A. MỞ BÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang từng bước hội nhập và phát triển kinh tế thị trường vì thế
việc tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “ kinh tế Việt Nam từ 1986 đến nay” là một
việc làm cần thiết. Qua đây một lần nữa chúng ta nhìn nhận lại những gì đã
làm được trong thời gian qua và những hiệu quả mà nó mang lại. Đồng thời
thấy được những yếu kém và hạn chế trong phát triển kinh tế và hội nhập nhằm
đưa ra những giải pháp và định hướng tốt nhất đế bổ sung và khắc phục những
gì chưa làm được. Tất cả những điều đó nhằm hướng tới một mục đích quan
trọng là “phát triển nền kinh tế ổn định, vững mạnh, hồ bình, hợp tác, phát
triển”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quá trình tìm hiểu nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay được
xem như một mơ hình, một thành phần trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu của
bộ môn lịch sử kinh tế quốc dân.
Đây là đề tài mà tác giả tìm hiểu và nghiên cứu về quá trình phát triển
của kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi không gian, thời gian của đề tài là tìm hiểu tổng quan và khái
quát nhất nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
4. Nhiệm vụ của đề tài.
Nhiệm vụ chủ yếu của đề tài là việc tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu lịch
sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay để rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu. Từ đó đưa ra những chiến lược, định hưóng phát triển kinh tế
đúng đắn.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận nghiên cứu lịch sử kinh tế là tư tưởng, lý luận kinh tế chính
trị Mác-Lênin.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử kinh tế là sự kết hợp của phương pháp
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích kinh tế và phương pháp
phân kỳ lịch sử.
6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở bài và kết luận đề tài gồm hai chương.
1
B. NỘI DUNG
Chương I: Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước từ những năm
1986 đến nay
1. Hoàn cảnh thế giới tác động đến nền kinh tế nước ta trong giai
đoạn này
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay
đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận
dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan rã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hố, đa phương hố trong
tiến trình hội nhập tồn cầu. Hồ bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng
trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Tồn cầu hố về kinh tế chiếm vị trí
quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tế được ưu tiên phát triển và
trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trong đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa , trước những khó khăn của nền
kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa như Liên xô, các nước Đông Âu, Trung
Quốc… Đã tiến hành cải cách kinh tế. Cải cách ở các nước này đã diễn ra ở các
thời điểm khác nhau nhưng đều có điểm chung là nhằm khắc phục những hạn
chế của nền kinh tế nước nhà do hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hố tập
trung. Trong q trình thực hiện cơng cuộc cải cách, Trung Quốc đã đạt được
những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng nhanh, mức sống của nhân dân
nâng lên đáng kể.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như
vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để
thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế đó. Đồng
2
thời sự thành cơng to lớn trong chính sách mở cửa của Trung Quốc có thể giúp
nước ta những kinh nhiệm quý báu trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối
ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần khơng nhỏ đến sự phát
triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thốt khỏi
khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước
đi vào thế kỷ XXI.
2. Tác động của hoàn cảnh lịch sử trong nước đến nền kinh tế nước nhà.
2.1. Thực trạng nền kinh tế nước nhà giai đoạn 1986 đến nay
Cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta đã dành được thắng lợi vẻ
vang. Đất nước được độc lập, tổ quốc được thống nhất về mặt lãnh thổ. Đây là
một trong những điều kiện vô cùng quan trọng để nước ta phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Sau nhiều
năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 đến 1986,
Việt Nam phải đối phó với vơ vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội
do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống
diệt chủng Khơme đỏ, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của
Mỹ và các nước phương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra… đã đặt
Việt Nam trước những thử thách khắc nghiệt. Sau khi Miền Nam được hồn
tồn giải phóng, mơ hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc đựoc áp
dụng trên phạm vi cả nước. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát
triển kinh tế, Nhà nước đã đầu tư khá lớn nhưng trong năm năm đầu (19761980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm chạp, thậm chí có xu hướng giảm sút và
bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng. Trong khi đó Mĩ tiếp tục bao vây, cấm
3
vận kinh tế, ngăn cản Việt Nam bình thường hố quan hệ với các nước và tổ
chức quốc tế, càng làm cho nền kinh tế nước nhà lâm vào tình trạng khủng
hoảng hơn. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng đó cịn xuất phát từ các
ngun nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước
nhanh chóng mà khơng tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm
80, khủng hoảng kinh tế – xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên
đến 774,7% vào năm 1986. Chính vì vậy đặt ra yêu cầu bức thiết về việc tiến
hành cơng cuộc Đổi mới tồn diện nhằm vượt qua khó khăn, đi vào vào con đường phát triển và từng bước hội nhập khu vực và quốc tế.
