Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Vai trò của việc học chữ Hán trong nổ lực nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn phổ thông hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.68 KB, 9 trang )

Trƣờng THPT Long Hiệp Huyện Trà Cú - Tỉnh Trà
Vinh
Điện thoại: 0973.123562
Email:
caotramtuan198456@gmail.
com.vn

VAI TRÕ CỦA VIỆC
HỌC
CHỮ
HÁN
TRONG NỔ LỰC
NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG DẠY HỌC
NGỮ
VĂN
PHỔ
THƠNG HIỆN NAY

TRẦM THANH TUẤN

TĨM TẮT
Hiện thực đã cho thấy chất lƣợng dạy và học mơn Ngữ văn đang có dấu hiệu
giảm sút nghiêm trọng. Điều đó phản ánh qua một hiện thực, HS ngày nay rất thờ ơ với
việc trao dồi khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ thông qua những giờ học Ngữ văn. Nguyên
nhân quan trọng khiến cho HS không hứng thú với việc học tiếng mẹ đẻ là: HS chƣa
nắm vững nghĩa của những yếu tố cấu thành từ Hán Việt có trong từ vựng tiếng Việt.
Điều đó khiến HS gặp nhiều khó khăn trong quá trình đọc hiểu và tạo lập văn bản. Đây
chính là nguyên nhân khiến HS giảm sút sự hứng thú khi học mơn Ngữ văn.
Từ khóa: văn học, từ Hán Việt, sinh viên
ABSTRACT


The role of learning Sino-Vietnamese words in an effort to improve the quality of
teaching Literature and Language artsin high schools
Through our teaching, the quality of teaching and learning Literature and
Language arts is observed tobe decreasing in a serious way recently.This reflects the
fact that a number of students are very indifferent to promotethe ability to use their
mother tongue duringLiterature and Language arts lessons.One of the main causes that
made students less interested in learning their mother tongue is that they do not fully
grasp the meaning of the components which form Sino – Vietnamesewords in the
Vietnamese vocabulary.This is the drawback of their reading and writing and also the
497


answer to why many students are now not very keen on learning Literature and
Language arts.
Key words: Literature and Language arts, Sino – Vietnamese words, students

Ngày nay trong việc giảng dạy mơn ngữ văn trong nhà trƣờng, ngƣời ta nói
nhiều đến việc cải tiến phƣơng pháp theo hƣớng tích cực hố quá trình tiếp nhận tri thức
của học sinh (HS). Điều này đúng nhƣng chƣa đủ, thậm chí sẽ khơng đạt hiểu quả bởi
sự chuyển biến này chỉ là phần ngọn. Phần gốc ngôn ngữ là phần quan trọng, căn bản
nhƣng lại chƣa đƣợc nhìn nhận một cách thấu đáo. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng
tôi muốn đề cập đến vấn đề: Vai trò của việc học chữ Hán trong nổ lực nâng cao chất
lƣợng dạy và học môn Ngữ văn ở nhà trƣờng phổ thông.
Hiện thực cho thấy, chất lƣợng dạy và học môn Ngữ văn đã và đang có dấu hiệu
giảm sút nghiêm trọng. Sau mỗi kì thi quan trọng báo chí lại cho đăng tải những bài viết
chi chít lỗi của thí sinh trong đó lỗi về dùng từ Hán Việt chiếm một phần không nhỏ.
Bản thân là những ngƣời trực tiếp đứng lớp giảng dạy, chúng tôi càng cảm nhận sâu sắc
hơn vấn đề này. Điều đó phản ánh một hiện thực, HS ngày nay rất thờ ơ với việc trao
dồi khả năng sử dụng tiếng mẹ đẻ thông qua những giờ học Ngữ văn. Quả thật đây là
điều cần đƣợc nhìn nhận một cách nghiêm túc và nhanh chóng có những cơng trình điều

