Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tích hợp các môn Khoa học xã hội – nhìn từ sách tiếng Việt 3 và đạo đức 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.26 KB, 11 trang )

Khoa Giáo dục Tiểu học,
Trƣờng Đại học Sƣ phạm
TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0973120701
Email:


TÍCH HỢP CÁC
MƠN KHOA HỌC
XÃ HỘI – NHÌN TỪ
SÁCH TIẾNG VIỆT
3 VÀ ĐẠO ĐỨC 3

PHẠM HẢI LÊ

TĨM TẮT
Bài viết bàn đến mối quan hệ giữa môn Tiếng Việt và môn Đạo đức trong việc
thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho HS. Xem xét, đối chiếu các bài Tập đọc trong
sách Tiếng Việt 3 với các bài đạo đức trong sách Đạo đức 3 hiện hành về các phƣơng
diện: mục tiêu, nội dung, số lƣợng, cấu trúc các đơn vị kiến thức, hình thức thể hiện và
phƣơng thức tác động, ngƣời viết cho rằng ở bậc tiểu học, nhất là ở lớp 1, 2, 3, việc tích
hợp nội dung giáo dục đạo đức của SGK mơn này vào SGK Tiếng Việt khơng chỉ có
tính khả thi mà cịn mang đến nhiều lợi ích cho học sinh.
Từ khóa: tích hợp, khoa học xã hội, Tiếng Việt, Đạo đức.
ABSTRACT
Integration in Social Science Subjects
– A perspective from Vietnamese Book 3 and Moral Book 3
This article discusses the relationship between Vietnamese subject and Moral
subject in carrying out the duty of educating moral senses for students. By considering,
comparing reading texts in Vietnamese Book 3 with ones in Moral Book 3 in different
dimensions such as learning objectives and content, quantity , structure of knowledge,


form and modes of impact, I claim that the integration moral content into Vietnamese
language lessons has not only feasibility but also benefits.
Key words: integration, Social Science, Vietnamese language, Moral.

1. Khái niệm tích hợp
313


Grodon Marshall (1994) cho rằng “tích hợp (integration) theo quan điểm xã hội
học là sự liên kết các đơn vị thành tố của một hệ thống, nhờ đó các đơn vị, một mặt, đều
cùng hành chức một cách đồng bộ để tránh gây rối rắm cho cả hệ thống cũng nhƣ khiến
cho hệ thống khơng giữ đƣợc tính ổn định; và mặt khác các đơn vị trong hệ thống còn
tạo đƣợc tác dụng hợp đồng nhằm nâng cao hiệu quả hành chức của toàn bộ hệ thống
với tƣ cách là một thực thể duy nhất” (dẫn theo Bùi Khánh Thế, 2011:1).
Với sức mạnh liên kết các thành tố hữu quan của tích hợp, trong giáo dục, tƣ
tƣởng tích hợp đã trở thành một quan điểm, một triết lí giáo dục. Quan điểm tích hợp
khơng chỉ đƣợc vận dụng để định hƣớng cho hoạt động xây dựng chƣơng trình, biên
soạn tài liệu dạy học mà còn đƣợc vận dụng để tổ chức triển khai các hoạt động dạy
học; và càng ngày, tích hợp càng tỏ rõ sức mạnh của nó.
Ở bài viết này, chúng tôi bàn đến mối quan hệ giữa môn Tiếng Việt và môn Đạo
đức trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho HS, trên cơ sở xem xét, đối
chiếu các bài Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 3 với các bài đạo đức trong sách Đạo đức 3
hiện hành về các phƣơng diện: mục tiêu, nội dung, số lƣợng bài học, cấu trúc các đơn vị
kiến thức, hình thức thể hiện và phƣơng thức tác động, với mong muốn góp thêm một
cứ liệu cho hƣớng biên soạn tích hợp mơn Ngữ văn và mơn Đạo đức của chủ trƣơng
thay đổi chƣơng trình và SGK vào năm 2015 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012).
Lớp 3 là khối lớp kết thúc giai đoạn thứ nhất (lớp 1, 2, 3) để bắt đầu cho giai đoạn
thứ hai (lớp 4, 5) cao hơn cả về kiến thức, kĩ năng và thái độ. Do đó, sách Tiếng Việt 3,
Đạo đức 3 có thể phản ánh khá đầy đủ quan điểm biên soạn, cách thức tổ chức các đơn vị
kiến thức trong từng bài học, từng tuần học, từng học kì,… của mỗi bộ mơn. Chọn các bài

