Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tâm Lý Học Lao Động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.29 KB, 32 trang )

MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về xã hội, trên đất nước ta từ thành thị đến nơng
thơn đều có sự thay đổi, chuyển biến về chất trong lĩnh vực sản xuất, văn hoá, xã hội. Những như
cầu như: Nhu cầu xã hội; Nhu cầu nhận thức; Nhu cầu về thẩm mỹ; Nhu cầu được thể hiện mình
trong mơi trường làm việc học tập cũng quan trọng như những nhu cầu cơ bản của con người vậy
đòi hỏi sự thỏa mãn kịp thời và đầy đủ.
Tuy nhiên, những nhu cầu nảy sinh trong q trình hoạt động và nguyện vọng chính đáng
này còn chưa được quan tâm đúng mức cũng như chưa được đáp ứng đầu đủ trong môi trường
làm việc không chỉ của các xí nghiệp cơng nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp mà ngay
chính trong mơi trường sư phạm.

1


Chính vì thế việc tìm hiểu yếu tố thẩm mĩ trong lao động là vô cùng cần thiết không chỉ
nhằm thỏa mãn nhu cầu người lao động tạo động cơ làm việc tích cực cho người lao động. Qua
đó, cịn là tạo môi trường làm việc khoa học phát triển quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất có
chất lượng và góp phần nâng cao năng suất lao động. Nhất là trong hoạt động giáo dục việc phát
huy những tác dụng của những yếu tố thẩm mĩ như màu sắc, âm nhạc…trong việc dạy và học có ý
nghĩa lớn lao trong việc truyền thụ tri thức, kĩ năng kĩ xảo cũng như khả năng tổ chức việc dạy
học của giáo viên với việc lĩnh hội của học sinh, sinh viên, đặc biệt là nội dung giáo dục thẩm mĩ.
Tất cả những lý do đó, đã dẫn tơi tới đề tài: “Tìm hiểu yếu tố thẩm mĩ trong lao động và ứng
dụng của chúng trong hoạt động giáo dục.”

II. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan về yếu tố thẩm mĩ trong lao động
2.1.1. Khái niệm về lao động và yếu tố thẩm mĩ trong lao động
a) Khái niệm về lao động
Trong cuốn Tư bản, Các Mác đã viết: "Lao động là một quá trình diễn ra giữa con người và


tự nhiên, là quá trình mà trong đó con người bằng hoạt động của bản thân mình sử dụng phương
tiện, điều chỉnh và kiểm tra sự trao đổi vật chất giữa bản thể và tự nhiên."
Lao động là hoạt động cơ bản của con người và là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại xã hội
lồi người. Chỉ nhờ có lao động con người mới tạo ra được những cơ sở vật chất và tinh thần cần
thiết cho đời sống của chính mình và của xã hội. Mọi sản phẩm của xã hội như chúng ta thấy, từ
khoa học, nghệ thuật, chính trị tới cơm, ăn, áo mặc ... tất cả đều do lao động của con người tạo ra.
Bởi vây, lao động trở thành thuộc tính bản chất của con người và sự khác biệt giữa con người với

2


loài vật được thể hiện rõ rệt nhất ở thuộc tính này.
Lao động là một phạm trù xã hội, nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả cho sự tồn tại của xã
hội loài người cũng như sự phát triển của chính bản thân con người. Bởi trong quá trình cùng
nhau lao động, những mối quan hệ xã hội giữa con người với con người được hình thành và mỗi
con người chắt lọc từ những chuẩn mực chung nhất của các mối quan hệ xã hội đó thiết lập cho
mình một bộ mặt nhân cách riêng. Ph.Ăngghen viết: "Điều kiện cơ bản đầu tiên của cuộc sống
con người và thêm nữa, trong chừng mực đó chúng ta có thể nói rằng lao động đã sáng tạo ra
chính con người"
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị
tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước. (Trích từ lời mở đầu Luật lao động)
Lao động là một mối đồng quy giữa mọi mối quan hệ qua lại giữa:
-

người và tự nhiên

-

người và máy


-

người và người.

Con người sống trên trái đất có nghĩa vụ và quyền lợi tham gia lao động mà thực chất là đem
sức lực tinh thần và vật chất của mình tác động vào tự nhiên nhằm tăng cường và chế biến của cải
trên trái đất. Trong quá trình lao động đó, những người lao động lại có quan hệ qua lại với nhau
nhằm thúc đẩy quan hệ ngày càng thu được hiệu quả cao hơn. Rõ ràng, yếu tố tâm lý con người có
liên quan mật thiết với lao động. Người lao động, kể cả người lao động đơn giản, đặc biệt là người
quản lý tổ chức lao động rất cần những kiến thức về tâm lý học và càng cần biết vận dụng những
yếu tố tâm lý vào lao động.
- Vai trò của lao động trong cuộc sống con người:
+ Lao động là loại hoạt động đặc trưng của con người.
+ Lao động sáng tạo ra chính bản thân con người.

3


+ Lao động thúc đẩy sự phát triển thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân.
+ Lao động là nguồn gốc của sự phồn thịnh xã hội cũng như của từng thành viên.
b) Khái niệm về yếu tố thẩm mĩ trong lao động
Yếu tố thẩm mĩ trong lao động được hiểu là những giá trị tác động tới tâm lý người lao động,
hiệu quả sản xuất và an toàn lao động...Trong lao động khơng chỉ có một mà có thể có nhiều yếu
tố thẩm mĩ cùng tham gia. Việc đưa các yếu tố thẩm mỹ vào lao động sản xuất là một biện pháp
có hiệu quả lớn nhằm hạ thấp sự mệt mỏi và nâng cao năng suất lao động. Có hai yếu tố thẩm mỹ
quan trọng được đưa vào trong lao động sản xuất: Màu sắc và âm nhạc.
2.1.2. Màu sắc trong lao động sản xuất
Các cơng trình nghiên cứu sinh lý học và tâm lý học hiện đại cho rằng cơ quan thị giác là cơ
quan thu nhận khoảng 90% lượng thơng tin từ bên ngồi vào não. Vì vậy việc thẩm mỹ hố mơi

trường sung quanh con người phải được thực hiện để có thể tác động được nhiều qua chi giác
nhìn.