2.2. Những biện pháp thử nghiệm và đổi mới mà Đảng và Nhà nước
thực thi trong giai đoạn 1986 đến nay
Trên cơ sở xác định đúng đường lối xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH)
Đại hội VI của Đảng đề ra “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát” của trặng
đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hố trong chặng đường
tiếp theo”. Trong đó Nhà nước ta đã đưa ra những nội dung cơ bản sau:
2.2.1: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới tồn diện trong
đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất
phong phú, đa dạng và sáng tạo. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra quan điểm mới
về nền kinh tế nhiều thành phần “Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh thủ
vốn nước ngồi, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế khác” Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ
phận trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Với
những biến đổi quan trọng như: ban đầu Nhà nước không thừa nhận kinh tế tư
nhân đến chỗ thừa nhận nó; rồi từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một số
ngành nghề, đến việc không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không
cấm, mỗi lần thay đổi về tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta
4
được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế phát
triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những
chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm,
dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.
♦ Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một trong những trọng tâm và là lĩnh
vực cải cách khó khăn nhất của q trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Trong thời kỳ đổi mới vừa qua, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, cơ chế, chính sách, biện pháp đổi
mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và bảo đảm
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đặc biệt là trong thời gian gần đây, Quốc
hội và Chính phủ đã chỉ đạo soạn thảo và ban hành nhiều văn bản pháp luật
quan trọng tạo cơ sở pháp lý nhằm đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Từng bứơc mở rộng quyền
tự do doanh nghiệp Nhà nước đi đơi với xố bỏ dần chế độ Nhà nước bao cấp
tài chính, đồng thời sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng giải thể
các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Sát nhập các doanh
nghiệp có liên quan với nhau về cơng nghệ và thị trường. Hình thức cổ phần
hố doanh nghiệp Nhà nước đã được thực thi thí điểm từ năm 1992. Từ năm
1998, khi nghị định 44/ CP được ban hành đến nay, Nhà nước đã thực hiện
nhiều biện pháp thúc đẩy nhanh hơn q trình cơng nghiệp hố. Q trình đổi
mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong thời qua đã thu được những kết
quả to lớn nhưng cũng có nhiều vấn đề, thách thức đặt ra địi hỏi phải có những
giải pháp phù hợp.
♦ Đổi mới kinh tế hợp tác.
Từ khi Luật HTX (Hợp tác xã) ra đời (3/1996) và chính thức có hiệu lực
từ 1/1/1997 khu vực kinh tế hợp tác và HTX ở nước ta đã thay đổi rất cơ bản cả
về lượng và chất. Số lượng các đơn vị HTX tuy tăng không nhiều, nhưng đã
5
từng bước được củng cố về chất, lấy lại uy tín và vai trị đối với người lao
động, trên cơ sở đó phát triển và ngày càng thu hút các đối tượng khác nhau
tham gia, không chỉ là người lao động như những năm trước khi có luật. HTX
đã đóng góp tích cực hơn vào sức mạnh chung của kinh tế nhiều thành phần và
làm rõ hơn bản chất của Kinh tế tập thể mà Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
phát triển.
Có thể nói rằng sự ra đời của Luật HTX năm 1996 đã tạo ra động lực và
sức sống mới cho khu vực kinh tế hợp tác và HTX. Các HTX cũ đã chuyển đổi
và bắt đầu hồi phục, phát triển với các nguyên tắc được đông đảo xã viên đồng
tình, ủng hộ. Bên cạnh các HTX cũ chuyển đổi đã thành lập hàng nghìn HTX
mới trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, những HTX này tuy cịn nhỏ về quy mơ
vốn, số lượng xã viên... nhưng đã tạo ra những mẫu hình HTX mới, đích thực,
thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động của mình như các loại
hình tổ chức kinh tế khác, những HTX này có động lực và sức sống, mạnh dạn
tham gia thị trường để phát triển trong điều kiện mới.