tra xã hội trên bình diện rộng, từ đó đƣa ra những giải pháp thật cụ thể và thiết thực để
chấn chỉnh.
Ngôn ngữ có mối quan hệ một cách mật thiết đối với văn hố dân tộc. Nói nhƣ L.
Hevvett: "Khơng có một chiếc chìa khố vạn năng nào để mở cửa vào cuộc sống nội
tâm của một dân tộc ngoài trừ ngơn ngữ của dân tộc đó". Điều này khơng có gì để bàn
cải thêm. Qua các cơng trình nghiên cứu chuyên sâu đã đƣa ra những minh định giàu
sức thuyết phục cho thấy ngơn ngữ ngồi chức năng giao tiếp thì bên trong chúng lại
chứa đựng những "mã" văn hóa của cộng đồng ngôn ngữ ấy. Nhƣ vậy hẳn nhiên để giữ
gìn cũng nhƣ phát triển văn hóa dân tộc, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề ngôn ngữ,
đặc biệt lá q trình giảng dạy ngơn ngữ trong nhà trƣờng phổ thông qua môn Ngữ văn.
Nếu nhƣ những điều này khơng đƣợc nhanh chóng thực hiện thì những hệ luỵ cho nền
văn hố dân tộc là điều khơng thể tránh khỏi.
Qua sự trao đổi với nhiều đồng nghiệp, chúng tơi nhận thấy có một ngun nhân
hết sức quan trọng khiến cho HS không hứng thú với việc học tiếng mẹ đẻ là: HS không
hiểu hết những từ ngữ mà bản thân các em sử dụng để giao tiếp hằng ngày, và cả lớp từ
498


có trong các văn bản mà các em tiếp cận. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề chính là việc
HS chƣa nắm vững ngữ nghĩa của những yếu tố cấu thành từ Hán Việt.
Nhƣ chúng ta đã biết, vì đặc điểm của lịch sử dân tộc, tiếng Việt tiếp xúc với tiếng
Hán trong một thời gian dài. Và hệ quả là cho đến ngày nay lƣợng từ Hán Việt tồn tại
trong kho từ vựng của chúng ta là khoảng hơn 70%. Theo thống kê của Lê Xuân Thại
thì: "Trong tiếng Việt có khoảng 3000 yếu tố Hán Việt. Số lƣợng này xấp xỉ với số lƣợng
yếu tố Hán trong tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên" [tr. 14]. Tuy nhiên từ khi chế độ phong
kiến sụp đổ kéo theo nền Nho học cũng tàn lụi thì chữ Hán mất dần địa vị. Chữ Quốc
ngữ (viết theo hệ thống ghi âm ABC) đƣợc thay thế. Từ khi đƣợc chấp nhận, chữ Quốc
ngữ đã đóng vai trị then chốt trong việc kiến tạo nền văn hố Việt Nam mới. Đặc biệt là
việc xóa đƣợc nạn mù chữ (trong giai đoạn đất nƣớc có chiến tranh và xây dựng đất
nƣớc sau chiến tranh) vì việc học chữ Quốc ngữ dễ và nhanh hơn nhiều so với chữ Hán.

Chúng ta yên tâm, thậm chí rất đỗi tự hào rằng, việc tạo ra chữ quốc ngữ là một bƣớc
tiến dài trong lịch sử tiếng Việt. Tuy nhiên qua những bài viết, những cơng trình nghiên
cứu trong những năm gần đây của các học giả nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu lịch
sử ngôn ngữ đã cho thấy vấn đề chƣa hẳn đã vậy. GS Đặng Đức Siêu, trong một bài viết
giáo khoa đã nhận xét: "Từ khi từ Hán Việt nhất loạt đƣợc phiên chuyển từ chữ Hán
sang chữ quốc ngữ, hoạt động song ngữ văn hố Việt – Hán suy yếu dần, những khó
khăn lầm lẫn trong việc nhận thức ý nghĩa của từ Hán Việt nói chung, từ ngữ Hán
Việt đồng âm nói riêng đã trở nên phổ biến hơn nhiều"(TTT nhấn mạnh) (1i). Trong
bài viết Người Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu tiếng Việt?, GS.TS Nguyễn
Ngọc San đã có những nhận định xác đáng: "Đến đầu thế kỉ XX, chữ quốc ngữ bắt đầu
đƣợc phổ biên rộng khắp và thay thế hồn tồn chữ Nơm. Đây là một bƣớc phát triển
nhảy vọt; văn tự Việt Nam từ chổ ghi ý và ghi na ná âm tiết đã chuyển sang ghi âm vị và
có phần nào ghi sát âm hơn là các văn tự ghi âm vị trong họ Ấn – Âu. Tuy nhiên, cũng
có thể đứng về mặt khác mà nói đây là một bước lùi (TTT nhấn mạnh). Trong văn tự
mới này đã mất yếu tố ghi ý, các từ Hán Việt hoà lẫn vào các từ thuần Việt về mặt hình
thức, tạo ra hàng loạt từ đồng âm mà ý nghĩa dễ gây sự lẫn lộn, chất tư duy thị giác
hoàn toàn biến mất" [tr 390]
Quả thật điều ấy đã đƣợc bộc lộ ngày càng rõ nét trong tình hình học tập mơn Ngữ
văn hiện nay. Khi thực hiện hoạt động đọc hiểu các em không hiểu một cách chính xác
những từ ngữ có trong văn bản, hoặc khi tạo lập văn bản, các em sử dụng từ Hán Việt
nhƣng khơng hiểu rõ nghĩa, từ đó dẫn đến dùng sai rất nhiều. Đó chính là lí do khiến HS
giảm sút sự hứng thú khi học môn Ngữ văn. Một điều dễ thấy là HS ngày nay rất ngại
học những tác phẩm văn học chữ Hán của cả Việt Nam và Trung Quốc, bởi một khoảng
cách ngôn ngữ quá xa, mà ngơn ngữ chính là chìa khố đi vào thế giới nghệ thuật của
499


