Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.49 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

--------------------------------

MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

(Học kỳ 2 năm học 2019 – 2020)

Mã sinh viên
Họ tên

: A32281

: Nguyễn Phương Thảo

Số điện thoại

: 0388621272


Câu 1: Phân tích những nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 và nguyên nhân nào là chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi này? Tại sao?
1.1. Nguyên nhân thắng lợi:
1.1.1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nguồn gốc chủ yếu quyết định thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám.
Đó là thắng lợi của việc xây dựng một Đảng Mác-Lênin có đường lối đúng
đắn, bảo đảm thơng suốt và qn triệt đường lối đó trong thực tiễn chuẩn bị khởi
nghĩa và khởi nghĩa, làm cho tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh và bám rễ sâu
trong quần chúng nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi trước hết và chủ yếu là do đường lối chiến


lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung,
phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Đảng ln ln tìm cách làm cho toàn bộ đường lối chiến lược, sách lược
đúng đắn của mình thơng suốt, qn triệt xuống từng đảng viên và quần chúng cách
mạng. Đảng luôn luôn nêu cao ý chí kiên cường, bất khuất, căm thù địch, nêu cao
khí tiết người cộng sản, lòng trung thành với cách mạng, sẵn sàng chịu đựng mọi
gian khổ hy sinh.
Tổ chức Đảng được xây dựng phù hợp với tình hình hoạt động, bí mật, gọn
nhẹ, số lượng ít chất lượng cao, ăn sâu bám rễ trong xí nghiệp, đường phố và thơn
xóm; trong sạch, tỉnh táo và nghiêm ngặt đề phòng bọn chống Đảng, thường xuyên
kiểm tra nội bộ. Tổ chức tốt căn cứ địa và khu an toàn của cơ quan lãnh đạo là một
điều kiện cơ bản bảo đảm cho phong trào phát triển liên tục. Các tờ báo của Đảng
và của các đoàn thể cách mạng được tổ chức hoạt động tốt. Hệ thống thông tin liên
lạc từ trên xuống dưới là biện pháp hàng đầu bảo đảm sự thông suốt, quán triệt
đường lối, bảo đảm thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng và trong
phong trào cách mạng.


1.1.2. Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến
chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc.
Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không
đơn giản. Phong trào đấu tranh của quần chúng năm 1930 - 1931 cũng nổi lên với
khẩu hiệu "Đả thực, bài phong”. Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939,
trước nguy cơ phát-xít, Đảng thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết
hợp đấu tranh dân tộc với đấu tranh dân chủ để chống phát-xít. Điều đó bước đầu
tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai
vạn người tham dự ở nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938.
Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế
quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt trận
Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến

lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong.
Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ:
"Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân
quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì khơng giải quyết được cách
mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì khơng giải
quyết được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến
tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc
thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng… Đứng trên lập trường giải phóng dân
tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn
đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết". Nhờ vậy, chỉ trong
thời gian ngắn, một làn sóng cách mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, làm rung động bộ máy thực dân.


Tháng 6-1941, Liên Xơ tun chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh quốc tế
chống phát-xít gồm Liên Xơ, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt Nam, thời cơ
giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước,
chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (họp ở Pắc Bó, Cao Bằng). Tại Hội nghị này, Đảng
đã hoàn thiện thêm một bước nữa việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thay khẩu
hiệu "Phản đế" (của Hội nghị Trung ương 6) hay "Phản đế cứu quốc" (của Hội nghị
Trung ương 7) bằng khẩu hiệu "Cứu quốc". Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Chính
sách của Đảng ta hiện nay là chính sách cứu quốc, cho nên mục đích của các hội
quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Công hội từ nay lấy tên là
Công nhân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy những người thợ Việt Nam muốn tranh
đấu đánh Pháp - Nhật, lại có thể thu nạp hết cả những hạng cai ký, đốc công trong
xưởng mà những công hội trước kia không hề tổ chức. Nông hội từ nay gọi là Việt
Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông, địa
chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật". Đồng thời, Mặt trận Dân tộc thống nhất
phản đế Đông Dương chuyển thành ba mặt trận "cứu quốc" của ba dân tộc Việt,
Miên, Lào.