♦ Phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các loại hình sở hữu hỗn hợp
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành
phần. Tại ĐH lần này, Đảng ta xác định nền kinh tế tồn tại 6 TPKT bao gồm:
KT quốc doanh và KT tập thể), KT TB tư nhân, KT cá thể, KT TB Nhà nước,
KT tự cung tự cấp. Hội nghị TW lần thứ 6 khóa VI đã cụ thể hóa hơn nữa
những quan điểm tại ĐH VI:
Trong vấn đề này Nhà nước chủ trương giao ruộng đất cho xã viên, hợp
tác xã hợp tác xã nông nghiệp, vậy ở nơng thơn các hộ gia đình đã trở thành các
đơn vị sản xuất tự chủ hồn tồn, điều đó đã thúc đẩy rất nhanh sự phục hồi của
kinh tế cá thể. Đặc biệt, Năm 1990 Quốc hội ban hành một số luật như: Luật
Doanh nghiệp tư nhân, luật thuế doanh thu và Luật công ty… đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động của khu vực này. Trong đó, Hiến pháp mới ban hành năm
1992 quy định mọi công dân được tự do kinh doanh theo pháp luật không hạn
6
chế về quy mô vốn và số lao động sử dụng. Sau đó hệ thống pháp luật tiếp tục
được hồn thiện và điều chỉnh phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước nhà
càng góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế cá thể, tư nhân và các
loại sở hữu hỗn hợp.
2.2.2 : Sự điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chủ trương lớn của Đảng
và nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta và đã có
những bước thay đổi tích cực, điều đó được thể hiện trên những phương diện
sau:
Một là: Cơ cấu kinh tế đã có những thay đổi theo hướng tích cực, từng
bước khai thác và phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành, từng thành phần
kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao qua các thời kỳ và qua các
năm
Hai là: xét một cách tổng thể cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là: nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước cho chuyển dịch cơ
ngành kinh tế đã có sự điều chỉnh phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội. Đặc biệt, vốn đầu tư đã tập trung hơn cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo và các vấn đề xã hội nhằm tạo nền
tảng cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thuận lợi
Bốn là: hệ thống luật pháp, chính sách và cách thức chỉ đạo của nhà
nước đã có nhiều thay đổi theo hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế. Các luật thuế được sửa đổi, luật lao động, luật đất đai, các chính sách
khuyến khích xuất khẩu, chính sách hỗ trợ vốn …ln được quan tâm điều
chỉnh phù hợp với lợi ích của nhân dân.
7
2.2.3 : Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực
chất của cơ chế quản lý mới đó là “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức
hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Đặc biệt với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm trước đã
không tạo được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã
hội, bởi vậy trên cơ sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế từ năm 1986 đến nay Đảng ta đã đưa ra cơ chế quản lý
theo hướng “xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cớ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”,
đó chính là sự đổi mới cả hệ thống các chính sách quản lý kinh tế, đồng thời
tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Trong đó bao
gồm những nội dung cơ bản như:
- Cơng tác kế hoạch hố trong thời kì này được cải tiến dần theo hướng
chuyển từ kế hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế
hoạch hố gián tiếp. Nghĩa là: Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các
mục tiêu lớn, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu và điều tiết nền kinh tế bằng các
chính sách, các công cụ kinh tế vĩ mô để dẫn nền kinh tế theo định hướng đề ra
cho từng giai đoạn.
- Xoá bỏ bao cấp, tự do hoá giá cả, khơi phục các quan hệ hàng hố tiền
tệ. Đổi mới cơ chế hình thành và quản lý giá cả đã được đề ra ở Đại hội VI:
“chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các quy luật, trong đó quy luât giá
trị có tác dụng trực tiếp. Giá cả phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với
sức mua của đồng tiền… phải phấn đấu thi hành chính sách một giá kinh
doanh”. Đến năm 1990 Nhà nước ta đã cơ bản xoá bỏ cơ chế Nhà nước định
giá và bao cấp qua giá. Chức năng định giá do thị trường quy định, chính vì vậy
thị trường được khôi phục, các quy luật kinh tế thị trường hoạt động trở thành
cơ chế vận hành của nền kinh tế. Chính q trình này đã thúc đẩy phân phối và
sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn.