văn bản ấy. Do vậy nếu nhƣ không hiểu biết về chữ Hán thì những giá trị nghệ thuật của
tác phẩm sẽ dễ dàng bị bỏ qua một cách đáng tiếc. Ví dụ khi tiếp cận Nam quốc sơn hà
mà khơng hiểu sâu chữ đế帝, chữ quốc國 trong cái nhìn lịch đại thì làm sao có thể thấy

đƣợc tầm vóc của tác phẩm. Tiếp cận Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du không so
sánh đƣợc tại sao Nguyễn Du chọn từ khấp泣 chứ không phải từ khốc哭 (mặc dầu hai
chữ này đều chỉ hoạt động khóc) trong câu: Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhƣ thì làm sao
có thể thấy hết đƣợc sự tinh tế khi sử dụng từ ngữ của đại thi hào. Đọc câu thơ Cố nhân
tây từ Hồng Hạc lâu, nếu muốn tìm hiểu tâm trạng luyến nhớ của nhân vật trữ tình
trong buổi chia tay đƣợc kín đáo đan cài trong một câu thơ mà chỉ đọc lƣớt qua phần
dịch nghĩa, ta sẽ chẳng thấy gì ngồi nội dung thơng báo hết sức bình thƣờng, vơ cảm:
Ngối về phía tây, bạn cũ giã từ lầu Hồng Hạc. Những điều này chỉ có thể cảm nhận
đƣợc khi đi sâu và khám phá hệ thống ngôn từ của câu thơ bắt đầu từ chữ "cố nhân "
故人. Rõ ràng với việc cụ Ngô Tất Tố dịch thành bạn cũ chƣa thể lột tả đƣợc những
hàm ý sâu xa của từ này. Đặt nó trong hệ thống những từ có cùng yếu tố cố 故nhƣ: cố
quốc, cố hƣơng, cố quận, cố thổ, cố viên ta mới cảm nhận đƣợc hết bao tình cảm yêu
thƣơng trìu mến trong từ cố nhân. Phải là ngƣời bạn hết sức thâm giao, tri âm tri kỉ
ngƣời ta mới dùng từ cố nhân để gọi nhau. Điều này xuất phát từ tƣ duy hoài cổ, nệ cổ,
sùng cổ của con ngƣời Trung Hoa xƣa. Thế nên dù rằng lúc này đang diễn ra cuộc chia
tay nhƣng tác giả vẫn dùng từ cố nhân để thể hiện tâm tình gắn bó thiết tha của mình.
Khơng hiểu chữ Hán thì làm sao HS có thể hiểu đƣợc sự tinh tế và tài hoa trong câu thơ
chiết tự độc đáo của nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng:
Duyên thiên (天) chƣa thấy nhô đầu dọc(夫)
Phận liễu (了) sao đà nẩy nét ngang (子)
(Không chồng mà chửa)
Hoặc để chứng minh cho sức mạnh tuyên truyền của văn học, GV có thể dẫn câu
ca dao sau:
Trăng xƣa dọi tỏ lòng ngƣời
Treo gƣơng nhật nguyệt cho đời soi chung
Tiếp cận một cách sơ lƣợc cứ tƣởng đây là một bài ca dao đề cập đến tình yêu
nam nữ nhƣng khi dùng phép chiết tự chữ Hán, ta sẽ giúp HS khám phá ra những điều lí
thú về nghệ thuật chơi chữ của tác giả dân gian: Trăng xƣa dịch từ chữ Cổ nguyệt古 月,
500