Màu sắc là một trong những phương tiện gây tác động xúc cảm đến con người mạnh nhất,
gây ảnh hưởng đến cảm giác của con người, đến sinh lý của con người, đến sức làm của con
người, đến trạng thái tâm lý, đến tâm trạng con người, đến kết quả lao động của con người cả về
mặt số lượng lẫn chất lượng.
- Ảnh hưởng của màu sắc đến con người được thể hiện trên bảng sau:
Màu

Trắng
Xám nhạt

Tác động tâm - sinh lý hay cảm giác liên tưởng được tạo ra
Kích

Nặng

Thanh

thích

nề

thản

Nóng Lạnh

Nhẹ


X

X

Nặng

Xa

Gần

X

4


Xám sẫm

X

X

Đen

X

X

Đỏ

X


X

Da cam

X

X

Vàng

X

X

X

X
X

Lục

X

X

Lam

X


X

Chàm
Tím

X

X

X
X

X

X

X

X

X

X

X

X

Ở nhiều nước hướng nghiên cứu sử dụng màu sắc trong lao động được quan tâm nghiên cứu
nhiều. Trên cơ sở nghiên cứu các nhà tâm lý học đã nêu lên những vai trò của màu sắc trong lao

động sản xuất và các nguyên tắc trong việc sử dụng màu sắc sau:
- Màu đỏ là màu gây ra cảm giác nóng, bức xạ của màu đỏ xuyên vào trong các tế bào của
cơ thể. Màu đỏ làm tăng sức căng của các bắp thịt, do đó làm tăng huyết áp và làm tăng nhịp tim.
Màu đỏ là màu của sinh lực hành động, nó có ảnh hưởng lớn đến tâm trạng của con người theo
hướng đó. Trong cơng việc màu đỏ có ý nghĩa báo hiệu nguy hiểm bức xạ, năng lượng nguyên tử,
cháy, dừng lại.
- Màu da cam là màu rực rỡ, hăng say. Vì màu này có tác dụng làm nóng vừa có tác dụng
kích thích. Trong cơng việc mầu da cam có ý nghĩa báo hiệu nguy hiểm với nhiệt độ cao, thông
báo " chú ý - nguy hiểm ".
- Màu vàng là màu của sự tươi vui, sảng khối. Màu này có độ sáng cao nhất trong quang
phổ, gây kích thích đối với thị giác. Những sắc điệu khác nhau của màu vàng có khả năng làm dịu
bớt trạng thái thần kinh quá căng thẳng, màu vàng còn được sử dụng để chữa bệnh thần kinh.
Trong công việc mầu vàng báo hiệu nguy hiểm cơ học, sơn những vật sắc nhọn, động cơ máy,
sớm điểm nguy hiểm, thông báo chú ý.

5


- Màu lục là màu dịu dàng nhất của tự nhiên. Đó là một màu tươi mát, màu lục làm cho trí
óc được thư giãn. Màu được sử dụng để chữa các bệnh tinh thần như : hystêry, bệnh thần kinh suy
nhược, màu lục giúp con người thêm kiên nhẫn. Trong cơng việc màu lục có ý nghĩa báo hiệu
thơng báo an toàn.
- Màu lam là một màu trong sáng, tươi mát, màu có tác dụng làm giảm sức căng của cơ
bắp, hạ huyết áp, hạ nhịp tim và nhịp thở. Màu lam cịn có tác dụng kích thích sự suy nghĩ. Trong
công việc màu lam báo hiệu tạm thời không nguy hiểm, thông báo cho phép cầm nhưng cần chú
ý.
a.) Vai trò của màu sắc đối với lao động sản xuất
+ Màu sắc được sử dụng để tạo điều kiện tối ưu cho tri giác nhìn: Dùng màu sắc tối ưu về
sinh lý để sơn cho các vật dụng nằm trong trường thị giác của người lao động, sử dụng màu sắc có
hệ số phản chiếu cao (trắng, vàng, sáng lục tăng độ chiếu sáng trong phòng làm việc…

+ Tạo điều kiện tối ưu cho các hoạt động lao động: Thí dụ sử dụng các nhóm thiết bị cùng
loại bằng một mầu riêng biệt, sơn các nút bấm điều khiển, các chuyển mạch bằng màu sắc khác
biệt tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động lao động sản xuất
+ Nâng cao sức làm việc cho người lao động: giảm sự mệt mỏi, mệt nhọc trong quá trình lao
động
+ Cải thiện điều kiện nơi làm việc: Dùng màu sắc tạo cảm giác phịng làm việc sạch sẽ,
thống mát, rộng rãi
+ Sử dụng màu sắc hợp lý có thể hỗ trợ cho sự tập trung chú ý vào đối tượng của cơng việc.
Nếu cơng việc địi hỏi sự di chuyển chú ý thường xuyên từ đối tượng này sang đối tượng khác cần
tránh màu sặc sỡ, tương phản và nên dùng màu tương đối đơn điệu
+ Sử dụng báo hiệu bằng màu sắc trong các phân xưởng sản xuất, trong giao thơng nhằm
đảm bảo an tồn lao động. Thí dụ như đối với các bộ phận chuyển động, bộ phận nguy hiểm
thường sơn hình thức ngựa vằn (xen kẽ sọc đen trắng, đen vàng), sơn màu kích thích ( đỏ, da

6


cam)
+ Màu sắc có chức năng làm giảm sự tác động khơng có lợi của các nhân tố thuộc mơi
trường vật lý(nhiệt độ, độ ẩm, độ sạch của khơng khí, tiếng ồn…).

Việc sử dụng màu sắc theo chức năng trong lao động sản xuất có tác dụng nâng cao năng
suất lao động trung bình 10 - 15%, hạ thấp tai nạn lao động và số ngày nghỉ việc.
b.) Để tạo ra môi trường màu sắc tối ưu cho nơi làm việc cần lưu ý một số yêu cầu như sau:
+ Các màu sắc có sự khác nhau rất lớn về sự phản chiếu, vì vậy để có được một ánh sáng
đồng đều thì hệ số phản chiếu nên là: 70-80% đối với trần nhà, 50 - 60% đối với tương xung
quanh, 50 - 60% đối với đồ gỗ và máy móc, 30 - 50% đối với tấm lát sàn
+ Đối với những bức tường phía trong của phịng làm việc, nên sử dụng những màu không
làm phân tán chú ý và giữ được sạch (màu ghi, màu ve xanh)
+ Nên sử dụng những gam màu nóng (màu kem, màu hồng) cho những phòng lạnh và sử

dụng gam màu lạnh cho những phịng bị làm nóng (màu xanh)
+ Các màu của tường phòng làm việc và màu của máy nên tương phản nhau. Thí dụ:
Màu của máy

Màu của tường

7


Lục nhạt

Vàng nhạt

Lam nhạt

Màu kem, be

+ Máy phải được sơn những màu khác nhau.
- Bộ phận chuyển động: Sắc cạnh, nguy hiểm sơn màu kích thích (đỏ, vàng, da cam)
- Thân của máy sơn màu ghi, lam nhạt, lục nhạt
+ Các bộ phận điều khiển, các ký hiệu phải được mã hố bằng màu sắc để dễ phân biệt. Thí
dụ:


Nút bấm: Theo hội đồng kỹ thuật điền quốc tế quy định như sau:

- Màu đỏ: Chỉ sự dừng lại vì trục trặc máy
- Màu vàng: Chỉ sự di chuyển hay để ngừng
- Màu xanh lá cây: Cho động cơ chạy và cũng để phát động chu trình tự động
- Màu trắng và da trời: Để thực hiện các thao tác phụ