Tập đọc, mà khơng chọn các bài Luyện từ và câu, Chính tả, chúng tơi xuất phát từ lí do
ngữ liệu của Tập đọc cũng nhƣ các phân môn khác của môn Tiếng Việt là các câu, đoạn,
bài chứa đựng các nội dung giáo dục đạo đức nhƣng ngữ liệu trong bài Tập đọc có dung
lƣợng lớn hơn, trọn vẹn hơn. Ngồi ra, thời lƣợng của Tập đọc cũng nhiều hơn; từ Tập
đọc, qua Tập đọc, có thể cho phép ta rút ra những nhận xét hữu quan về vấn đề đang đƣợc
bàn tới một cách khá đầy đủ và thoả đáng.
2. Mục tiêu, nội dung giáo dục của môn Tiếng Việt và Đạo đức
Trong các môn học ở nhà trƣờng phổ thông nói chung và tiểu học nói riêng, Tiếng
Việt là mơn học có tính đặc thù vì nó vừa cung cấp một khối lƣợng kiến thức tinh giản,
cơ bản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng nhằm đáp ứng đƣợc mục tiêu, nhiệm
vụ của môn học lại vừa là công cụ để học tập tất cả các môn học khác. Trẻ em muốn
nắm vững nội dung học tập, hình thành kĩ năng học tập cũng nhƣ hình thành và rèn
luyện các phẩm chất nhân cách, trƣớc hết cần học tập và nắm vững tiếng mẹ đẻ – chìa
khóa của nhận thức, của học vấn, của sự phát triển trí tuệ.
314


Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, một trong những quan điểm quan trọng của việc
biên soạn chƣơng trình và SGK Tiếng Việt hiện hành là quan điểm tích hợp (SGV Tiếng
Việt 5, t1, 2008:6). Nội dung các bài học trong SGK Tiếng Việt, nhất là các bài Tập đọc
đều có sức chuyển tải nội dung giáo dục tình cảm, ý thức, thái độ cho HS; trực tiếp góp
phần giúp các em hiểu đƣợc đời sống xã hội, hiểu đƣợc phong tục tập quán cũng nhƣ lối
sống của ngƣời Việt Nam, hiểu đƣợc truyền thống của cha ông; giúp các em biết tơn sƣ
trọng đạo, biết u thƣơng gia đình, ngƣời thân, thầy cô, bầu bạn; biết ứng xử, biết bảo
vệ môi trƣờng sống,… Do đó, có thể khẳng định nội dung giáo dục đạo đức, nhân cách
cho HS đƣợc hoà quyện, thẩm thấu một cách tự nhiên qua các bài Tập đọc, các giờ Tập
đọc nói riêng và các giờ dạy học Ngữ văn nói chung.
Chƣơng trình giáo dục phổ thơng cấp tiểu học chỉ rõ mục tiêu giáo dục của mơn
Đạo đức ở tiểu học nhằm “giúp HS có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi
đạo đức và chuẩn mực hành vi mang tính pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong quan hệ

của các em với bản thân, với ngƣời khác, với công việc, với cộng đồng, đất nƣớc, nhân
loại; với môi trƣờng tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo các chuẩn mực đó”.
Đồng thời mơn Đạo đức có nhiệm vụ bƣớc đầu “hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá
hành vi của bản thân và những ngƣời xung quanh theo chuẩn mực đạo đức đã học; kĩ
năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và
tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống; bƣớc đầu hình thành thái độ tự trọng, tự tin
vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình; u thƣơng, tơn
trọng con ngƣời; mong muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi ngƣời; yêu cái thiện,
cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu” (tr.117).
Nội dung chƣơng trình dạy học (phần, chƣơng, bài), kế hoạch thời gian dạy học
(số tiết dành cho từng phần, chƣơng, bài) đƣợc hiện thực hoá qua sách giáo khoa.
3. Cấu trúc sách giáo khoa Tiếng Việt và Đạo đức
3.1. Chƣơng trình môn Tiếng Việt lớp 3 đƣợc cơ cấu trong 35 tuần với tổng số 280 tiết
(8 tiết/ tuần) và gồm 6 phân mơn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Kể
chuyện và Tập làm văn.
SGK Tiếng Việt 3 gồm hai tập, đƣợc cấu trúc theo 15 đơn vị học, mỗi đơn vị học
trong 2 tuần gắn với 1 chủ điểm: Măng non (Thiếu nhi), Mái ấm (Gia đình), Tới trƣờng
(Trƣờng học), Cộng đồng (Sống với những ngƣời xung quanh), Quê hƣơng, Bắc Trung - N am, Anh em một nhà (Các dân tộc trên đất nƣớc ta), Thành thị – Nông thôn,
Bảo vệ Tổ quốc, Sáng tạo (Hoạt động khoa học, tri thức), Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao,
Ngôi nhà chung (Các nƣớc, một số vấn đề trên tồn cầu, hịa bình, hữu nghị, hợp tác,
bảo vệ môi trƣờng), Bầu trời và mặt đất (Các hiện tƣợng thiên nhiên, vũ trụ, con ngƣời
với thiên nhiên, vũ trụ). Có thể nói, ngay các tên gọi của các chủ điểm cũng đầy sức gợi
hình dung về những nội dung giáo dục đạo đức, nhƣ giáo dục tình cảm gia đình, bầu
315