cổ 古và nguyệt 月ghép lạ thành chữ Hồ胡; lòng ngƣời là thầm nói đến chữ sĩ士 và tâm
心, ghép hai chữ này lại ta có chữ Chí 志; cịn chữ nhật日 và chữ nguyệt 月ghép lại
thành chữ Minh 明Vậy ba chữ chiết tự từ câu ca dao ra là Hồ Chí Minh. Thật tinh diệu
làm sao! Mà cũng thật tài hoa làm sao! Hoặc giả chỉ cần chiết tự một chữ sầu 愁ta có
thể lí giải với HS bao điều về mối quan hệ giữa mùa thu với văn chƣơng. Chữ Sầu 愁
gồm có chữ thu 秋và chữ tâm 心. Mùa thu đậu lên lòng ngƣời ngƣời những nỗi niềm
nên thơ. Thu từ cổ chí kim đều thấm đẫm nỗi buồn. Những bài thơ về mùa thu đƣợc học
trong chƣơng trình đều mang nét chung ấy nhƣ Thu hứng (Đỗ Phủ), Thu điếu (Nguyễn
Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu). Xâu chuỗi những điều ấy lại bằng cách chiết tự
một chữ sầu thiết nghĩ chúng ta đã mở ra trong lòng HS bao suy nghĩ, bao liên tƣởng
thú vị. Còn rất nhiều những áng thơ văn trong quá khứ đã bị chúng ta "bỏ rơi" nhƣ thế
vì một nỗi ta không biết chữ Hán!
Đáng quan tâm hơn là trong quá trình giao tiếp, HS sử dụng từ Hán Việt hết sức
tùy tiện. Vì các em khơng hiểu chính những từ mà mình dùng. Chúng tơi đã từng u
cầu HS trình bày cách hiểu của mình về một số từ Hán Việt. Các em sẽ có những lí giải
hết sức ngơ nghê. Ví dụ: với từ "thiên lệch", các em đã rất thản nhiên giải thích: thiên là
trời, lệch là khơng thẳng. Trời là lực lƣợng siêu nhiên đại diện cho công bằng mà lực
lƣợng ấy lại không ngay thẳng nên từ thiên lệch có nghĩa chung là chỉ việc gì đó khơng
đƣợc đối xử một các cơng bằng!…Ở đây các em đã nhằm lẫn chữ thiên là trời với chữ
thiên mang nét nghĩa là lệch. HS dùng nhầm lẫn từ có yếu tố mãi và mại (khuyến mãi,
khuyến mại; mãi dâm, mại dâm), dùng sai nghĩa từ cứu cánh, không xác định đƣợc nên
dùng trọng tải hay tải trọng, văn hoa hay hoa văn...
Những nguyên nhân khiến cho việc HS hiểu sai những từ ngữ mang yếu tố Hán
hiện nay là:
1. Đồng âm giữa những từ Hán Việt và từ Hán Việt
Ví dụ:
- Thiên天: trời (Thiên hạ, thiên nhiên, thiên lí, thiên địa)
- Thiên千: nghìn (thiên niên kỉ, thiên tuế, thiên thu, thiên lí…)
- Thiên偏: lệch (thiên vị, thiên hƣớng, thiên kiến…)