Ở Việt Nam, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận cứu quốc,
gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba kỳ.
Ngồi Cơng nhân cứu quốc, Nơng dân cứu quốc, cịn có Qn nhân (hay binh sỹ,
du kích) cứu quốc, Thương gia cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong... Như vậy, chiến lược cách mạng ngày càng
được hoàn thiện và luôn đi đôi với những sách lược cách mạng mềm dẻo, thêm bạn
bớt thù (như thu hút cả cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp - Nhật vào
Mặt trận cứu quốc). Chiến lược, sách lược đó phù hợp với yêu cầu cách mạng và
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được cụ thể hố trong Chương trình cứu
nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường bí mật và bán cơng khai,
Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền khởi nghĩa rộng lớn,


rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành công (chứ không phải đó chỉ là phong trào "tự
phát" của quần chúng như có người đã nói).
1.1.3. Bố trí thế trận và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với yêu cầu khách
quan của lịch sử.
Khi tình thế cách mạng có sự chuyển biến mau lẹ, đối tượng cách mạng luôn
thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách
xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận thức xã hội Việt Nam để đề
ra các quyết sách chiến lược đúng đắn. Đó là nhận thức rõ các mâu thuẫn chủ yếu
và mâu thuẫn thứ yếu trong xã hội, xác định rõ kẻ thù chính, kẻ thù phụ của cách
mạng Việt Nam. Cụ thể, lúc đầu mũi nhọn của cách mạng chĩa vào thực dân xâm
lược Pháp và tay sai phong kiến. Khi Nhật vào Việt Nam, Pháp làm tay sai cho
Nhật, kẻ thù chủ yếu của cách mạng là Pháp - Nhật. Từ năm 1943 trở đi, Nhật ngày
càng lấn chân Pháp ở Việt Nam, kẻ thù chủ yếu của cách mạng được xác định lại là
Nhật - Pháp. Từ ngày 9-3-1945 (ngày Pháp đầu hàng Nhật) trở đi, kẻ thù chủ yếu
của cách mạng chỉ cịn là phát-xít Nhật và tay sai. Điều này có tầm quan trọng rất
lớn trong việc bố trí thế trận cách mạng và lực lượng cách mạng.
Từ năm 1943, bên cạnh Mặt trận Việt Minh là lực lượng nòng cốt, Đảng còn

thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát-xít và tuyên bố gia nhập Đồng Minh quốc
tế chống phát-xít. Với sách lược này, ở trong nước có thể thu hút được các lực
lượng dân chủ chống phát-xít, kể cả Pháp kiều, Hoa kiều. Ở ngồi nước có thể coi
Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc đều là bạn đồng minh. Hội nghị Ban Thường vụ Trung
ương họp từ ngày 25 đến ngày 28-2-1943 khẳng định: "Từ Xô - Đức chiến tranh
bùng nổ (22-6-1941), cuộc thế giới chiến tranh lần thứ hai này đã tiến lên giai đoạn
mới và đã thay đổi tính chất. Nó khơng còn là đế quốc chủ nghĩa chiến tranh nữa,
mà là chiến tranh phát-xít xâm lược và chống phát-xít xâm lược". Vì vậy, "Muốn
cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Nhật - Pháp có thêm vây cánh,