bạn, thầy trị; giáo dục tình đồn kết, ý thức bảo vệ môi trƣờng, v.v.
Mỗi tuần học ở lớp 3 đƣợc bố trí 3 bài Tập đọc. Các bài Tập đọc đều đƣợc lựa
chọn phù hợp với chủ điểm để giúp HS hiểu về những sự vật, sự việc, con ngƣời gần
gũi với cuộc sống hàng ngày của các em hoặc chính những hoạt động các em từng trực

tiếp tham gia, qua đó để giáo dục tình cảm, đạo đức cho các em. Chẳng hạn các bài Ai
có lỗi, Khi mẹ vắng nhà, Cơ giáo tí hon,… thuộc chủ điểm Măng non; hoặc Trận bóng
dƣới lịng đƣờng, Các em nhỏ và cụ già,… ở chủ điểm Cộng đồng, v.v.
Các bài Tập đọc trong SGK đều đƣợc sắp xếp theo cấu trúc: (1) Bài đọc  (2)
Giải nghĩa từ ngữ khó  (3) Câu hỏi tìm hiểu bài. Những câu hỏi có tác dụng giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân cách hồ quyện trong câu hỏi tìm hiểu bài, vd: “Vì sao Hai Bà
Trƣng khởi nghĩa?”, “Vì sao bao đời nay nhân dân ta tơn kính Hai Bà Trƣng?” (TV3,
t.2, tr.5), “Nhân dân làm gì để tỏ lịng biết ơn Chử Đồng Tử”, (Sđd, tr.65), v.v.
3.2. Chƣơng trình mơn Đạo đức cũng đƣợc thiết kế trong 35 tuần với thời lƣợng mỗi
tuần 1 tiết. Tƣơng ứng, SGK Đạo đức gồm 14 bài, 2 tuần 1 bài, đƣợc trình bày theo cấu
trúc: (1) Tranh và hoặc truyện hoặc tình huống có nội dung đạo đức;  (2) Bài tập, thực
hành, câu hỏi, nhằm giúp HS tìm tịi cách thức giải quyết các tình huống  (3) Ghi nhớ
nội dung hành vi, chuẩn mực đạo đức.
Các thông tin cung cấp cho HS gồm các sự việc, sự kiện liên quan đến chuẩn mực
hành vi đạo đức thơng qua các bài: Kính u Bác Hồ; Giữ lời hứa; Tự làm lấy việc của
mình; Quan tâm, chăm sóc ơng bà, cha mẹ, anh chị em; Chia sẻ vui buồn cùng bạn;
Tích cực tham gia việc lớp, việc trƣờng; Quan tâm, giúp đỡ hàng xóm láng giềng; Biết
ơn thƣơng binh liệt sĩ; Đoàn kết với thiếu nhi quốc tế; Tơn trọng khách nƣớc ngồi; Tơn
trọng đám tang; Tôn trọng thƣ từ tài sản của ngƣời khác; Tiết kiệm và bảo vệ nguồn
nƣớc; Chăm sóc cây trồng, vật nuôi.
4. Giáo dục đạo đức trong sách “Đạo đức 3” so với “Tiếng Việt 3”
4.1. Nội dung giáo dục đạo đức
Nội dung giáo dục đạo đức cho HS trong sách Đạo đức 3 xoay quanh các vấn đề
giúp HS có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù
hợp với lứa tuổi HS lớp 3 trong các mối quan hệ của HS với những ngƣời thân trong gia
đình; với bạn bè và công việc của lớp, của trƣờng; với những ngƣời có cơng với đất
nƣớc, với dân tộc, với hàng xóm láng giềng, với bạn bè quốc tế; với cây trồng, vật ni
và nguồn nƣớc. Giúp HS từng bƣớc hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá đối với
những quan niệm, hành vi, việc làm có liên quan đến các chuẩn mực đã học, kĩ năng lựa
chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các tình huống đơn

giản cụ thể của cuộc sống.
Cịn trong SGK Tiếng Việt, các bài Tập đọc không chỉ giúp HS cảm nhận đƣợc cái
316