- Đổi mới hệ thống tài chính, tiền tệ: được thực thi bằng những hoạt động
như: Nhà nước bắt đầu sửa đổi một số loại thuế: Thuế môn bài, thuế doanh thu,
8
Thuế hàng hoá…. Để nguồn thu từ thuế dần dần thay cho nguồn thu quốc
doanh. Tiếp theo Nhà nước đã ban hành và sửa đổi nhiều luật mới như: Luật
thuế xuất nhập khẩu, luật thuế doanh thu, luật thuế sử dụng đất nơng nghiệp…
Đồng thời để thích ứng với cơ chế mới, từ năm 1988 hệ thống ngân hàng được
tổ chức lại thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước: làm chức năng quản lý Nhà nước
tiền tệ, tín dụng, ban hành và kiểm tra thực hiện các chính sách tiền tệ trong hệ
thống ngân hàng và Ngân hàng thương mại quốc doanh có chức năng kinh
doanh tiền tệ, hoạt động như các doanh nghiệp Nhà nước khác, tức là phải hạch
toán kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm.
- Tạo lập và từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường.
Thứ nhất: khôi phục và mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thứ hai: hình
thành thị trường lao động sơ khai tự phát. Năm 1994 Luật lao động đượ ban
hành đã thể chế hoá các quan hệ cung cầu trên thị trường này. Thứ ba: lá sự ra
đời và phát triển của thị trường tài chính tiền tệ nhờ q trình cải cách hệ thống
ngân hàng đã góp phần thúc đẩy việc huy động, giao lưu, cung ứng vốn cho
nền kinh tế. Thứ tư là sự tự phát hình thành và hoạt động mạnh mẽ của thị
trường bất động sản. Thứ năm là yếu tố thị trường khoa học và công nghệ- một
yếu tố nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước: Nhà nước ta
tập trung vào việc thực hiện chức năng định hướng phát triển, trực tiếp đầu tư
một số lĩnh vực quan trọng nhằm hỗ trợ thị trường, tạo môi trường thuận lợi
cho các nhà kinh doanh. Bên cạnh đó nhà nước ta cịn thiết lập khn khổ pháp
luật và quản lý kinh tế thơng qua pháp luật. Nhìn chung trong giai đoạn này quá
trình đổi mới cơ chế quản lý của nước ta diễn ra theo hướng vừa làm vừa sửa
đổi, bố sung.
2.2.4 : Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Thực tiễn từ 1986 đến nay đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển của đảng ta là hoàn toàn đúng đắn và hợp
lý. Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững mơi trường hồ bình, tạo các
điều kiện quốc tế thuận lợi cho cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính trị xã hội, củng cố an ninh
9
quốc phòng, đưa dất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn phát
triển mới.
♦ Ngoại thương từng bước mở cửa và hội nhập.
Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu trong nước bằng nhiều biện pháp cụ thể: Nhà nước xoá bỏ bao cấp trong
kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các doanh nghiệp. Đồng thời từ bỏ nguyên
tắc độc quyền ngoại thương từ năm 1990. Cùng với đó là sự ra đời của các văn
bản luật như: Luật thuế xuất nhập khẩu(1987), Luật thương mại(1998) đã góp
phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu trong nước. Bên cạnh đó nhà nước ta
cịn điều chỉnh tỷ giá hối đối để khuyến khích nhập khẩu. Từ 1991 chế độ hai
tỷ giá được xoá bỏ chuyến sang thực hiện tỷ giá linh hoạt có quản lý của nhà
nước.