501


- Thiên遷: dời (thiên di, thiên chuyển, thiên đô….
- Thiên篇: bài (thiên phóng sự, đoản thiên…)
Rõ ràng để hiểu yếu tố "thiên" ta phải nhìn vào tự dạng chữ Hán mới nhận diện
đƣợc sự khác nhau đó. Hiện tƣợng này rất phổ biến trong kho từ vựng tiếng Việt chúng
ta.
2. Đồng âm giữa những từ Hán Việt và từ thuần Việt
Ví dụ: Ngoan 頑 trong ngoan cố, ngoan cƣờng đồng âm với ngoan trong : ngoan
ngoãn, ngoan hiền, phiếu bé ngoan
3. Hiểu lầm hoặc khơng phân biệt rạch rịi các từ Hán Việt gần âm hoặc gần
nghĩa
Ví dụ: Mãi買: mua # mại賣: bán (Khuyến mãi ≠ khuyến mại)
Khi tìm hiểu sâu vấn đề này chúng tơi cịn nhận ra thêm đƣợc một hiện thực nữa:
chính bản thân rất nhiều GV dạy môn Ngữ văn cũng không nắm bắt đƣợc ngữ nghĩa của
những chữ Hán có trong văn bản. Đây là một tình trạng có thực và cũng rất đáng suy
nghĩ. Trong một tiết dạy, GV đã rất thản nhiên khi giảng: Ngay từ tiêu đề bài thơ (Độc
tiểu thanh kí) tác giả đã thể hiện đƣợc sự đồng cảm của Nguyễn Du đối với nàng Tiểu
Thanh khi một mình đọc tập thơ của Tiểu Thanh. Rõ ràng ngƣời giáo viên này đã nhầm
lẫn bởi độc 讀 trong tiêu đề Độc tiểu thanh kí nghĩa là đọc, cịn chữ độc 獨với nghĩa là
một thì lại có tự dạng hồn tồn khác. Chữ độc ấy nằm ở câu thừa đề Độc điếu song tiền
nhất chỉ thƣ (獨吊窗前一紙書)
Nhìn lại quá trình đào tạo sinh viên ngành Sƣ phạm Ngữ văn, chúng ta nhận thấy
số lƣợng tiết học cho mơn Hán Nơm q ít và sinh viên thƣờng cảm thấy không mấy
hứng thú khi học môn này. Các bạn SV thƣờng chỉ dừng lại ở việc nhớ máy móc và "vẽ
chữ" để rồi khi ra trƣờng khơng cịn đọng lại cái gì. Ngun nhân là chỉ vì lên đại học
các bạn SV mới tiếp xúc, khơng có nền tảng căn cơ mà thời gian học tập lại khơng
nhiều. Nên dẫn đến tình trạng giảng viên và SV cùng "cƣỡi ngựa xem hoa," chƣa hiểu
hết Lục thƣ (Sáu cách lập thành Hán tự), chƣa nhớ hết 214 bộ thì đã quay sang phân tích

bộ trong chữ, rồi minh giải nguyên tác chữ Hán của các bài thơ Đƣờng luật, thơ cổ
phong, những đoạn biền văn khó nhƣ: Bình Ngơ đại cáo, Dụ chư tì tướng hịch văn,
Bạch Đằng giang phú… quả thật là việc quá sức. Do vậy để đối phó, SV chỉ cố gắng
nhớ và viết lại cho qua kì thi chứ khơng hiểu gì nhiều. Từ đó dẫn đến tình trạng SV Ngữ
502