hay, cái đẹp của ngôn từ, cung cấp vốn từ, cách diễn đạt mà còn trực tiếp giáo dục đạo
đức cho các em. Bởi lẽ nội dung các văn bản của tất cả các bài Tập đọc đều xoay quanh
các chủ điểm có là những vấn đề về con ngƣời, xã hội, tổ quốc đƣợc trình bày với các
tên gọi Măng non, Mái ấm, Tới trƣờng, Bắc - Trung - Nam, Anh em một nhà, Thể thao,
Ngôi nhà chung, Bầu trời và mặt đất,… gần gũi, giản dị, phù hợp với âm sinh lí HS lớp
3, đồng thời kế tục và phát triển các chủ điểm ở lớp dƣới, nhƣ Em là học sinh, Gia đình,
Thiên nhiên đất nƣớc,… Và cũng vì thế, mà qua giờ Tập đọc GV hồn tồn có thể thực
hiện nội dung giáo dục HS rèn luyện hành vi đạo đức và thói quen hành vi đạo đức một
cách tự nhiên khơng gị bó, khơng khiên cƣỡng.
4.2. Những điểm tương đồng và khác biệt
4.2.1. Về số lƣợng và nội dung bài đọc, dựa theo nội dung giáo dục đạo đức ở ở sách
Đạo đức 3, tiến hành thống kê các bài học, các truyện đọc trong SGK Tiếng Việt 3, Đạo
đức 3, chúng tôi thu đƣợc kết quả sau:
Bảng 1: Số lƣợng bài đọc ở từng chủ điểm giáo dục đạo đức
Chủ điểm

Stt

Tập đọc

Đạo đức

1

Giáo dục tình cảm đối với lãnh tụ


2

1

2

Giáo dục ý thức cơng dân

56

4

3

Giáo dục tình cảm gia đình

11

1

4

Giáo dục ý thức cộng đồng

19

2

5


Giáo dục lòng biết ơn

26

1

6

Giáo dục tinh thần quốc tế

3

1

7

Giáo dục truyền thống

16

1

8

Giáo dục ý thức, hành vi bảo vệ môi trƣờng

5

2


138

13

Cộng

Số liệu ở bảng trên cho thấy 8 nội dung giáo dục đạo đức của chƣơng trình giáo
dục đạo đức cho HS lớp 3 đều có thể tìm thấy ở trong các bài Tập đọc. Cũng cần mở
ngoặc nói thêm là sự phân loại trên có tính tƣơng đối. Bởi lẽ nhờ đặc thù của văn
chƣơng, trong một bài Tập đọc thƣờng có khả năng chuyển tải nhiều nội dung giáo dục
Chẳng hạn, bài Ai có lỗi (Tiếng Việt 3, tập 1) khơng chỉ giáo dục ý thức tình cảm, quan
317


hệ với bạn bè, nhƣ phải biết nhƣờng nhịn bạn, cƣ xử tốt với bạn, mà còn giáo dục hành
vi đạo đức cho HS – hành vi dũng cảm nhận lỗi khi trót cƣ xử khơng tốt với bạn. Hoặc
với bài Bài hát trồng cây (Tiếng Việt 3, tập 2) bên cạnh nội dung giáo dục tình u lao
động, cịn giáo dục ý thức và hành vi bảo vệ môi trƣờng bằng hành động cụ thể – hành
động tích cực trồng cây.
Các ngữ liệu dạy học Tập đọc ở lớp 3 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân cách. Các ngữ liệu ấy có thể là một bài thơ, một mẩu chuyện
hoặc một văn bản hành chính, một văn bản khoa học thƣờng thức chứa đựng nội dung
cung cấp cho HS những tri thức về con ngƣời, xã hội, môi trƣờng. Các bài Tập đọc,
không chỉ những bài thuộc thể loại văn chƣơng, mà ngay cả những bài thuộc các thể
loại phong cách chức năng khác nhƣ văn bản khoa học thƣờng thức, văn bản hành chính
cũng có tác dụng giáo dục đạo đức cho HS. Đơn cử bài Đơn xin vào Đội (Tiếng Việt 3,
tập 1, tr.9), ở bài này, bên cạnh nội dung hƣớng dẫn cho HS biết thể thức của một văn
bản hành chính, GV cịn trực tiếp giáo dục, bồi dƣỡng cho HS tinh thần trách nhiệm và
ý thức đội viên, thành viên – ý thức công dân.