♦ Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngồi
20 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện
nay, đầu tư nước ngồi thực sự trở thành hình thức hợp tác kinh tế quốc tế rất
hiệu quả đối với các nước đang phát triển và Việt Nam cũng khơng nằm ngồi
quy luật đó. Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy để khôi phục và phát
triển kinh tế xã hội, Đảng đã chủ trương mở cưa kinh tế, thực hiện cơng cuộc
đổi mới tồn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng điều lệ đầu tư(1977) lên
thành bộ luật đầu tư nuớc ngoài tại Việt Nam(1987). Sự ra đời của bộ luât này
đã tạo ra môi truờng pháp lý cao hơn để thu hút vốn đàu tư nước ngoài vào Việt
Nam. Cùng với với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật , khung pháp lý song
phương và đa phương liên quan đến đàu tư nước ngồi cũng khơng ngừng được
mở rộng và hoàn thiện. Năm 2005 Nhà nước ban hành luật đầu tư và có hiệu
lực từ ngày 1/7/2006 đã cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường
pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Đây là điều kiện thuận lợi
thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư,tăng cường sự quản lý của nhà
nước đối với hoạt động đầu tư. Từ đó tạo tiền đề và là địn bẩy quan trọng cho
sự phát triển kinh tế của nước ta.
10
Chương 2: Những thành tựu và hạn chế trên lĩnh vực kinh tế của
nhà nước ta trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
1. Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế mà nhà nước ta đã đạt được.
Hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh tế
thị trường (KTTT) định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều
kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước.
Bước sang năm 1986 đường lối Đổi mới của Việt Nam đã bước đầu mở
ra khả năng vượt qua tình trạng bị bao vây. Có thể nói trong khoảng thời gian
giữa hai kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986 – 7/1991), đường
lối đối ngoại rộng mở, đa phương hố, đa dạng hố dần dần hình thành. Nhất là
sau khi quân đội Việt Nam đã rút tồn bộ khỏi Campuchia (9/1989) thì những
vướng mắc trong quan hệ với các nước ASEAN, Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU…
dần dần được tháo gỡ tại Đại hội VII của Đảng đã vang lên lời tuyên bố :“Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hồ
bình, độc lập và phát triển”. Chính những biến đổi quan trọng này là cơ sở
bước đầu để đất nước ta tiến vào thời kì đổi mới.
Trong bước đầu, Việt Nam đã bắt đầu quá trình cải cách bằng tự do hoá
giá cả và thương mại, cả trong thị trường nội địa lẫn trong các giao dịch quốc
tế. Nhờ đó, những quyết định sản xuất, tiêu dùng và đầu tư của các tác nhân
kinh tế ngày càng dựa trên các tín hiệu của thị trường. Tiếp theo, là những cải
cách có tính hệ thống để chuyển cơ chế quản lý kinh tế sang hệ thống dựa trên
thị trường. Những cải cách này đã khơng theo mơ hình tập thể hố khu vực
nơng nghiệp - khu vực vốn chưa được cơ khí hố như ở các nước Đơng âu - và
đề cao hộ gia đình như là đơn vị sản xuất cơ sở, tăng quyền tự chủ lớn hơn cho
các doanh nghiệp Nhà nước, và khuyến khích hội nhập nhiều hơn vào nền kinh
tế thế giới. Các biện pháp này cũng được hỗ trợ bởi cải cách đất đai nhằm động
viên sản xuất nông nghiệp và tăng thu nhập nội địa, nhờ đó giữ được mức tiêu
dùng và cầu nối tương đối tốt.
11
Đối diện với những thách thức và cần thiết của chuyển đổi hệ thống để
tiến tới một nền kinh tế thị trường và ổn định tài chính để khơi phục các cân
bằng kinh tế vĩ mô, những cố gắng cải cách của Đảng và Nhà nước từ 1989 đã
mang lại nhiều tiến bộ đáng kể, đến nay đã thiết lập được những phần tử cơ bản
của hệ thống kinh tế thị trường, bao gồm: (1) hệ thống giá cả tự do; (2) khu vực
tư nhân năng động hơn (60% các hoạt động sản xuất); (3) chế độ ngoại thương
mở cửa rộng rãi; và (4) hoà nhập các hoạt động kinh tế phi hình thức rộng lớn
vào các luồng của thị trường chính thức dựa trên luật pháp.
Đặc biệt, việc tháo gỡ các hạn chế thương mại và các biện pháp tự do
hố giá cả đã mở ra những kích thích tiền tệ - gần như không xuất hiện trong
các nền kinh tế kế hoạch hố tập trung - có tác dụng nhanh chóng hỗ trợ vào
việc nâng cao tỷ lệ sử dụng các nguồn lực, nhất là trong khu vực nơng nghiệp.