văn ra trƣờng, khi thực sự bắt tay vào việc giảng dạy, họ thƣờng không mặn mà lắm với
mảng văn học thời Trung đại Việt Nam và thơ Đƣờng của Trung Quốc vì ở bộ phận văn
học này, GV nắm không chắc bản nguyên tác chữ Hán mà khi đã khơng nắm chắc chữ
Hán thì để so sánh đối chiếu giữa nguyên tác và bản dịch, khai thác những tín hiệu thẩm
mĩ ẩn chứa sau từng con chữ là việc khơng dễ dàng. Nói nhƣ thế, chƣa hẳn với văn học
hiện đại, GV có thể chỉ một cách chính xác những từ Hán Việt có trong văn bản. Đó là
chƣa kể đến những văn bản nhật dụng có sử dụng nhiều từ Hán Việt khó nhƣ: Con
đường trở thành kẻ sĩ hiện đại của Nguyễn Khắc Viện, Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
của Trần Đình Hƣợu, Tư duy hệ thống, nguồn sức sống mới trong việc đổi mới tư duy,
Phan Đình Diệu…
Hiện nay chúng ta chủ trƣơng dạy tiếng Anh cho HS ngay từ lớp ba. Việc đƣợc và
mất của chủ trƣơng này cần tham khảo thêm nhiều ý kiến của các nhà khoa học chuyên
môn. Nhƣng theo thiển nghĩ của chúng tơi, thì thay vì dạy tiếng Anh chúng ta nên dạy
chữ Hán. Vì những lẽ sau: Thứ nhất tiếng Anh đƣợc xây dựng bằng hệ thống kí âm
(ABC) nên để tiếp nhận hệ thống ngôn ngữ này chỉ cần một khoảng thời gian không quá
dài. Nhƣ vậy HS bắt đầu học từ cấp THCS vẫn là không muộn lắm. Thứ hai: Xét về
phƣơng diện văn hóa, chúng ta cần phải hiểu ngôn ngữ dân tộc để thông qua đó hiểu
văn hóa dân tộc. Chỉ khi nào chúng ta có một bản lĩnh văn hóa vững chắc chúng ta mới
có thể tiến vào con đƣờng hội nhập một cách sâu rộng với thế giới mà không lo lắng về
sự lai căn mất gốc, không dửng dƣng trƣớc những giá trị văn hóa mà ơng cha ta để lại
dẫn đến tình trạng: ngƣời nƣớc ngồi khi đến Việt Nam "đều rất kinh ngạc trƣớc tình
trạng ngƣời Việt khơng đọc đƣợc những dòng chữ đề trên các đền đài di tích lịch sử".
Đến đây ta lại càng nhận thấy ý kiến của Nguyễn An Ninh từ những năm đầu của thế kỉ

20 vẫn cịn ngun giá trị: "chỉ có những ngƣời đã hiểu biết vững một nền văn hóa rồi
mới có khả năng thƣởng thức một nền văn hóa ngoại bang".
Vì những lí do trên chúng tơi nghĩ rằng những cơ quan hữu quan nên sớm có một
lộ trình khoa học để nhanh chóng đƣa việc giảng dạy chữ Hán vào nhà trƣờng phổ
thông. Những điều này từng đƣợc nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết đề xuất nhƣ GS Cao
Xuân Hạo đã nhận định "Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa khơng cịn hốn cải
đƣợc nữa, nhƣng ta cịn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán nhƣ
một môn bắt buộc ở trƣờng phổ thông. Ngƣời Việt sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu
không thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt, vốn chiếm tỉ lệ hơn 70% trong vốn từ vựng
tiếng Việt" hay GS Nguyễn Đình Chú trong bài viết Cần khẩn trương khôi phục chữ
Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam đã phát biểu: "thiết tƣởng đã đến lúc cần
đặt vấn đề học chữ Hán trong nền giáo dục phổ thông ở nƣớc ta hiện nay một cách thấu
đáo, có bài bản, có chủ trƣơng kế hoạch hẳn hoi. Nhƣng, muốn làm đƣợc điều đó, lại
503


trƣớc hết cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc học chữ Hán là thế nào trong việc
xây dựng nên văn hóa Việt Nam hiện đại và tƣơng lai". GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng
Trong bài viết Chữ Hán chữ Nơm với thế hệ trẻ, cũng đã có những đề xuất đáng quan
tâm về vấn đề khôi phục việc giảng dạy chữ Hán trong nhà trƣờng phổ thông.
Thật vậy, ngôn ngữ của mỗi dân tộc đều ẩn chứa trong nó linh hồn của dân tộc ấy.
Tiếng Việt chứa đựng linh hồn của ngƣời Việt. Vậy nên là ngƣời Việt Nam nhiệm vụ
giữ gìn tiếng nói của cha ơng là một nhiệm vụ thiêng liêng đã có truyền thống lâu dài từ
xƣa đến nay và cần phải đƣợc quan tâm nhiều hơn trong thời đại ngày nay – thời đại hội
nhập giao lƣu quốc tế một cách rộng khắp. Việc ấy không thể làm đƣợc nếu nhƣ chữ
Hán chƣa đƣợc khôi phục trong hệ thống giáo dục từ bậc PT. Bởi vì ngồi việc giúp HS
sử dụng thật chính xác, linh hoạt vốn ngơn ngữ của dân tộc, nó cịn giúp HS thụ đắc
những thuật ngữ khoa học của các ngành học khác từ đó tiếp cận một cách nhanh chóng
những khái niệm. Đồng thời, một điều đáng quý nữa là với một kho di sản văn hóa
khổng lồ của dân tộc trong quá khứ sẽ có cơ hội đƣợc thế hệ trẻ bảo lƣu và phát huy.