Số liệu thống kê ở bảng 1 cũng cho thấy số bài Tập đọc có nội dung giáo dục ở
từng nội dung đều hơn hẳn số bài ở sách Đạo đức. Điều này dễ giải thích: mơn Tiếng
Việt chiếm thời lƣợng lớn nhất trong chƣơng trình các mơn ở tiểu học. Với số lƣợng bài
vƣợt trội 10,6 lần của SGK Tiếng Việt (do tính “tích hợp ngang” trong nội dung mơn
Tiếng Việt, nếu thống kê cả những bài ở các phân môn Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện
từ và câu, Chính tả thì số lƣợng cịn vƣợt xa hơn rất nhiều), cũng đủ để cho thấy ƣu thế
chuyển tải nội dung giáo dục đạo đức của SGK Tiếng Việt.
Hơn nữa, phân môn Tập đọc, nhờ ƣu thế về thời lƣợng, ƣu thế về đặc thù bộ mơn
mà nó cịn bao chứa cả những nội dung giáo dục đạo đức cho HS mà ở các bài học ở
sách Đạo đức khơng có, nhƣ giáo dục tình yêu quê hƣơng, đất nƣớc (Tiếng ru, Giọng
quê hƣơng, Quê hƣơng, Đất quý đất yêu, Vẽ quê hƣơng, Nắng phƣơng Nam, Cảnh đẹp
non sơng….); giáo dục tình đồng đội, tình quân dân (Bộ đội về làng, Ở lại với chiến khu,
Chú ở bên Bác Hồ, Trên đƣờng mịn Hồ Chí Minh,…); tình u lao động (Khi mẹ vắng
nhà, Bận, Ông tổ nghề thêu, Nhà bác học và bà cụ, Bài hát trồng cây,…); ý thức sáng
tạo (Ông tổ nghề thêu, Bàn tay cơ giáo, Ngƣời trí thức u nƣớc, Cái cầu, Chiếc máy
bơm,…); tình đồn kết giữa các dân tộc (tập trung ở chủ điểm Anh em một nhà, với các
bài tập đọc, nhƣ Ngƣời liên lạc nhỏ, Một trƣờng tiểu học ở vùng cao, Nhà rông ở Tây
Nguyên,…), v.v.
4.2.2. Về hình thức thể hiện, thống kê hình thức thể hiện của các bài Tập đọc trong SGK
Tiếng Việt 3 và các bài học trong Vở bài tập Đạo đức 3 theo các thể loại (truyện, thơ,
tình huống, tranh vẽ,…), chúng tôi thu đƣợc kết quả sau:

318


Bảng 2: Hình thức thể hiện của các bài Tập đọc và Đạo đức
Hình thức thể hiện
H.th
Mơn


Tranh
Truyện

Thơ

VBHC

VBKH

Tình huống
(tình huống)

Đạo đức

7

0

0

0

14

14

Tập đọc

52


30

2

10

0

0

(Tranh ở các bài Tập đọc là để minh họa cho một nội dung bài hoặc minh họa cho
chủ điểm, cịn tranh ở Đạo đức là bài tập tình huống yêu cầu HS giải quyết, hƣớng tới
mục đích giáo dục đạo đức)
Hình thức giáo dục đạo đức của Tập đọc và Đạo đức có điểm chung đó là thơng
qua một câu chuyện để giáo dục cho HS các chuẩn mực hành vi, nhận thức xã hội. Tuy
vậy, nhƣ đã nói ở trên, do đặc trƣng phân mơn nên hình thức tổ chức dạy học của Tập
đọc và Đạo đức cũng có điểm khác biệt, có những hình thức chỉ có ở phân mơn Đạo đức
mà khơng có ở phân mơn Tập đọc và ngƣợc lại. Chẳng hạn, ở môn Tập đọc, khơng chỉ
có truyện, mà cịn các bài thơ, các văn bản hành chính, văn bản khoa học thƣờng thức
cũng tham gia vào “thế trận” giáo dục đạo đức. Còn sách Đạo đức, với nhiệm vụ giáo
dục ý thức đạo đức, chuẩn mực đạo đức, hành vi đạo đức cho HS, bên cạnh hình thức
chuyện kể là những bài tập tình huống, là hệ thống tranh ảnh nhằm nêu vấn đề để HS
suy nghĩ, phát hiện nội dung bài học. Chẳng hạn bài Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nƣớc,
bài tập 1 và 2 trong SGK nêu ra một hệ thống tranh ảnh yêu cầu HS nêu lên đƣợc tác
dụng của nƣớc, các hành vi đúng và chƣa đúng khi sử dụng nguồn nƣớc (Đạo Đức 3, tr.
42). Ngoài ra, ở Đạo đức phần ghi nhớ chốt lại nội dung giáo dục đạo đức đƣợc trình
bày ngắn gọn dƣới dạng văn xuôi, văn vần, danh ngôn hoặc ca dao tục ngữ. Ví dụ trong
bài Biết ơn thƣơng binh liệt sĩ có phần ghi nhớ nhƣ sau: “Uống nƣớc nhớ nguồn. Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây (Tục ngữ)” (Đạo đức 3, tr. 26). Sách Tiếng Việt tuy khơng có bài
tập tình huống đạo đức, khơng có những ghi nhớ đạo đức, nhƣng những câu ca dao, tục