Đèn tín hiệu:

- Màu đỏ, màu da cam đối với các vật phát quang để đề phòng, khả năng hỏng hóc, q tải
trái phép, đóng mạch hy hoạt động khơng đúng quy trình
Cơ quan điều khiển trục trặc, đề phịng điện thế cao, để đánh dấu dương cực…
- Màu vàng: Để báo trước về những đại lượng tới hạn
- Màu xanh lá cây: Chỉ trạng thái bình thường của máy
- Màu trắng, màu sữa, màu da trời nhạt đối với vật phát quang: Chỉ trạng thái máy đã mở,
phòng điện thế, khẩu lệnh đã phát ra.
- Màu xanh biển: Để chỉ các âm cực


Trong những phân xưởng tự động hoá nên sử dụng các màu nóng để giữ mức độ

8


cảnh giác


Chú ý đến tính chất của lao động trong các nghề lao động trí óc và chân tay, lao

động đòi hỏi sự tập trung cao độ nên dùng các sắc điệu lạnh như xanh lá cây, xanh da trời. Trong
những lao động khác nên dùng sắc điệu nóng như vành, da cam, các sắc điệu này gây cảm giác
nóng và có tác dụng kích thích.
Việc áp dụng một cách đúng đắn các màu sắc chức năng tại nơi làm việc tuỳ thuộc vào đặc
điểm của từng cơ quan, xí nghiệp sao cho tạo ra một trạng thái thuận tiện nhất về mặt tâm lý nói
chung và nhất là khả năng tri giác nói riêng của người lao động. Điều đó sẽ góp phần giảm hiện

tượng mệt mỏi và tăng năng suất lao động
2.1.3. Vấn đề sử dụng âm nhạc trong lao động sản xuất
a.) Vai trò của âm nhạc trong lao động sản xuất
Ảnh hưởng của nhịp điệu và âm nhạc đến trạng thái tâm lý và hoạt động lao động của con
người đã được quan tâm từ lâu. Từ xa xưa con người đã sử dụng âm nhạc như là một phương tiện
chữa bệnh nhằm nâng cao tinh thần của người bệnh. Trong quá trình lao động phối hợp cùng nhau
đã nảy sinh các điệu hò, câu hát rất phong phú đa dạng có tác dụng huy động sức mạnh tinh thần
của người lao động, thí dụ như hò kéo pháo, hò trèo thuyền, hò mái đẩy

9


- Âm nhạc tác động đến con người 2 mặt: Tạo ra một tâm trạng tốt và nhịp điệu lao động
cao, ổn định. Điều này dẫn đến hạ thấp độ mệt mỏi trong lao động
- Hiện nay, âm nhạc được sử dụng rộng rãi tại các xí nghiệp, cơng xưởng nơi mà người lao
động thực hiện những công việc đơn điệu, quen thuộc bận tâm chú ý.
b.) Những nguyên tắc cần chú ý khi sử dụng âm nhạc trong lao động sản xuất
+ Thời gian sử dụng nhạc trong ngày lao động sản xuất cụ thể như sau:
Theo cơng trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Mỹ được trình bày trong cuốn “Nghệ
thuật và sản xuất” của V.V. Svili thì thời gian tối ưu có sử dụng nhạc trong ngày là 1giờ. Sử dụng
nhạc 1 giờ trong ngày có tác dụng tăng năng suất lao động lên 12%.
+Theo cơng trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học Liên Xơ xác định thời gian sử dụng
nhạc có hiệu quả nhất là 2 giờ 30 phút.
Căn cứ vào các cơng trình nghiên cứu của Mỹ và Liên Xơ có thể đưa ra số thời gian sử dụng
nhạc trong một ngày làm việc từ 1giờ đến 2giờ 30 phút. Nguyên tắc nhỏ giọt các lần mở nhạc

10


trong ngày lao động đem lại những kết quả tốt nhất.

+ Tính chất của âm nhạc trong lao động:
Nhịp độ và âm độ của nhạc sử dụng trong lao động tuỳ thuộc tính chất của các động tác lao
động, theo trình độ hiểu biết âm nhạc của người lao động, thị hiếu của họ và thời gian của ca sản
xuất.

Âm độ và nhịp độ (nhanh hay chậm) của nhạc phải điều chỉnh tuỳ theo mức độ tập trung chú
ý của người lao động vào cơng việc. Thí dụ cơng việc địi hỏi phải tập trung chú ý nhiều thì âm độ
của nhạc thấp và nhịp điệu phải càng thanh thản hơn. Ngược lại cơng việc địi hỏi sự tập trung chú
ý ít thì âm độ và nhịp độ của nhạc cao.


Khơng dùng nhạc Jazz có nhịp độ và âm độ thay đổi thường xuyên vào lao động sản

xuất sẽ làm tăng sự mệt mỏi và hạ thấp sức làm việc của người lao động

11



Khi sử dụng âm nhạc trong lao động sản xuất phải tính đến thị hiếu và trình độ hiểu biết âm
nhạc của người lao động. Vì vậy trước khi sử dụng âm nhạc trong lao động sản xuất cần điều tra
sở thích âm nhạc của người lao động: “Anh (chị) thích những bản nhạc nào.


Khơng dùng nhạc có lời trong lao động sản xuất vì nhạc có lời gây mất tập trung

chú ý vào công việc
- Nội dung của âm nhạc trong lao động sản xuất:



Không nên dùng một bản nhạc hai lần trong một tuần



Ngay trong một ngày làm việc nội dung của bản nhạc phải phù hợp với sự thay đổi

của sức làm việc:
+ Giai đoạn bắt tay vào làm việc: dùng nhạc có âm độ lớn, nhịp độ nhanh nhằm mục đích
làm cho người lao động bắt vào nhịp lao động một cách nhanh chóng
+ Giai đoạn sức làm việc cao và ổn định: dùng nhạc có âm độ, nhịp độ thấp, thanh thản nhằm
củng cố nhịp lao động tối ưu, đẩy lùi mệt mỏi
+ Giai đoạn sức làm việc giảm sút: cần dùng nhạc sảng khoái, giàu sinh khí, có nhịp độ
nhanh
+ Vào cuối giờ làm việc nên dùng nhạc mạnh, nhịp độ nhanh, hào hứng, yêu đời đem lại
niềm vui và tinh thần thư thái cho người lao động sau một ngày lao động

12


- Nhạc dùng trong giờ giải lao: Dùng nhạc sinh động, vui tươi, trong đó có cả nhạc và lời.
Giờ giải lao buổi chiều hoặc ca đêm cần nhạc sảng khối, tỉnh táo nhằm phục hồi khả năng lao
động.
Để kích thích người lao động tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho họ, mỗi
một xí nghiệp, nhà máy, trường học cần xây dựng bài chính ca của mình có nội dung ca ngợi
phẩm chất của xí nghiệp, nhà máy, trường học và nói về nhiệm vụ của người lao động. Thí dụ như
ở Nhật nhiều hãng có bài chính ca. Hãng Mát su xi ta có bài chính ca với lời bài ca như sau:
Chúng ta liên kết sức lực và trí tuệ, ta sẽ làm được mọi cái vì sự phồn vinh. Hãy cứ để cho hàng
hoá của chúng ta đến với mọi dân tộc trên thế giớ. Cứ để cho chúng tuôn chảy không ngừng, vĩnh
cửu, như nước ở vịi phun khơng bao giờ cạn. Phát triển nữa lên ngành cơng nghiệp của ta! Tình
đồn kết hồ hợp và trung thực mn năm.