chúng ta phải ra sức tìm kiếm các phái đảng chống phát-xít của người ngoại quốc ở
Đơng Dương và đề nghị với Việt Minh liên minh với họ theo tinh thần bình đẳng và
tương trợ đặng chính thức thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương".
Sách lược này tạo nên thế chính nghĩa cho Việt Minh trong sự nghiệp kháng Nhật,
cứu nước. Khi giành được chính quyền từ tay phát-xít Nhật, cách mạng Việt Nam
đã có thế hợp pháp là đứng vào hàng ngũ Đồng Minh chống phát-xít để ra Tun
ngơn Độc lập và tiếp đón qn Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật.
1.1.4. Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi
nghĩa
Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng Việt Nam
vừa phát huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của ông cha, vừa vận dụng
hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng.
Hình thức này đã nảy sinh từ cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) và
phong trào Mặt trận Dân chủ (1936 - 1939). Đến cuộc vận động cách mạng những
năm 1939 - 1945, hình thức đấu tranh chính trị được vận dụng một cách phổ biến
trong đại chúng.
Ngoài cơng, nơng, cịn vận động được cả tiểu thương, tiểu chủ, cai ký, đốc
công... cùng tham gia chống độc tài, phát-xít. Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp tăng

cường vơ vét lương thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người Việt Nam
chết đói, Đảng đã phát động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị với vũ trang:
mít tinh, biểu tình địi quyền sống, đi đơi với vũ trang phá kho thóc cứu đói, lập các
căn cứ địa và các chiến khu cách mạng, tiến hành khởi nghĩa từng phần, thành lập
chính quyền cách mạng địa phương, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong tồn quốc.


1.1.5. Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính
quyền, ít phải đổ máu.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành cơng, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay,
nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đốn: năm 1945, cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành cơng. Chương trình cứu nước của
Việt Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đã đến tay những chiến
sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao tù. Khi thời cơ
đến, khắp nơi đều chủ động đứng lên giành chính quyền địa phương, như các chiến
sỹ Ba Tơ đã nổi lên phá ngục tù, lập căn cứ địa cách mạng ngay sau ngày Nhật đảo
chính Pháp (9-3-1945). Trong Cao trào tiền khởi nghĩa, nhiều xã, huyện và một số
tỉnh đã giành được chính quyền trước ngày giành chính quyền ở Hà Nội. Phương
châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm
đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít
phải đổ máu. Đây là cả một cuộc đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với
bọn đế quốc, phát-xít. Nếu cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, sẽ bị bọn phát-xít Nhật
dập tắt; nếu nổ ra muộn hơn - khi quân Đồng Minh, trong đó có Anh, Pháp và Tàu
(Tưởng) vào, thì cũng gặp khó khăn. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam
nhân danh là người đứng về phía Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc
lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của cách mạng Việt Nam: nắm đúng thời cơ,
nổi dậy kịp thời, giành được chính quyền.
Như trên đã chứng minh, mặc dù có thuận lợi khách quan, nhưng nguyên

nhân chủ quan mới là nguyên nhân quyết định sự thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám. Đó là do có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng. Nói cách khác, thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối chiến lược, sách lược chủ
động và sáng tạo của Đảng.


1.2. Nguyên nhân chủ yếu nhất, quyết định thắng lợi này
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân, trong đó nhân
tố hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
1.3. Lý do
Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối
cách mạng. Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước.
Người đã cùng Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải phóng dân tộc,
một tư tưởng lớn đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930). Sự
phát triển về đường lối được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp dưới lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn
kết rộng rãi toàn dân tộc, phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ
đó xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa
từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hòa
dân chủ Việt Nam. Chú trọng phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây
dựng Đảng vững mạnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong tồn
Đảng. Nội dung cơ bản đó của đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể
hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung ương (2-1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ
Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-31945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào - Tuyên Quang (14 - 158-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã dẫn dắt phong trào cách mạng của toàn
dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng lợi.
Đảng coi trọng phát triển thực lực cách mạng, giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ giữa nhân tố chủ quan, khách quan, thời cơ và nguy cơ. Đảng nhận thấy rõ,
cách mạng của ta phải do ta tự làm lấy, vì vậy phải có sức mạnh. “Dù sao chỉ có
thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi”. Nêu cao ý chí tự lực, tự cường,