ngữ có giá trị giáo dục đạo đức cao, nhƣ Công cha nhƣ núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ nhƣ
nƣớc trong nguồn chảy ra, Ăn vóc học hay, Uống nƣớc nhớ nguồn, Thƣơng ngƣời nhƣ
thể thƣơng thân, Kính già nhƣờng trẻ,… đều dễ dàng tìm thấy trong các bài học ở SGK
Tiếng Việt. Mặt khác, trong nội dung bài đọc và hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài đều hàm
chứa việc giáo dục ý thức đạo đức cho HS.
4.2.3. Về phƣơng thức tác động, các nghiên cứu về giáo dục đạo đức đều chỉ rõ quá
trình hình thành thói quen đạo đức trải qua 4 giai đoạn: (1) Tri thức đạo đức  (2) Tình
cảm đạo đức  (3) Hành vi đạo đức  (4) Thói quen hành vi đạo đức. SGK Tiếng Việt
319


và SGK Đạo đức đều cùng trực tiếp tham gia vào giai đoạn khởi đầu và giai đoạn thứ 2
và gián tiếp tham gia vào giai đoạn 3, 4. Tuy nhiên, phƣơng thức tác động không nhƣ
nhau. Ở SGK Tiếng Việt, nội dung giáo dục đạo đức đƣợc tác động một cách gián tiếp,
HS “tự thẩm thấu”. Chính sự tự thẩm thấu sẽ khiến tình cảm đạo đức, hành vi đạo đức
và nội dung đạo đức qua các bài Tập đọc sẽ có điều kiện để có thể đƣợc hình thành,
đƣợc “bám rễ” bền vững. Ví dụ bài Chiếc áo len (Tiếng Việt 3, tập 1) thông qua câu
chuyện của hai anh em Tuấn và Lan giáo dục HS lòng thƣơng yêu, biết nhƣờng nhịn,
quan tâm đến anh, chị em của mình. Hoặc qua nội dung câu chuyện trong bài Buổi học
thể dục (Tiếng Việt 3, tập 2) là ca ngợi sự quyết tâm vƣợt khó của một HS bị khuyết tật
nhằm giáo dục cho HS về ý thức cá nhân, biết tự nhận thức xác định giá trị của bản
thân, biết mục tiêu định hƣớng rõ ràng và biết thể hiện sự tự tin của mình trong cơng
việc, biết thể hiện sự yêu thƣơng, cảm thông và chia sẻ với bạn bè. Mặt khác, với số
lƣợng gấp 10.6 lần, các nội dung giáo dục đạo đức của các bài Tập đọc nhờ đó đƣợc lặp
lại, đƣợc củng cố nhƣng khơng nhàm chán nhờ hình thức chuyển tải phong phú của nó.
Nếu các bài Tập đọc tham gia giáo dục đạo đức một cách gián tiếp thì các bài học
trong SGK Đạo đức 3 lại tác động đến HS theo phƣơng thức trực tiếp thông qua hệ
thống các bài tập. Ví dụ bài tập 4 trong bài Quan tâm, chăm sóc ơng bà, cha mẹ, anh chị
em, u cầu HS thảo luận và đóng vai theo các tình huống: “1. Lan đang ngồi học trong
nhà thì thấy em bé chơi trị chơi nguy hiểm ở ngồi sân (nhƣ trèo cây, nghịch lửa, chơi ở

bờ ao,…). Nếu em là bạn Lan, em sẽ làm gì? 2. Ơng của Huy có thói quen đọc báo hàng
ngày. Nhƣng mấy hôm nay ông bị đau mắt nên không đọc báo đƣợc. Nếu em là bạn
Huy, em sẽ làm gì? Vì sao?”. Hoặc trong bài Quan tâm, giúp đỡ hàng xóm láng giềng,
có bài tập yêu cầu HS bày tỏ ý kiến của mình (tán thành/ phân vân/ không tán thành)
trƣớc những việc làm đối với hàng xóm láng giềng,... Cách thức tác động trực tiếp giúp
tiết kiệm đƣợc thời gian trong điều kiện “bùng nổ thơng tin” hiện nay. Nhƣng cũng
chính phƣơng thức này, ở phạm vi đang bàn đến, mang lại cảm giác “giáo diều”, “ép
buộc” (xin mở ngoặc nói thêm: ngay hệ thống tên chủ điểm cũng gây cảm giác này,
điều này khác với sách Tiếng Việt, xin xem bảng thống kê 3 - So sánh trình tự các chủ
điểm trong sách Đạo đức 3 và Tiếng Việt 3).
4.2.4. Tính tƣơng ứng về thời điểm dạy học, theo chúng tôi, cũng là một vấn đề rất đáng
lƣu tâm. Bởi lẽ một nội dung giáo dục đạo đức sẽ có cơ hội để hình thành, để “bám rễ”
khi ngƣời đƣợc giáo dục có cơ hội, có điều kiện trải nghiệm nó ở hồn cảnh khác, mơi
trƣờng khác. Bài học về tình u gia đình, về lịng biết ơn sẽ có cơ hội để khắc sâu vào
tâm trí trẻ khi trẻ khơng chỉ đƣợc học qua 1, 2 truyện kể trong sách Đạo đức mà trẻ còn
đƣợc học qua các bài thơ, bài văn trong sách Tiếng Việt. Một số nội dung giáo dục đƣợc
thực hiện khá đồng thời ở cả hai môn. Vd ở tuần 7, 8, các bài đọc trong Tiếng Việt 3 có
nội dung giáo dục cho HS về ý thức cộng đồng, ý thức công dân thông qua các bài Tập
đọc nhƣ Trận bóng dƣới lịng đƣờng, Lừa và ngựa, Bận, Các em nhỏ và cụ già, Tiếng
320