Buổi sáng, sau khi xếp thành hàng người lao động hát bài ca đó, nghe dặn dị và lời chúc của
ban lãnh đạo. Điều đó có tác dụng giáo dục tuyên truyền, nhấn mạnh đến mối quan hệ trực tiếp
đến sự phồn vinh của hãng với sự sung túc của người lao động và sự hùng mạnh của dân tộc Nhật
Bản nói chung
Sử dụng âm nhạc chức năng trong lao động sản xuất có tác dụng tốt tới trạng thái tâm lý
của người lao động, dẫn đến hạ thấp sự mệt mỏi và nâng cao sức làm việc của họ. Năng suất lao
động tăng từ 7 - 10% khi sử dụng nhạc chức năng, số lượng các phế phẩm giảm từ 5 - 7%.
Tuy nhiên cần chú ý ở những nơi làm việc địi hỏi có sự tập trung chú ý cao, căng thẳng lớn
về thể lực và thần kinh thì khơng nên sử dụng nhạc trong giờ làm việc.

13


H2: Biểu đồ đường biểu diễn sức làm việc nhờ sử dụng âm nhạc sản xuất (Theo nghiên cứu
của V.V.Svili)
a. Đường thẳng của sức làm việc
b. Đường cong của sức làm việc có sử dụng âm nhạc sản xuất.
c. Đường cong thực tế của sức làm việc.

H3: Biểu đồ đường biểu diễn sự mệt mỏi của người lao động khi sử dụng âm nhạc sản xuất
Chú thích:
a. Sự mệt mỏi của những ngày khơng có nhạc
b. Sự mệt mỏi của những ngày có dùng âm nhạc sản xuất

14


2.2. Khái niệm hoạt động giáo dục và ứng dụng của yếu tố thẩm mĩ trong hoạt động
giáo dục
2.2.1. Khái niệm hoạt động giáo dục

Trước khi tìm hiểu khái niệm hoạt động giáo dục là gì ta cần xem xét lại khái niệm cơ sở
về Giáo dục: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt; Một quá trình, trong đó: Dưới tác động
có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp của người giáo viên, với tư cách là nhà giáo dục, nhà
sư phạm, học sinh tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện nhằm hình thành thế giới
quan và những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của người cơng dân tương lai.
Theo đó, hoạt động giáo dục là q trình tác động có hệ thống và có mục đích đến tâm
lý người bị giáo dục, để luyện tập cho họ những thói quen cũng như những phẩm chất tâm lý mà
người giáo dục mong muốn.
2.2.2. Ứng dụng của yếu tố thẩm mĩ trong hoạt động giáo dục
Như chúng ta đã biết, việc sử dụng màu sắc trong trường học đã nhiều cơng trình nghiên cứu
trong đó có cơng trình nghiên cứu của Acgơnơvích đã chứng minh: Học sinh tiểu học ưa thích
nhất những màu sáng chói và ngun chất, tuổi càng lớn thì các em càng ham thích những màu có
sắc điệu lạnh và phức tạp. Đó là cơ sở khoa học để dùng màu sơn các công cụ trong xưởng,
trường, đồ dùng học tập, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học, trang trí lớp học.
- Làm cho quang cảnh nhà trường được tươi mát, vui mắt bằng cách trồng các cây xanh. Để
cung cấp bóng mát và khơng khí trong lành cần trồng cây cao to, có vịm lá phủ được một phần
mái nhà, sân trường, trong những ngày nắng hè…
Ứng dụng của yếu tố thẩm mĩ trong hoạt động giáo dục khơng nằm ngồi mục đich giáo dục,
nội dung giáo dục cũng như phương pháp giáo dục. Ở đây tôi xin chú ý đặc biệt về ứng dụng của
yếu tố thẩm mĩ trong giáo dục thẩm mĩ cho người học.
a.) Vị trí giáo dục thẩm mĩ trong hoạt động giáo dục của nhà trường

15


Phát triển con người toàn diện theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin là mục đích hướng
tới của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó bao gồm những yếu tố đức dục, trí dục,
thể dục, mĩ dục, lao động, hướng nghiệp. Sự phát triển hài hịa những yếu tố trên khơng chỉ tạo
cho thế hệ trẻ có được tiềm năng phát triển trên cơ sở tiếp nhận những gì đã cỏ của xã hội, động
thời còn giúp cho thế hệ trẻ biết đánh giá một cách lành mạnh đúng đắn cuộc sống tinh thần và

vật chất của xã hội mang lại theo cách riêng của mình phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Giáo
dục thẩm mĩ là một trong những yếu tố góp phần tạo nên những năng lực đó cho thế hệ trẻ, nó
được đặt ra khơng phải chỉ trong một hoạt động thẩm mĩ đặc thù là nghệ thuật mà như là một hệ
thống, trong đó giáo dục nghệ thuật giữ vị trí chủ yếu.
Giáo dục thẩm mĩ bao gồm một hệ thống hoạt động sư phạm trong đó có các phương tiện
giáo dục thẩm mĩ (thiên nhiên, nghệ thuật, học tập, lao động, trò chơi, giao lưu, sinh hoạt); các
con đường giáo dục thẩm mĩ (hoạt động học tập, hoạt động ngoài lớp và ngoài trường, hoạt
động trong các tổ chức Đồn, Đội, giáo dục thẩm mĩ trong gia đình, tự giáo dục của học sinh); các
phương pháp giáo dục thẩm mĩ (giải thích phân tích các tác phẩm nghệ thuật, các sự vật và hiện
tượng thẩm mĩ, luyện tập nghệ thuật, các hình thức khen thưởng, động viên, khuyến khích v.v..);
các hình thức tổ chức giáo dục thẩm mĩ (thuyết trình và hỏi đáp về những vấn đề thẩm mĩ, giới
thiệu giảng giải về phim ảnh, hội họa, điêu khắc, dạ hội, thơ ca, âm nhạc gặp mặt các văn nghệ
suy.v...).
b.) Bản chất của giáo dục thẩm mĩ
Thẩm mĩ là "Sự cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp". Còn giáo dục thẩm mĩ là một quá trình
hoạt động sư phạm nhằm hình thành cho học sinh hệ thống tri thức để nhận biết cái đẹp, cảm thụ
cái đẹp tồn tại trong thế giới hiện thực và từ đó giúp các em có được sự đánh giá đúng đắn về cái
đẹp giữa sự phong phú, đa dạng của giá trị thẩm mĩ, sao cho phù hợp với những quan niệm phổ
biến trong xã hội về chuẩn mực của cái đẹp, hình thành và phát triển ơ các em những năng lực
cảm thụ cái đẹp, có thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh và lí tưởng thẩm mĩ cao đẹp, khả năng sáng tạo ra
cái đẹp, biết sống theo quy luật của cái đẹp trong lao động, trong sinh hoạt, trong hành động,
hành vi, trong cách ứng xử…