Trong đó, Các nguồn ngoại thương tăng lên cũng kéo theo bùng nổ đầu tư trực
tiếp nước ngoài (trong các năm 1992-1996) và viện trợ quốc tế. Kết quả là cho
đến nay nước ta đã tích luỹ được dự trữ ngoại tệ ở mức cần thiết so với gần như
khơng có trước cải cách.
Đầu thập kỷ 1990, mức lạm phát cao được các nhà kinh tế chấp nhận như
một hệ quả tất yếu của quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Mặc dù
lạm phát thời kỳ này cũng ở mức hai con số, nhưng những biện pháp chống lạm
phát hiệu quả đã kéo chỉ số giá tiêu dùng từ 67,5% (năm 1991) xuống còn
17,6% (năm 1992).
Trong hai năm 1997 - 1998, mức tăng lên hàng năm của chỉ số giá tiêu
dùng không vượt quá một con số. Chênh lệch giá tiêu dùng giữa các tháng
trong năm không nhiều, có tháng lên tháng xuống. Sau Tết, chỉ số giá tiêu dùng
có xu hướng giảm xuống, vào tháng ba của các năm 1996 và 1997 đều giảm so
với tháng trước, lần lượt là 2,3% và 3% (1).
Trong giai đoạn 1992-1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao – bình
quân gần 9% mỗi năm. Động lực tăng trưởng trước tiên gắn liền với mức đầu
tư và tăng trưởng công nghiệp cao, được hỗ trợ mạnh mẽ từ nguồn vốn đầu tư
12
trực tiếp nước ngoài lên tới 2 tỉ USD mỗi năm, đã đóng góp từ 5-10% GDP
hàng năm. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 2 tỉ USD năm 1991
lên gấp hơn 4 lần sau 6 năm.
♦ Tốc độ tăng trưởng GDP
Theo như thống kê tổng hợp thì tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007:
7,55%/năm. Năm 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,23%. Và - GDP/người/năm: 1995 là 289 USD,
năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1.024 USD.
Trong đó cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4%
GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác
xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP.
Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới
(1986-1991) tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng tương đối chậm.
Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ
tăng trưởng GDP ln đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm
sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ
289 USD (năm 1995) lên 1.024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang
từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và
đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước
chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang
phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến
3.385 USD).
♦ Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm
năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực
kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm
2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều
13
lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã
hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp
tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối
quan trọng với thế giới về chuyển giao cơng nghệ, giao thơng quốc tế .
♦ Chính sách mở cửa
Thành tựu đổi mới trong nước kết hợp với thực hiện chính sách mở cửa,
tích vực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển
mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế
mới. Từ một quốc gia bị phong toả, cấm vận; từ một nền kinh tế kém phát triển
và “đóng cửa”, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh
thổ; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngồi ra, Việt Nam cịn là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc
tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
♦ Phúc lợi xã hội
Với quan điểm chỉ đạo của Đảng: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không
ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xố đói
giảm nghèo, đồng thời khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp
đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn; phát
triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát
triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và
thông qua phúc lợi xã hội; phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo
14
đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Đặc biệt, khi đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần
thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận
thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống
quan điểm lý luận và công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
2. Những hạn chế trên lĩnh vực kinh tế mà Nhà nước ta cần khắc phục
Bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới,
Nhà nước ta vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm dẫn đến những mâu thuẫn
của quá trình phát triển nền kinh tế nước nhà.
Trong suốt quá trình hơn 20 năm đi vào thời kì đổi mới, cho thấy nền
kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh tế chưa được huy
động và sử dụng tốt. Thất thốt, lãng phí trong quản lý kinh tế, đặc biệt trong
quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý doanh nghiệp Nhà nước còn
rất nghiêm trọng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành
chính trong hệ thống chính quyền chưa đạt yêu cầu đề ra. Nhiều nơi còn vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân, việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không
nghiêm. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm hoặc chưa giải quyết tốt.
Từ đó, có thể thấy, để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta
phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn phức tạp, trong đó nổi bật lên là những mâu
thuẫn sau:
a. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất
cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu năm 2010 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển,
tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng 8%/năm.
Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực hiện phát
15
triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao
động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh
và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn
thương trước tác động không lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên ngoài.
Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế giới
ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
b. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng
XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra ưu sách khắc phục mặt trái của
kinh tế thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả
năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hố, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm
được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động
tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm
cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
nhũng nhiễu dân, suy thối về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống
của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hố lai
căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ
tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống
mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình
hình gia tăng hơn... Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn
có hiệu quả tình trạng đó.
c. Mâu thuẫn giữa u cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với
sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh
hơn nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự
kết hợp hài hồ hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng
16
ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ
trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn cịn
thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị cịn q cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa
thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu
thành hệ thống chính trị cịn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực
hiện luật pháp, kỷ cương khơng nghiêm. Nhiều nơi cịn vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt
động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể cịn trong tình trạng viên chức hố... Sự
yếu kém đó, nếu khơng được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện
của hệ thống chính trị sẽ trở thành sự cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh
tế.
d. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu
giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho q trình đó.
Dân chủ hố đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi
mới. Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tốt nhất để xác lập vững
chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy nhất
cầm quyền, khơng đa ngun về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước
theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực
hiện dân chủ thích hợp với truyền thống văn hố chính trị, với trình độ dân trí,
trình độ văn hố chung của nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ
sở tuy đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn
bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế cịn nhiều hạn
chế. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa
có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, vai trò
giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền và cán bộ,
Đảng viên cịn mờ nhạt. Chính những yếu tố này đã góp phần khơng nhỏ trong
việc ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển nền kinh tế nước nhà.
17
e. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả
năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động
tiêu cực của hội nhập.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển,
nhưng chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử lý mối
quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của q trình hội nhập kinh tế quốc tế,
giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn,
rộng hơn, đa dạng hơn... với việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.
Trên đây là những mặt mâu thuẫn và hạn chế cơ bản mà trong quá thời kì
đổi mới Đảng và Nhà nước ta cịn gặp phải, nó có ảnh hưởng tiêu cực đến việc
phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức được đúng đắn mức độ nghiêm trọng
của vấn những vấn đêf nêu trên Đảng và Nhà nước ta đã và cần phải đưa ra
những chủ trương và biện pháp cụ thể để khắc phục những mặt còn thiết sót.
3. Phương hướng khắc phục và định hướng phát triển trên lĩnh vực
kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Thứ 1. Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, là điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có một Nhà
nước đủ mạnh, trong sạch để quản lý tồn bộ q trình phát triển kinh tế thực
hiện theo định hướng XHCN. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất trong
Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt
Đảng, chống lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ. Cần xây dựng
Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục đổi mới công
tác cán bộ, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thối hóa, biến chất.
Chú trọng xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng
18
đảng viên. không ngừng đào tạo, rèn luyện và kết nạp được những quần chúng
ưu tú vào hàng ngũ của Đảng.
Thứ 2. Mọi chủ trương chính sách tiếp tục đổi mới kinh tế phải coi ưu
tiên số 1 là giải phóng lực lượng sản xuất và mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của
xã hội nhằm tất cả vì mục tiêu phát triển. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện
nay bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững là nhiệm vụ
chính trị quan trọng số 1, là nhiệm vụ trung tâm.
Thứ 3. Lãnh đạo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ song song: CNH,
HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phát triển mạnh nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Cần phải nhận thức sâu sắc rằng thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước trước mắt, cũng như lâu dài không thể tách rời sự
phát triển ngày càng hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do
đo, một trong những vấn đề có tính “hạt nhân” của sự tiếp tục đổi mới lãnh đạo
kinh tế của Đảng là đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế có tác
động tích cực thúc đẩy mạnh nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng
XHCN và thực hiện có hiệu quả các chính sách CNH, HĐH đất nước để từng
bước thực hiện được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Thứ 4. Phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nguy cơ tụt hậu của nền kinh
tế với yêu cầu bắt buộc phải tiến lên theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
Thứ 5. Ngăn chặn và đẩy lùi những nguy cơ tiềm ẩn có thể đưa nền kinh
tế nước ta đi chệch định hướng XHCN.
Thứ 6. Lãnh đạo phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Vì đây là
một đặc trưng của định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện
tính ưu việt của chế độ xã hội ta.