ru… Nội dung giáo dục đạo đức ở SGK Đạo đức ở thời điểm tƣơng ứng là Chia sẻ vui
buồn cùng bạn (bài 5), Tích cực tham gia việc lớp việc trƣờng (bài 6) và Quan tâm giúp
đỡ hàng xóm láng giềng (bài 7). Hoặc ở chủ điểm Ngôi nhà chung ở tuần 30, 31, Tiếng
Việt 3 giáo dục cho HS bảo vệ môi trƣờng qua các bài nhƣ Một mái nhà chung, Bài hát
trồng cây, Con cò,… tƣơng ứng với nội dung giáo dục tiết kiệm và bảo vệ nguồn nƣớc,
Chăm sóc vật ni, cây trồng ở SGK Đạo đức.
Bảng 3: So sánh trình tự các chủ điểm trong sách Đạo đức 3 và Tiếng Việt 3
NỘI DUNG CHỦ ĐIỂM

Stt
Đạo đức

Tiếng Việt

1

Kính yêu Bác Hồ

Măng non

2

Giữ lời hứa

Mái ấm

3

Tự làm lấy việc của mình

Tới trƣờng

4

Quan tâm chăm sóc ơng bà, cha mẹ, anh chị em

Cộng đồng

5


Chia sẻ vui buồn cùng bạn

Quê hƣơng

6

Tích cực tham gia việc lớp, việc trƣờng

Bắc - Trung - Nam

7

Quan tâm giúp đỡ hàng xóm láng giềng

Anh em một nhà

8

Biết ơn thƣơng binh liệt sĩ

Thành thị - Nơng thơn

9

Đồn kết với thiếu nhi quốc tế

Bảo vệ Tổ quốc

10


Tơn trọng khách nƣớc ngồi

Sáng tạo

11

Tơn trọng đám tang

Nghệ thuật

12

Tôn trọng thƣ từ, tài sản của ngƣời khác

Lễ hội

13

Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nƣớc

Thể thao

14

Chăm sóc cây trồng vật ni

Ngơi nhà chung

15


(khơng có)

Bầu trời và mặt đất

Qua bảng 3, ta có thể thấy giữa 2 mơn, khơng chỉ có sự tƣơng ứng về nội dung
321


giáo dục đạo đức mà cịn có sự tƣơng ứng về trình tự các nội dung và về thời điểm dạy
học. Chẳng hạn, các bài Tập đọc thuộc chủ điểm Tới trƣờng, do thế mạnh của văn
chƣơng nên nó có khả năng chứa đựng cả nội dung giáo dục ý thức trách nhiệm của
công dân; các bài đọc thuộc chủ điểm Anh em một nhà có thể bao chứa nội dung giáo
dục ý thức cộng đồng thông qua việc quan tâm giúp đỡ hàng xóm láng giềng; hoặc các
bài thuộc chủ điểm Ngôi nhà chung chứa đựng nội dung giáo dục bảo vệ môi trƣờng,…
5. Một vài ý kiến bàn luận
Nhƣ những cấp học khác, ở tiểu học, mỗi môn học có mục tiêu, nhiệm vụ và cách
thức thực hiện riêng. Song khơng thể khơng thừa nhận thực trạng có những mơn có
những mối quan hệ rất mật thiết, nhƣ Đạo đức và Ngữ văn. Nhiều nghiên cứu về
chƣơng trình và sách giáo khoa cũng chỉ rõ ở các lớp càng thấp thì tích tích hợp càng
cao (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2012). Cứ liệu của sự tƣơng liên về chƣơng trình, SGK,
nội dung, mục đích, nhiệm vụ, thời điểm dạy học, của SGK Tiếng Việt 3 và VBT Đạo
đức 3, nhƣ đã trình bày ở các mục 2, 3, 4, cho thấy tích hợp nội dung giáo dục đạo đức
qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn của mơn Tiếng Việt là một cơng việc hồn
tồn có tính khả thi. Bởi lẽ do đặc thù của môn Tiếng Việt, môn học gồm nhiều phân
môn (Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn) với hệ thống ngữ
liệu phong phú, khơng chỉ có giá trị cho dạy học Ngữ văn mà cịn có tác dụng to lớn
trong việc giáo dục nhận thức chuẩn mực đạo đức, hành vi đạo đức, v.v. Hơn nữa, các
bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn (nhƣ đã thống kê và trình bày ở mục 4.2.1.) có
khả năng chuyển tải nhiều bài học giàu giá trị nhân sinh mà truyện kể và bài tập tình