đồng thời Đảng coi trọng sự ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, khi xác định cách
mạng Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống phát-xít. Tháng 8-1942, Hồ Chí
Minh sang Trung Quốc để liên lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của lực lượng Đồng
minh, chống quân Nhật xâm lược. Đầu năm 1945, Người lại sang Trung Quốc với
sứ mệnh đó. Yếu tố bên ngồi là quan trọng, song Hồ Chí Minh cho rằng sự đồng
tâm hiệp lực của dân ta mới là quyết định. Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh đạo Trường Chinh, Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích sâu sắc tình hình trong
nước và chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc này thời cơ thuận lợi
đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”.
Thời cơ thuận lợi chính là lúc cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân
Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước từ miền núi, nông thôn đồng bằng
đến đô thị; quân phiệt Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh ngày 15-81945 và chính quyền phong kiến, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim suy yếu,
hoang mang cực điểm; Trung ương Đảng và các tổ chức đảng trong cả nước đã sẵn
sàng đưa toàn dân vào hành động cách mạng với nguyên tắc chỉ đạo: tập trung,
thống nhất, kịp thời. Khi thời cơ chín muồi cũng là lúc xuất hiện nguy cơ cần phải
ngăn chặn, vượt qua. Thực dân Pháp lợi dụng sự thất bại của Nhật, tìm cách quay
lại khơi phục địa vị cũ ở Đơng Dương như trước ngày 9-3-1945. Các nước Đồng
minh theo phân công của Hội nghị Pôt-xđam (Đức) tháng 7-1945 vào giải giáp
quân Nhật nhưng có âm mưu xâm chiếm và chia cắt nước Việt Nam. Việc giành
chính quyền thành cơng trọn vẹn trong nửa cuối tháng 8-1945 là mẫu mực tuyệt vời
về nghệ thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn chặn được nguy cơ mới đe dọa vận
mệnh của dân tộc.


Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương có ý nghĩa quyết định tồn

cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh tới tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của những cán bộ, đảng viên tiêu biểu. Chỉ
với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo hơn 20 triệu đồng bào cả nước làm nên
chiến cơng có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch sử mãi mãi ghi công những cán bộ,
đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu của toàn dân. Khởi nghĩa ở Hà Nội
19-8-1945 với vai trị của các đồng chí: Nguyễn Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn
Huy Khơi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết, Nguyễn Duy Thân… Cuộc khởi nghĩa
ở Huế 23-8-1945 có sự lãnh đạo của Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh… Khởi nghĩa ở
Sài Gịn 25-8-1945 gắn liền với vai trị của Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu
và nhiều đồng chí khác. Đảng bộ và các đồng chí lãnh đạo các địa phương khác
cũng đã chủ động hành động như thế. Sự vùng dậy của cả một dân tộc vì độc lập, tự
do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao đẹp của cuộc
Cách mạng Tháng Tám.
Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa
sâu sắc về lý luận và thực tiễn đối với các thời kỳ cách mạng tiếp theo, nhất là với
công cuộc đổi mới hiện nay. Đổi mới bắt đầu từ sự khởi xướng và hoạch định
đường lối từ Đại hội VI của Đảng (12-1986). Trải qua 30 năm đổi mới, đường lối,
Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển trên cơ sở nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát
triển đất nước đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng. Hiện nay, cơ hội
cho sự phát triển đất nước là rất lớn khi ta đang đi trên con đường đúng với sự lãnh
đạo, quản lý đúng đắn của Đảng và Nhà nước; thế và lực của đất nước đã tăng lên
rất nhiều; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.
Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ những nguy cơ và thách thức trên con đường
đổi mới. Đó là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa cả trong nhận thức và hành


động. Nền kinh tế cịn có những mặt yếu kém, quy mô, năng suất, chất lượng, hiệu
quả, năng lực cạnh tranh cịn thấp. Tham nhũng, lãng phí, sự suy thối về tư tưởng

chính trị và đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn
chặn như mong muốn. Sự chống phá của các thế lực thù địch rất quyết liệt với âm
mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tình hình đó
địi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền và sức chiến đấu
của Đảng. Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật
sự trong sạch, vững mạnh, kiểu mẫu như mong muốn của Bác Hồ. Chỉ như vậy,
Đảng mới xứng đáng với sự kính trọng, tin cậy của nhân dân và toàn dân tộc, thực
hiện được sứ mệnh vẻ vang, lãnh đạo đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ, xây
dựng, phát triển bền vững đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.