16


Cùng với nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, ý thức công dân. đạo đức xã hội, lao động
và hướng nghiệp, giáo dục thẩm mĩ được đan xen vào quá trình thực hiện những nhiệm vụ này để
vừa thực hiện những mục tiêu chung của quá trình giáo dục, vừa giải quyết những nhiệm vụ riêng
biệt có liên quan tới việc hình thành tình cảm, ý thức, lí tưởng và những sáng tạo thẩm mĩ dựa trên

một hệ thống những tri thức mĩ học, bao gồm các phạm trù, khái niệm, nguyên lí, nguyên tắc,
quan điểm mĩ học Mác - Lênin. Vận dụng hàng quan điểm của mĩ học Mác - Lênin vào trong
việc giải quyết những hiện tượng thẩm mĩ cụ thể, sinh động của học sinh, nhà trường phổ thơng
phải đảm bảo tính khoa học trong xây dựng nội dung chương trình trong việc cụ thể hóa các
nguyên tắc giáo dục và giáo dục thẩm mĩ dựa trên những nhu cầu, lợi ích của việc phát triển đời
sống thẩm mĩ củathế hệ trẻ và xã hội, đồng thời phải thiết lập được những nội dung, phương
pháp giáo dục thẩm mĩ tương ứng, phù hợp với yêu cầu xây dựng văn hóa thẩm mĩ tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giáo dục thẩm mĩ phải xuất phát từ tính
nhân văn - nhân đạo trong việc hình thành những phẩm chất thẩm mĩ cho học sinh, lấy nhu cầu,
lợi ích và mục đích mang tính chân - thiện - mĩ của con người là chuẩn mực để hình thành lịng
nhân ái, quý trọng cải thiện, căm ghép. cái ác nhằm tạo ra bản chất của cái đẹp trong ý thức, đạo
đức của tuổi trẻ. Tính nhân văn của giáo dục thẩm mĩ được coi là tính chất cơ bản, quyết định của
toàn bộ giáo dục thẩm mĩ.
c.) Những chức năng cơ bản của giáo dục thẩm mĩ: Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh có hai
chức năng cơ bản sau:
+ Hình thành những định hướng giá trị thẩm mĩ của nhân cách.
Giá trị thẩm mĩ là kết quả định giá của một con người, một nhóm người hay của một cộng
đồng xã hội đối với tác thuộc tính phản ánh cái đẹp của một sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan
thông qua hoạt động tương tác giữa con người với cái đẹp của sự vật, hiện tượng đó nhằm thỏa
mãn những nhu cầu thẩm mĩ không xuất hiện ngay cùng với nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng trong
hoạt động sống. Chỉ trong quá trình hoạt động, bằng sự đạt tới của nhu cầu thẩm mĩ được trải
nghiệm nhiều lần, con người mới có được sự đánh giá đối với cái đẹp của sự vật và hiện tượng
khách quan có thể đạt được. Song giá trị thẩm mĩ lại phụ thuộc vào mức độ phạm vi tiếp nhận của

17


chủ thể thông qua sự đánh giá. Như vậy, giá trị thẩm mĩ được coi là một "tiềm năng ẩn” nằm sau
sự vật, được xuất hiện ở chủ thể khi những "tiềm năng" này tham gia vào quá trình giải quyết nhu
cầu thẩm mỹ của cả chủ thể.

Để nhận biết, cảm thụ cái đẹp của sự vật, hiện tượng, con người phải được trải nghiệm nhờ
quá trình tương tác với sự vật và hiện tượng đó, song phạm vi,. mức độ cảm thụ, hiểu biết của mỗi
cá nhân là không giống nhau. Nguyên nhân của sự khác biệt nay chính là ở chỗ mỗi cá nhân có
đời sống tinh thần và vật chất khác nhau có trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống khác biệt chịu
sự quy định của tập tục, lề thói, và những quan điểm sống hiện hữu trong cuộc đời họ: Chính bởi
lẽ đó, trên cùng một thuộc tính phản ánh vẻ đẹp tồn tại trong cùng một sự vật, một hiện tượng có
người định ra nó như một cứu cánh của cuộc sống, có người. dửng dưng trước nó, và thậm chí có
người tẩy chay, vứt bỏ nó. Trong mỗi cộng đồng xã hội, ln tồn tại những chuẩn mực khuôn mẫu
chung quy định, ràng buộc cách nhìn nhận, đánh giá của mỗi người về cái đẹp. Song do sự biến
đổi của kinh tế, văn hóa trong q trình phát triển lịch sử, những chuẩn mực về cái đep của xã hội
cũng được bổ sung, phát triển và thậm chí bị biến mất, đồng thời cũng theo đó, sự định giá của
mỗi cá nhân cũng có sự dịch chuyển cho phù hợp.
Việc hình thành khả năng hiểu biết và cảm thụ cái đẹp cho học sinh trong q trình giáo dục
cũng khơng tránh khỏi những đặc điểm của việc hình thành giá trị nói chung và giá trị thẩm mĩ
nói riêng. Mục đích giáo dục của nhà trường là phù hợp với nhu cầu xã hội, vì thế giáo dục thẩm
mĩ - một trong những nhân tố thực hiện mục đích giáo dục tơng thể của sự hình thành nhân cách
cho học sinh về phương diện tình cảm, cảm xúc, nhu cầu, thái độ, thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh để
trên cơ sở đó hình thành ý thức đạo đức cho các em. Tính chủ quan trong thị hiếu thẩmmĩ của mỗi
học sinh phải được tác động sư phạm của nhà trường hướng dẫn, điều chỉnh theo những chuẩn
mực về cái đẹp chung nhất của xã hội, đó cũng chính là điều chỉnh, định hướng sự hình thành
giá trị thẩm mĩ cho học sinh.
+ Phát triển những tiềm năng sáng tạo thẩm mĩ của nhân cách. Để học sinh có được sự đánh
giá đúng về cái đẹp, giáo dục thầm mĩ cần hình thành ở các em năng lực tiếp nhận (thưởng thức)
cái đẹp.

