ của mình trong
hoạt động giao tiếp. GV phải chuẩn bị tốt kế hoạch, phân chia nhóm hợp lý, xác định
nội dung và thời gian trình bày, xử lý tốt các tình hƣống xảy ra, cá thể hóa trong việc
điều chỉnh, uốn nắn sự lệch chuẩn trong KNN... Luyện nói theo chủ đề, phát biểu,
thuyết trình là hình thức giúp HS nắm đƣợc những vấn đề liên quan đến đối tƣợng nghe,
chuẩn bị bài nói, trình bày bài nói, quan sát và tiếp xúc với ngƣời nghe, tự đánh giá và
rút ra những kinh nghiệm cho mình sau mỗi lần nói.
Thực hiện tích hợp rèn luyện KNN trong các mơn học khác, qua việc kiểm tra
đánh giá cũng là một hình thức đƣa lại hiệu quả cao về nhiều phƣơng diện. Tuy nhiên,
GV bộ mơn phải có ý thức về việc rèn luyện KNN, có năng lực đánh giá trình độ HS,
563
tạo cơ hội để HS đƣợc nói nhiều hơn trong các mơn học khác. Hình thức kiểm tra vấn
đáp khơng chỉ có tác dụng đánh giá kết quả học tập của HS mà còn là một dịp để rèn
luyện KNN một cách toàn diện.
Hoạt động rèn luyện KNN qua hoạt động tự học, hoạt động ngoài giờ lên lớp
đƣợc thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức ở trên các lĩnh vực văn hoá, khoa
học, nghệ thuật, thể dục thể thao, kỹ thuật… có tác dụng rèn luyện KNN một cách tồn
diện, sinh động cho HS. Có thể tổ chức theo hình thức thảo luận nhóm, đóng vai diễn
kịch, tổ chức phong trào “nói lời hay, làm việc tốt”, diễn đàn tranh luận phê phán những
lối nói phi chuẩn mực, hoạt động tình nguyện, bảo vệ mơi trƣờng, rèn luyện nói trong
mơi trƣờng gia đình,…
6.
Hoạt động rèn luyện KNN trong dạy học môn Ngữ văn cho HS THPT đều phải
tuân thủ những mục tiêu giáo dục và mục tiêu dạy học. Để nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả rèn luyện KNN cho HS, không chỉ thay đổi nhận thức của cả ngƣời dạy và ngƣời
học, mà quan trọng hơn, phải đổi mới nội dung, phƣơng pháp, hình thức rèn luyện để
tạo hứng thú cho HS, nâng cao hiệu quả chất lƣợng dạy học. Đây cũng là một vấn đề
cần chú ý khi thực hiện đổi mới chƣơng trình, sách giáo khoa phổ thông sau năm 2015.
Song song, cần phải đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng giáo viên, tạo điều kiện cho
giáo viên đứng lớp không ngừng nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng sƣ phạm, ổn
định về đời sống mới có thể tâm huyết với nghề nghiệp, với sự nghiệp trồng ngƣời. Có
nhƣ vậy mới tránh đƣợc bệnh hình thức, đối phó, khơng đáp ứng nhu cầu xã hội hiện
nay, góp phần giáo dục HS trở thành những con ngƣời phát triển toàn diện để tiếp tục
học tập hay lao động trong cuộc sống; thúc đấy cơng cuộc đởi mới căn bản, tồn diện
giáo dục – đào tạo trong bối cảnh hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ
văn ở trƣờng phổ thông Việt Nam, Nxb ĐHSP Hà Nội.
2. Nguyễn Viết Chữ (2007) “Về việc bồi dƣỡng kỹ năng đọc – nghe – nói – viết cho học
sinh trong dạy học Ngữ văn”, Tc Giáo dục, số 172.
3. Đỗ Việt Hùng, Rèn luyện năng lực ngôn ngữ cho học sinh qua việc giảng dạy môn
Tiếng Việt, Tài liệu bồi dƣỡng giáo viên THPT chu kì 1997 - 2000.
564
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị
lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
565