huống trong sách Đạo đức khơng có. Hiệu quả của cách thức tác động gián tiếp hay trực
tiếp để hình thành tình cảm đạo đức, hành vi đạo đức cho HS của các bài Tập đọc so với
các bài học đạo đức trong sách Đạo đức nhƣ đã nêu ở mục 2.2.3, tuy chƣa có nghiên
cứu nào thống kê, đánh giá, bàn luận; nhƣng ta có thể suy đốn: SGK Tiếng Việt sẽ
giúp GV thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức hiệu quả hơn, bền vững hơn so với
SGK đạo đức. Bởi lẽ, qua sách Tiếng Việt, GV thực hiện giáo dục đạo đức cho HS một
cách tự nhiên nhi nhiên, không ép buộc, giáo điều. Mặt khác, sách Tiếng Việt còn giúp
GV thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức với tần suất cao và đƣợc chuyển tải bằng
nhiều hình thức phong phú hơn, lơi cuốn hơn.
Ngồi ra, những khác biệt về hình thức thể hiện của sách dạy học Đạo đức nhƣ
“bài tập tình huống”, “tranh tình huống” so với sách Tiếng Việt, đều hồn tồn có thể
thể hiện đƣợc trong sách Tiếng Việt.
Đến đây, ta có thể nói rằng ở bậc tiểu học, nhất là ở lớp 1, 2, 3, việc tích hợp nội
dung giáo dục đạo đức của SGK môn này vào SGK Tiếng Việt không chỉ có tính khả thi
mà cịn mang đến nhiều điều hữu ích, nhƣ tránh đƣợc tình trạng thiếu lơgic, chồng chéo
nhàm chán; tránh đƣợc sự lãng phí từ khâu in ấn, nhân bản đến khâu tổ chức dạy học, tổ
322


chức các hoạt động rèn luyện hành vi và thói quen đạo đức cho HS, v.v. Trong xây
dựng chƣơng trình và biên soạn SGK, việc tích hợp mơn Đạo đức với mơn Ngữ văn nói
riêng, và tích hợp các mơn học nói chung theo hƣớng tích hợp đa mơn
(Multidisciplinary Integration), tích hợp liên mơn (Interdisciplinary Integration), tích
hợp xun mơn (Transdisciplinary Integration) để khả thi, thì cần có một tổng chủ biên.
Tổng chủ biên sẽ là vị “nhạc trƣởng” hƣớng dẫn tập thể các tác giả biên soạn đƣợc
những cuốn sách tích hợp có giá trị, thiết thực cho cơng cuộc đổi mới chƣơng trình và
sách giáo khoa sắp tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Chƣơng trình Giáo dục phổ thơng cấp Tiểu học, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2010), SGK, SGV Tiếng Việt 3, (tập 1, 2), Nxb GD, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2011), VBT, SGV Đạo đức 3, Nxb GD, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2012), Kỉ yếu Hội thảo Khoa học “Dạy học tích hợp - dạy
học phân hố trong chƣơng trình Giáo dục Phổ thơng”, Tp.HCM.
5. Bùi Khánh Thế (2011), Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc dạy Tiếng Việt nhƣ
ngôn ngữ thứ hai, Trƣờng Đại học Ngoại ngữ và Tin học, Tp. HCM,
www.vns.edu.vn/vns/images/Ky_yeu.../1.%20bui%20khanhthe.pdf
6. Hồng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học Tiếng Việt, Phần 1, Nxb Thời đại,
Tp.HCM.
7. Hoàng Thị Tuyết (2012), “Đào tạo – dạy học theo quan điểm tích hợp: chúng ta đang
ở đâu?”, Kỷ yếu Hội thảo Dạy học tích hợp ở tiểu học: hiện tại & Tƣơng lai, Trƣờng
ĐHSP.Tp.HCM, p.13-30.
8. Lê Thị Thanh Chung (2008), Dạy học môn Đạo đức ở tiểu học, NXB GD, Tp.HCM.
9. Nhóm nghiên cứu Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2012), Đề xuất phƣơng án
tích hợp và phân hố trong chƣơng trình Giáo dục Phổ thơng, Kỉ yếu Hội thảo Khoa
học “Dạy học tích hợp – dạy học phân hố trong chƣơng trình Giáo dục Phổ thơng”,
Tp.HCM.

323



×