Câu 2: Nhận thức mới của Đảng về kinh tế thị trường trong giai đoạn 1986-1996
(Đại hội Đảng lần VI-VIII) có sự thay đổi căn bản và sâu sắc như thế nào?
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã mở ra một thời kỳ mới thời kỳ đổi mới toàn diện, triệt để và sâu sắc mọi mặt đời sống của đất nước, trong
đó có lĩnh vực kinh tế, nhằm thực hiện có hiệu quả hơn cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Tuy vậy, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng chưa đề cập tới phát triển nền
kinh tế thị trường.
Về cơ cấu kinh tế, nổi bật nhất là quan điểm phải đẩy mạnh phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể
phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất định, coi trọng những hình thức
kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế ngành...
Về cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ rõ, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi
đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp. Xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và
trình độ phát triển của nền kinh tế, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch
hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, lấy kế hoạch hóa làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa

- tiền tệ; trong đó, tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng thứ hai; quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ
yếu, với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hồ lợi ích của tồn xã hội, lợi ích của
tập thể và lợi ích riêng của người lao động. Phải có chính sách mở rộng giao lưu
hàng hố, xóa bỏ tình trạng ngăn sơng, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa giới
hành chính. Thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ; phân
biệt rõ và kết hợp tốt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của các cơ quan nhà


nước trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các
đơn vị kinh tế cơ sở
Giai đoạn 1986-1996:
 Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế. (sự thay đổi sâu sắc)
 Bổ sung, phát triển đường lối đổi mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội (sự thay đổi căn bản)
1.1. Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), trên cơ sở
nhận thức đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
đang diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, Đảng ta
nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có
chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta”. Từ đó, Đảng chủ trương phải
biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra
yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngồi hệ thống xã hội chủ
nghĩa, với các nước cơng nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước
ngồi trên ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Triển khai chủ trương của Đảng, tháng 12-1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam được ban hành. Đây là lần đầu tiên Nhà nước ta tạo cơ sở pháp lý cho các

hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - mở cửa để thu hút nguồn
vốn, thiết bị và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh phục vụ công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Tháng 5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới, đề ra chủ trương kiên quyết đấu tranh chuyển cuộc


đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hịa
bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và xu thế tồn cầu
hố nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao động
quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hoá quan hệ
đối ngoại. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng
về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như: quan hệ chính trị quốc tế;
mục tiêu đối ngoại; an ninh và phát triển; đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng
trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự
đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của
Đảng ta. Sự chuyển hướng này đã đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hố quan hệ quốc tế.
Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ năm 1989, Đảng chủ trương xố bỏ tình
trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. So với chủ trương
của Đại hội V là “Nhà nước độc quyền ngoại thương và trung ương thống nhất
quản lý cơng tác ngoại thương”1, thì đây là bước đổi mới đầu tiên trên lĩnh vực
kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(tháng 6-1991) đề ra chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hồ bình”2, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”3. Đại
hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào và
Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh
thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc đẩy bình thường hố quan

hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt – Trung.
Trong quan hệ với khu vực, Đảng chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị
với các nước Đang Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng
Nam Á hồ bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với Hoa Kỳ, Đảng nhấn mạnh yêu cầu