18


Giá trí thẩm mĩ của một sự vật hay hiện tượng có thể tồn tại một cách trực diện, song một
phần đáng kể các giá trị lại tiềm ấn đằng sau sự vật hay hiện tượng đó, được tự nhiên hoặc con

người tạo dựng thành những biểu tượng nhờ cái vỏ vật chất như hình thù, màu sắc, âm thanh v.v..
Vượt qua "cái vỏ" vật chất này hay đi sâu tìm tới sự "tiềm ẩn" để thấy được cái đẹp là một quá
trình trải nghiệm tự phát và tự giác. Nhà trường chính là nơi hình thành cho tuổi trẻ năng lực cảm
nhận cái đẹp có hiệu quả nhất nhờ có mục đích, kế hoạch và nội dung mang tính khoa học sâu sắc
của giáo dục thẩm mĩ. Giáo dục thẩm mĩ thông qua các con đường khác nhau sẽ cung cấp cho
học sinh một trữ lượng kiến thức, làm giàu thêm khả năng nhận thức cái đẹp, nuôi dưỡng, kích
thích những tiềm năng vốn có của mỗi học sinh, tạo dựng cơ sở cho những sáng tạo cái đẹp trong
cuộc sống thường nhật và trong nghệ thuật của mỗi em. Thưởng thức, khám phá, sáng tạo cái đẹp
là quá trình biến cái đẹp của hiện thực thành giá trị thẩm mĩ trong mỗi cá nhân, vì thế giáo dục
thẩm mĩ không chỉ lưu ý tới những chuẩn mực chung nằm trong tri thức về cái đẹp mà còn phải để
tâm tới từng trường hợp cụ thể của học sinh cũng như tính riêng biệt của mỗi sự vật, hiện tượng
phản ánh cái đẹp. Hình thành năng lực sáng tạo cái đẹp nhờ giáo dục thẩm mĩ chính là kết quả tác
động của giáo dục đốivới các bình diện thầm mĩ trong mọi hoạt động của các em (học tập, sinh
hoạt, lao động, thể dục - thể thao, các quan hệ với cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo và cộng đồng xã
hội).
d.) Những nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ: Với chức năng đặc thù của mình, giáo dục thẩm mĩ
trong nhà trường cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Cung cấp cho học sinh vốn kiến thức thẩm mĩ đủ để làm xuất hiện ở các em sự ham thích
và hứng thú đối với những sự vật và hiện tượng có ý nghĩa thẩm mĩ.
Cái đẹp trong tự nhiên, xã hội là rất đa dạng phong phú, song nhận biết diện mạo của nó như
thế nào thì quả là khó khăn đối với học sinh, khi kinh nghiệm sống của các em chưa nhiều hệ
thống tri thức có liên quan chưa đủ độ tạo ra khả năng tiếp nhận cái đẹp. Do đó nhiệm vụ của giáo
dục thẩm mĩ là tạo ra những điều kiện hiện thực như trò chơi, giao tiếp, tiếp xúc với thiên nhiên,
với cảnh quan tự nhiên và sự bài trí của con người tại các di tích văn hóa lịch sử, qua các sinh hoạt
văn nghệ, xem biểu diễn nhờ các thông tin băng âm thanh và hình ảnh v.v.., những ấn tượng về

19


màu sắc, âm thanh hình thể được tích tụ dần ở học sinh để từ chỗ tiếp nhận các "sự kiện và thơng

tin thẩm mĩ” mang tính cụ thể trực giác tới một độ lớn xác định về số lượng sẽ chuyển dần sang
hình thức tiếp nhận trừu tượng - lơgic, từ chỗ nhìn, nghe để biết, tới khả năng biết phân tích, đánh
giá cái đẹp, trong tổng số những thuộc tính có trong sự vật và hiện tượng khách quan. Có thể nói,
hứng thú, nhu cầu thẩm mĩ, năng lực hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp chỉ có thế xuất hiện ở học sinh
khi các em được trang bị một số vốn biểu tượng, kiến thức đa dạng, phong phú về cái đẹp trong
thiên nhiên, trong nghệ thuật,trong cuộc sống và trong chính bản thân mình.
+ Hình thành cho học sinh hệ thống những khái niệm, chuẩn mực và niềm tin thẩm mĩ, hình
thành thị hiếu và lí tưởng thẩm mĩ đúng đắn phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Tiếp sau sự tích tụ tri thức đơn lẻ về cái đẹp, người học sinh cần được cưng cấp những chuẩn
mực chung nhất về cái đẹp của tự nhiên, của xã hội, của con người thông qua một hệ thống các
khái niệm cơ bản, phổ biến nhất của thẩm mĩ, chẳng hạn như khái niệm về "cái đẹp "cái xấu,, cái
"cao cả", cái "thấp hèn", cái "bi" và cái "hài", v: v... Hiểu biết hệ thống những trí thức này sẽ là
chỗ dựa mang tính "thường trực" giúp học sinh nhận biết được cái đẹp đích thực trong cuộc sống
phù hợp với những chuẩn mực thẩm mỉ và đạo đức mà xã hội địi hỏi, để từ đó có được thái độ
tích cực trong các mối quan hệ ứng xử đối với các hoạt động của người khác và bản thân mình.
Cũng chính do khơng nắm được các khái niệm thẩm mĩ chân chính mà khơng ít học sinh tiếp
nhận, định giá và có những hành vi trái ngược với cái chân - thiện - mĩ từ lời ăn tiếng nói tới đầu
tóc, ăn mặc, cử chỉ mà vẫn tự cho thình là ăn nhập với cái hiện tại, cái "thời thượng. Tất nhiên sự
hình thành các khái niệm, chuẩn mực thẩm mĩ không thể thực hiện trong ngày một ngày hai, mà là
cả một quá trình lâu dài, liên tục, phù hợp với trình độ nhận thức và đặc điểm hoạt động của học
sinh ở mỗi cấp học mọi lứa tuổi, mỗi khu vực trong những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội cụ
thể.
+ Hình thành cho học sinh thái độ phê phán với những cái xấu xa, thấp hèn và tiêu cực trong
hiện thực xã hội và đời sống.
Sự trải nghiệm trong cuộc sống của học sinh nhờ tác động của giáo dục, của nhà trường là
một trong điều kiện đảm bảocho sự hình thành thái độ phê phán cái tiêu cực trong những biểu