Thứ 7. Nhanh chóng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn suy thoái kinh tế do tác
động của khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, quyết tâm giảm tỷ lệ lạm phát
19
và tăng giá xuống ở mức một con số; bảo đảm và nâng cao đời sống dân sinh cả
về vật chất và tinh thần.
Thứ 8. Nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng, đặc biệt là những
vấn đề sau đây:
- Nâng cao năng lực nắm vững các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những chủ
trương, chính sách kinh tế đúng đắn, khai thác được tối đa những tiềm năng
trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế và thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quần chúng nhân dân,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thành cơng các
chính sách đổi mới kinh tế trong bất cứ tình huống khó khăn nào.
20
C. KẾT LUẬN
Sau một chặng đường dài đấu tranh và giải phóng dân tộc, Việt Nam
bước vào q trình hội nhập, đổi mới kinh tế với nhiều khó khăn và thách thức.
Song trong 2 thập kỉ qua Đảng và Nhà nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu
quan trọng từ việc đổi mới kinh tế.
Để đạt được những thành tựu đó địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có
những chính sách và đường lối cải cách táo bạo đóng góp cho sự thành cơng
của ngày hơm nay.
Ngày nay tuy nền kinh tế Việt Nam chưa có một vị trị tương xứng trên
thương trường thế giới. Song nền kinh tế nước nhà vẫn được đánh giá cao cho
những nỗ lực và phát triển. Và chúng ta- những công dân nước Việt hồn tồn
có thể lạc quan và tin tưởng vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta
trong giai đoạn tới.
Chính vì thế việc đi sâu tìm hiểu quá trinh phát triển kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1986 đến nay, tác giả muốn cho mọi người thấy những nỗ lực mà
Đảng và Nhà nước ta đã làm trong thời gian qua từ đó đúc rút được những bài
hoc kinh nghiệm quý báu. Đồng thời tìm ra những định hướng mà Đảng và Nhà
nước ta sẽ thực thi trong giai đoạn tới nhằm phát triển bền vững và lâu dài nền
kinh tế nước nhà.
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn này còn nhiều vấn đề
nóng hổi, đáng quan tâm. Song vì thời gian và hiểu biết có phần hạn chế nên đề
tài này khơng thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được những góp ý
từ q thầy cơ.
21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Giáo trình
1. Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân (nhà xuất bản thống kê Hà Nội)
Chủ biên: GS.TS. Nguyễn Trí Dĩnh và PGS.TS. Phạm Thị Quý.
2. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam những rào cản phải vượt qua(NXB Lý
luận chính trị)_ GS.TS. Nguyễn Văn Thường.
3. Tiến trình lịch sử Việt Nam (NXB Giáo dục)- Nguyễn Quang Ngọc
(chủ biên).
4. Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin
II. Website.
1.
2.
www.economics.vnu.edu.vn
3. vietnamnet.vn
4. chinhphu.vn
22
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ BÀI ...............................................................................................................................
1
B. NỘI DUNG .........................................................................................................................
2
Chương I: Bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước từ những năm 1986 đến nay ...............
2
1. Hoàn cảnh thế giới tác động đến nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này ..........
2
2. Tác động của hoàn cảnh lịch sử trong nước đến nền kinh tế nước nhà. ......................
3
2.1. Thực trạng nền kinh tế nước nhà giai đoạn 1986 đến nay ....................................
3
2.2. Những biện pháp thử nghiệm và đổi mới mà Đảng và Nhà nước thực thi
trong giai đoạn 1986 đến nay ...............................................................................................
4
2.2.1: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần .................................................................
4
2.2.2 : Sự điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế................................................................
7
2.2.3 : Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ...............................................................................
8
2.2.4 : Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. ..............................................
9
Chương 2: Những thành tựu và hạn chế trên lĩnh vực kinh tế của nhà nước ta
trong giai đoạn từ 1986 đến nay. .........................................................................................
11
23
1. Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế mà nhà nước ta đã đạt được. ...........................
11
2. Những hạn chế trên lĩnh vực kinh tế mà Nhà nước ta cần khắc phục ......................
15
3. Phương hướng khắc phục và định hướng phát triển trên lĩnh vực kinh tế của
Đảng và Nhà nước. .................................................................................................................
18
C. KẾT LUẬN .........................................................................................................................
21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................
22
24