thúc đẩy q trình bình thường hố quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của
Đảng thông qua xác định quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng. Các Hội nghị Trung ương (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá
quan điểm của Đại hội VII về lĩnh vực đối ngoại. Trong đó, Hội nghị lần thứ ba
Ban chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 6-1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế. Mở rộng để tiếp thu vốn, cơng nghệ, kinh
nghiệm quản lý của nước ngồi, tiếp cận thị trường thế giới trên cơ sở đảm bảo an
ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những mặt
tiêu cực phát sinh trong q trình mở cửa. Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (tháng 1-1994) chủ trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại.
Như vậy, quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ VI của Đảng, sau đó được các Nghị quyết Đại hội và Hội nghị
Trung ương từ khố VI đến khố VII phát triển đã hình thành đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế.
1.4. Bổ sung, phát triển đường lối đổi mới đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội
Sau Đại hội lần thứ VI (12/1986), BCHTW khóa VI đã có nhiều Hội nghị tập
trung lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986 - 1990), trong đó quan
trọng là Hội nghị lần thứ 2/VI (4/1987) quyết định phương hướng giải quyết vấn đề
lưu thông phân phối.Hội nghị lần thứ 3/VI (8/1987) quyết định về "chuyển hoạt
động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội

chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế”. Hội nghị lần thứ 5/VI (6/1988) ra
Nghị quyết Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Hội nghị lần thứ 6/VI
(1/1989) đánh giá tình hình và đề ra những chủ trương cụ thể để chỉ đạo công cuộc


đổi mới vào chiều sâu và nêu ra các nguyên tắc cơ bản phải được toàn Đảng, toàn
dân trong quá trình tiếp tục cơng cuộc đổi mới. Hội nghị lần thứ 7/VI (6/1989) ra
Nghị quyết về Một số vấn đề cấp bách về cơng tác tư tưởng truớc tình hình trong
nước và quốc tế hiện nay. Hội nghị lần thứ 8/VI (3/1990) thơng qua Nghị quyết về
tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm
vụ cấp bách của Đảng ta (Nghị quyết 8A). Hội nghị cũng đã thảo luận và thông qua
Nghị quyết Về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, đẩy mạnh công cuộ c đổi mới (Nghị quyết 8B). Hội nghị lần thứ 9/VI
(8/1990) bàn một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên
quyết thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,…
Tháng 6 năm 1991, Đảng đã tiến hành Đại hội làn thứ VII với tinh thần :Trí
tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế -xã hội đến năm 2000,… Cương lĩnh có 4 phần, 12 vấn đề lớn, đã khẳng
định 4 thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo
các cương lĩnh trước đó và rút ra năm bài học kinh nghiệm lớn, xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam. Về xây dựng CNXH, Cương lĩnh đã trình bày khái quát
những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình hình quốc tế tác động đến cách mạng
nước ta , nêu lên quan niệm của Đảng về CNXH mà nhân dân ta sẽ xây dựng là
một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá
nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.


Từ tháng 6/1991 đến 6/1996, BCHTW khóa VII đã có các hội nghị chuyên
đề bàn triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội. Đáng chú ý là Hội nghị lần thứ
2/VII (11/1991) bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội và việc sửa đổi
Hiến pháp. Hội nghị lần thứ 3/VII (6/1992) nghiên cứu và quyết định ba vấn đề
quan trọng về: tình hình thế giới và chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng.Hội nghị lần thứ 5/VII(6/1993)
nghiên cứu sâu hơn về thực trạng nông nghiệp và nông thôn, quyết định những chủ
trương để đưa nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và vững chắc hơn...
Từ ngày 20 đến ngày 25/01/1994 tại Hà Nội, Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII đã họp và chỉ rõ cơng cuộc đổi mới đang đứng trước
những 4 thách thức lớn là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về
nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch. Hội nghị lần thứ 7/VII (7/1994) bàn định về chủ trương, chính sách phát triển
công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân. Hội nghị lần thứ 8/VII
(1/1995) bàn thảo và ra nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà
nước…
Nhìn chung, đến nửa đầu năm 1996, công cuộc đổi mới trải qua chặng đường
10 năm, đã giành được nhiều thắng lợi mới to lớn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
1.5. Tổng kết
Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng mới
nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, chưa đề cập đến cơ chế thị trường và phát triển nền
kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư



duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự nhận thức và vận
dụng quan điểm kinh tế của V. I. Lê-nin về thời kỳ quá độ, đồng thời đã đặt cơ sở,
nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, khẳng định mình, tạo tiền đề cho
giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta.
Trên cơ sở kiểm điểm 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổng kết thực
tiễn những tìm tịi, sáng tạo và có kết quả tốt của các cơ sở kinh tế, tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định thực hiện nhất quán chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người
được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành
phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên
cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Đồng thời, Nghị quyết đã đưa ra quan điểm mới,
mang tính chất bước ngoặt về kinh tế quốc doanh, tạo cơ sở quan trọng cho việc
đẩy mạnh sắp xếp lại khu vực kinh tế này. Cụ thể, kinh tế quốc doanh phải được
củng cố và phát triển, nắm vững vị trí then chốt trong nền kinh tế, có lực lượng đủ
sức chi phối thị trường để thực hiện tốt vai trò chủ đạo, bảo đảm cho sự phát triển
ổn định và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề; những
ngành, nghề, loại hoạt động nào mà các loại hình kinh tế khác có thể làm tốt, có lợi
cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế ấy phát triển.
Đặc biệt, tại hội nghị này, lần đầu tiên Đảng khẳng định rằng, trong nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội là một thể thống nhất, thông suốt
trong cả nước và gắn với thị trường thế giới với nhiều lực lượng khác nhau tham
gia lưu thơng hàng hố, đồng thời đề cập đến cơ chế thị trường. Mặc dù chưa được
đề cập trực tiếp với tư cách là cơ chế quản lý nền kinh tế, song Đảng cũng chỉ rõ,



cơ chế thị trường phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hóa và các chính
sách kinh tế.
Đến Đại hội VII (6-1991), tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI,
Đảng tiếp tục khẳng định thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần,
đồng thời nêu rõ, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ khác. Trong cơ
chế đó, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh; hợp tác, liên doanh tự nguyện, bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp; Nhà
nước tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, bảo đảm sự
thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Bên cạnh đó, Đảng cũng chỉ
rõ, phải xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường, xóa bỏ độc quyền và đặc
quyền ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế. Như vậy, đây là lần đầu tiên Đảng
đề cập đến cơ chế thị trường với tư cách là cơ chế vận hành nền kinh tế. Mặc dù
chưa đề cập đến kinh tế thị trường và thị trường mới được thừa nhận ở một mức độ
giới hạn (sử dụng thị trường trong phạm vi cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hố
có kế hoạch), song, có thể nói, từ chỗ nhiều năm tẩy chay, kỳ thị thị trường đến chỗ
sử dụng cơ chế thị trường để điều hành nền kinh tế là một bước tiến lớn trong nhận
thức, trong tư duy kinh tế của Đảng ta. Cũng là bước phát triển đặc biệt quan trọng
trong đường lối đổi mới, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội khẳng định “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ đạo”. Tiếp đó,
Hội nghị Trung ương 2 (khóa VII), kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến
khích phát triển, trong đó nhấn mạnh: “Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho
kinh tế tư nhân được phát huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong
những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh
doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”.


Đến Đại hội VIII (6-1996), trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới (1986 1996), Đảng đã rút ra một số kết luận mới về mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa
và chủ nghĩa xã hội, giữa kế hoạch hóa và thị trường, giữa thị trường trong nước và

quốc tế, giữa quyền quản lý của Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh
nghiệp, về phân phối và lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, tiếp tục tạo lập
đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. à mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu những tiến bộ vượt bậc trong đường lối
đổi mới của Đảng: đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố để đến 2020 cơ bản trở thành nước cơng
nghiệp. Đại hội đã có chủ trương “tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các
nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài” với điểm nhấn là: “Kinh tế
cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài”



×