Chú thích:
(1)

Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, NXB GD,
2005
(2)
Chủ đề 4: Từ Hán Việt và những điều lƣu ý khi sử dụng từ Hán Việt (In trong Tài liệu chủ đề tự chọn
nâng cao Ngữ văn 10, Nxb GD, 2006)
(3)
Ngƣời Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu Tiếng việt?, Tuyển tập mƣời năm tạp chí Văn học và
tuổi trẻ, Nxb GD, 2003
(4)

Khấp (泣) là khóc khơng ra tiếng chứ khơng phải khốc (哭) là khóc to. Sự kì khu trong việc chọn chữ

của Nguyễn Du rõ ràng là có ẩn ý. Câu thơ bộc lộ nỗi xót thƣơng, cảm thƣơng - Một nỗi xót thƣơng, cảm
thƣơng xuất phát từ chân tâm chứ không phải là những biểu hiện thuần t hình thức bề ngồi.
5 Ở đây dùng lối chơi chữ chữ Hán. Chữ Thiên 天là trời nhô đầu lên thì thành chữ phu 夫là chồng;

( )

chữ liễu 了là rõ hoặc hết, đồng âm với cây liễu chỉ ngƣời con gái, nếu thêm một nét ngang thì thành chữ
tử 子 là con. Hai câu này ý nói: Gái chƣa chồng mà sao đã có con trong bụng
(6)

Ca dao Nghệ Tĩnh (Dẫn theo tài liệu của Hồng Trọng Canh: Hình thức chơi chữ trong thơ ca dân gian
Nghệ Tĩnh, Ngôn ngữ và đời sống, số 1-2, 2009)
(7)
Khơng phải chỉ có HS sử dụng sai mà cái sai này đƣợc mở rộng ra nhiều đối tƣợng từ các cơ quan

thông tin đại chúng, nhà văn, nhà khoa học… (Xem thêm Từ Hán Việt và những điều lƣu ý khi sử dụng từ
Hán Việt. In trong Tài liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ văn 10, NXBGD, 2006)
(8)
Chữ Tây và chữ Hán thứ chữ nào hơn, (In trong Tiếng Việt, văn Việt, ngƣời Việt, NXB Trẻ, 2003)
(9)
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, in trên báo La Cloche Fêlée, tháng 12-1925

504


(10)

Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ (In trong Tiếng Việt, văn Việt, ngƣời Việt, NXB Trẻ, 2003)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồng Trọng Canh (2009). "Hình thức chơi chữ trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh",
Ngôn ngữ và đời sống, số 1 - 2
2 .Nguyễn Đình Chú (2005), "Cần khẩn trƣơng khôi phục chữ Hán trong nhà trƣờng
phổ thông Việt Nam", tạp chí Hán Nơm, số 2.
3. Cao Xn Hạo (2003), Tiếng Việt, văn Việt, ngƣời Việt, Nxb Trẻ.
4. Nguyễn Quang Hồng (2008), "Chữ Hán chữ Nôm với thế hệ trẻ", Ngôn ngữ và đời
sống, số 12.
5. Nguyễn Ngọc San (2003), "Ngƣời Việt cần bao nhiêu chữ Hán để hiểu sâu tiếng
Việt?", Tuyển tập mƣời năm tạp chí Văn học và tuổi trẻ, Nxb GD.
6. Đặng Đức Siêu (2006), Từ Hán Việt và những điều lƣu ý khi sử dụng từ Hán Việt, Tài
liệu chủ đề tự chọn nâng cao Ngữ văn 10, Nxb GD.
7. Lê Xuân Thại (2005), Từ Hán Việt và việc giảng dạy từ Hán Việt trong sách giáo
khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, Nxb GD.

505




×