20



hiện của đời sống hiện thực. Lòng nhân ái của thầy cô giáo, của bạn bè, của tập thể, những hoạt
động xã hội giúp đỡ đồng loại, cộng đồng do nhà trường tổ chức, các hoạt động của tổ chức đoàn
thanh niên chống lại những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội, dư luận của tập thể, của xã hội
trước những việc làm đúng, việc làm sai của.bạn bè v.v.. Tất cả những trải nghiệm đó cùng với
những khái niệm và chuẩn mực cái đẹp đã được hình thành sẽ giúp học sinh có được những cơ sở
xác đáng để đánh giá, phê phán hành vi, lối sống của những con người và cộng đồng cũng như
của chính mình theo lẽ phải.
e.) Nội dung giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường: Trong nhà trường phổ thông, nội dung giáo
dục thẩm mĩ bao gồm:
+ Giáo dục nhận thức thẩm mĩ và tình cảm thẩm mĩ
Giáo dục nhận thức thẩm mĩ bao gồm trong nó việc cung cấp cho học sinh một hệ thống tri
thức thẩm mĩ để trên cơ sở đó hình thành tình cảm thẩm mĩ cho các em.
Tri thức thẩm mĩ chứa đựng trong đó những khái niệm và chuẩn mực đánh giá cái đẹp của
thế giới hiện thực. Những khái niệm và chuẩn mực này phản ánh nhu cầu thẩm mĩ của con người,
mỗi nhân cách và của đời sống xã hội. Tri thức thẩm mĩ được hình thành ở con người ngay từ thời
thơ ấu một cách tự nhiên: cái đẹp, cái xấu trong mỗi người trong cảnh vật, trong các mối quan hệ
mà họ đã từng gặp phải, được sự chỉ dẫn của cha mẹ, của những người lớn tuổi và của bạn bè. Khi
tới trường, những gì trẻ cóp nhặt được trong cuộc sống sẽ được giáo viên, bằng tri thức và sự hiểu
biết có cơ sở khoa học của mình khndục thành các khái niệm, chuẩn mực thẩm mĩ, bằng các
hoạt động cụ thể và thơng qua các hình thức giáo dục đa dạng, hình thành các biểu tượng phong
phú, làm Sáng tỏ các khái niệm của tri thức thẩm mĩ. Nhờ được cung cấp một dung lượng tri thức
thẩm mĩ đúng đắn này, học sinh có điều kiện để hiểu đúng đời sống thậm mĩ, có cơ sở nhận thức
khoa học để tiếp nhận, biểu hiện và sáng tạo thẩm mĩ.
Cùng với giáo dục tri thức thẩm mĩ là giáo dục tình cảm thẩm mĩ. Tình cảm thẩm mĩ chính là
tri thức thẩm mĩ đã được hòa nhập vào các cảm xúc chân thực, sâu sắc và nồng nhiệt, nó là
"chiều sâu của tâm hồn" về cái đẹp, nó tạo cho con người có sự say mê và những động lực thúc

21



đẩy con người trong hoạt động.
Tri thức thẩm mĩ và tình cảm thẩm mĩ ln có mối quan hệ mật thiết. Tri thức thẩm mĩ như
là ngọn đèn rọi sáng cho sự phát triển của nội tâm để cái đẹp có được “linh hồn” về giá trị phù
hợp với cái thẩm mĩ chung nhất của dân tộc, của con người trong mỗi thời đại lịch sử.
Trong trường phổ thông, học sinh ở lứa tuổi thanh thiếu niên cần được giáo dục thẩm mĩ về
phương diện nhận thức đối với những vấn đề như. Cảm xúc thẩm mĩ và giá trị thẩm mĩ. Đây là
những yếu tố đầu tiên và cơ bản phản ánh mối quan hệ giữa học sinh đối với những giá trị thẩm
mĩ ẩn hiện trong đời sống của con người và xã hội: Thị hiếu thẩm mĩ (đặc điểm tiếp nhận, đánh
giá và phán đoán cái đẹp) biểu hiện ý thức, quan điểm thẩm mĩ đã được khẳng định ô mỗi cá
nhân mỗi cộng đồng dân tộc; Lí tưởng thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ, là đỉnh cao của ý thức về
cái đẹp trong quan hệ thẩm mĩ của con người' đối với hiện thực.
+ Giáo dục về cái đẹp
Giáo dục thẩm mĩ suy cho cùng là giáo dục cho học sinh định giá đứng đắn, đầy đủ về cái
đẹp để trên cơ sở đó có tình cảm, ý chí làm cho cuộc sống của mình và cuộc sống cộng đồng nếu
chưa đẹp sẽ thành đẹp và đã đẹp lại đẹp hơn lên. Trong quá trình học cách định giá về cái đẹp, học
sinh một mặt làm cho tâm hồn mình trong sáng và thanh thốt hơn, mặt khác còn thu nhận được
những kinh nghiệm những chuẩn mực để tiếp nhận hoặc lừ chối những biểu hiện của đời sống
thẩm mĩ xã hội. Hiện nay, cùng với sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế, đời sống văn hóa, tinh
thần của đất nước ta đang đứng trước sự xâm nhập ào ạt của văn hóa nước ngồi, trong đó cái tinh
hoa của các dân tộc khác càng nhiều, song một dịng đục của văn hóa thực dụng, đồi bại đang làm
sa ngã khơng ít thanh thiếu niên học sinh. Vì thế, ngay rong giáo dục về cái đẹp cũng cần có sự
định hướng, để làm sao rong sự đối mới chung của đất nước, thế hệ trẻ chúng ta có được những
chuẩn mực gìn giữ cái đẹp của con người và dân tộc Việt Nam. Đây cũng chính là một trong
những nhân tố xây dựng nhân cách con người Việt Nam vừa mang tính hiện đại, vừa gìn giữ
và,phát triển cốt cách. truyền thống nhân văn của dân tộc. Chỉ có trên cơ sở của sự nhìn nhận,
đánh giá đúng cái đẹp của hiện thực, thanh thiếu niên học sinh mới chủ động gạt bỏ và tránh xa
cái xấu do tàn dư của nghèo nàn lạc hậu để lại và cái xấu do những độc tố phản văn hóa, phản

22



nhân văn từ ngoại nhập.

Để giáo dục nhận thức về cái đẹp, nhà trường cần hướng vào những vấn đề: Cung cấp cho
học sinh những quan niệm chung về cái đẹp và các hình thức biểu hiện cái đẹp, đặc biệt lưu ý tới
cái đẹp của con người Việt Nam trong sự kế thừa có chọn lọc cáiđẹp truyền thống. Giáo dục cho
học sinh biết nhìn nhận và đánh giá cái đẹp trong tất cả các mặt hoạt động khác nhau trong và
ngoài nhà trường: trong học tập, lao động, sinh hoạt tập thể, trong công tác xã hội, trong cuộc
sống gia đình và những mối quan hệ xã hội khác; Giúp học sinh hiểu biết vé cái đẹp của tự nhiên,
của tập thể để lấy ra từ đồ những gì phù hợp với bản thân mình, để vừa có sắc thái riêng về cái
đẹp, vừa hòa nhập với cái đẹp chung được mọi người thừa nhận. Cái đẹp trong xã . hội là rất đa
dạng phong phú và phức tạp, chúng luôn tác động trực tiếp tới học sinh hằng ngày, hằng giờ. Vì
thế, giúp các em biết chọn.lựa, biết tiếp thu, biết từ chối những gì thuộc về thỉ hiếu thẩm mĩ cửa
đời sống xã hội là công việc giáo dục của nhà trường bên cạnh sự tác động của hệ thống xã hội
nhờ các kênh thông tin mà nhà nước ta đang thực hiện.
Trong xu thế phát triển của giáo dục - đào tạo hiện nay, với thực trạng chất lượng giáo dục
đang giảm sút nghiêm trọng ở một số trường phổ thông, đặc biệt là thực trạng suy thoái về đạo
đức và lối sống của một số thanh - thiếu niên học sinh, vấn đề đôi mới và hoàn thiện nội dung

23


giáo dục trong các loại hình trường đang là một u cầu cấp bách địi hỏi các cấp quan lí các cán
bộ nghiên cứu và đặc biệt các nhà sư phạm phải nghiên cứu, không ngừng bổ sung những vấn đề
mới góp phần làm phong phú và hiện đại hóa nội dung giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.
Cụ thể là những vấn đề nội dung giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình; vấn đề giáo dục
mơi trường và sinh thái; vấn đề giáo dục giới tính , vấn đề giáo dục hướng nghiệp, vấn đề giáo
dục phòng chống ma túy xâm nhập học đường v.v... trước hết được lồng ghép vào nội dung giáo
dục nội khóa và ngoại khóa thơng qua các hoạt động giáo dục và dạy học của nhà trường. Trong
tương lai, tùy theo mục tiêu giáo dục cụ thể của các bậc học, những nội dung này cần được xây

dựng thành những môn học, những chuyên đề độc lập, những chủ đề giáo dục được tổ chức hấp
dẫn lôi kéo nhiều thế hệ học sinh tham gia có hiệu quả.
f.) Những con đường giáo dục thẩm mĩ
+ Giáo dục thẩm mĩ thông qua các mơn học khơng thuộc nhóm nghệ thuật.
Để lĩnh hội một cách có ý thức hệ thống các kiến thức nằm trong các mơn học, địi hỏi học
sinh phải rèn luyện cho mình những năng lực tâm lí cần thiết như cảm giác, tri giác, tưởng tượng,
xúc cảm v.v... Những năng lực này là rất cần thiết trong việc nhận biết, thưởng thức và sáng tạo
cái đẹp. Có thể nói, việc phát triển ở học sinh tư duy hình tượng gắn liền với các phương diện
lơgic, trí tuệ và hình tượng cảm tính trong q trình nhận thức học tập là cơ sở để hình thành thái
độ thẩm mĩ của học sinh đối với hiện thực, và nhờ có nó (thái độ thẩm mĩ) mà nhưng năng lực
sáng tạo trong học tập của các em được phát triển. Đây chính là một trong những con đường phát
triển tư duy và những hành vi sáng tạo cho học sinh nói chung nhờ việc giảng dạy các bộ môn
khoa học ở nhà trường nói riêng. Để làm được điều đó, tùy thuộc vào đặc trưng của mỗi môn học,
người giáo viên cần biết khai thác những "tiềm năng ẩn" phản ánh cái đẹp nằm trong đối tượng
nhận thức của học sinh để sau đó vận dụng những phẩm chất thẩm mĩ này tạo ra ở học sinh thái
độ thẩm mĩ đối với những đối tượng nhận thức đó. Tiềm năng thẩm mĩ của các môn học là không
giống nhau, phẩm chất thẩm mĩ của đối tượng nhận thức trong từng bài học là khác nhau, bởi vậy
hiệu quả giáo 'dục thẩm mĩ thơng qua các mơn học địi hỏi sự mẫn cảmthẩm mĩ của mỗi giáo viên,
biết tìm ra cái đẹp trong hệ thốngkiến thức, mà học sinh sẽ lĩnh hội. Đối tượng nhận thức trong

24


các mơn học có thể có những phẩm chất thẩm mĩ rõ rệt như cảnh quan hùng vĩ của sông, núi, biển
cả trong kiến thức địa lí, sắcmàu kì diệu của rừng cây, mng thú trong Sinh học, v.v..nhưng cũng
có những phẩm chất thẩm mĩ ẩn dụ sau những thuộctính trừu tượng của kiến thức, chẳng hạn như
tính logic, hợp lí trong tư duy Tốn học, sự cân đối hài hịa của đường nét tronghình học phẳng và
hình học khơng gian, sự kì diệu trong biến đổi của nguyên tố hóa học, lịng dũng cảm và chí khí
kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam trong dựng nước và giữ nước biểu hiện qua các kiến
thức lịch sử v.v... Trong cả hai trường hợp, để “tiềm năng thẩm mĩ” có thể hiện diện và trở thành

nhu cầu nhận thức của học sinh, đều cần có sự giúp đỡ củagiáo viên. Trong điều kiện hiện nay,
với sự giúp đỡ của các phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại (vi deo, phim ảnh, máy. ghi âm,
tranh ảnh v.v:..), giáo viên có thể kết hợp làm sáng tỏ
những góc độ thẩm mĩ của đối tượng nhận thức. Đây cũng là một trong những cách tổ chức
tăng cường chất lượng học. tập nhờ các phương tiện giáo dục thẩm mĩ.
+ Giáo dục thẩm mĩ thơng qua các mơn học mang tính nghệ thuật. Các mơn học thuộc nhóm
nghệ thuật như Văn học, Âm nhạc,Hội họa, Mĩ thuật v.v... được coi là những phương tiện biểu
hiệntrực tiếp để hình thành ở học sinh sự tích cực, sâu sắc và có mụcđích quan hệ thẩm mĩ đối với
thế giới hiện thực. Các môn họcmang tính nghệ thuật giúp học sinh được tiếp xúc trực tiếp vớicác
dạng hình nghệ thuật nhờ đó mà mở rộng được tầm hiểubiết. làm phong phú thêm vốn kinh
nghiệm sống của các em, đem đến cho các em những rung cảm thẩm mĩ mới lạ. mạnh mẽ, nhiều
khi vượt trội hơn cả những cảm xúc do các hiện tượng và sự vật mà cuộc đời thực đưa lại. Mỗi
môn trong nhóm các bộ mơn mang tính nghệ thuật có sự tác động riêng đối với sự hình thành và
phát triển năng lực thẩm mĩ của học sinh. Các môn văn, thơ giúp học sinh thấy được tính mẫu
mực của sự phản ánh hiện thực về mặt thẩm mĩ, đó chính là những màu hình về cái chân, cái
thiện, cái xấu, cái ác độc được điển hình hóa trong các cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn, phóng sự.
Cái đẹp trong các tác phẩm văn học còn chứa đựng trong sự kết hợp hài hịa giữa nội dung và hình
thức, điều đó tạo nên sự thán phục, và những rung cảm thẩm mĩ tốt lành cho học sinh. Các môn
hội họa, âm nhạc lại đem đến cho học sinh cái đẹp chân thực của màu sắc, âm thanh, hình khối
được chắt lọc từ sự xô bồ, rời rạc, ngẫu nhiên của đời sống hiện thực điều đó giúp cho học sinh có
được những biểu tượng đích thực về cái đẹp của sự vật hiện tượng rất gần gũi với các em mà

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×