BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT CƠNG NGHIỆP
TIỂU LUẬN MƠN CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
Đặc điểm văn hóa Việt Nam giai đoạn Lý – Trần
(1010-1400)
GV:
SV: Khúc Thị Nhật Linh
Phạm Bùi Phước My
Nguyễn Hà Phương
Lớp: Dh17A7-ThtE
I. LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, thời đại Lý – Trần được
xem như là mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong tư duy, nhận
thức của người Việt về lòng yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường.
Triều Lý (1009 – 1226) và Triều Trần (1226 – 1400) là hai triều đại lớn trong
lịch sử dân tộc ta. Thời Lý – Trần được xem là một giai đoạn lịch sử oanh liệt
nhất thời trung đại, giai đoạn mà dân tộc ta đã vươn lên mạnh mẽ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những trang sử chói lọi trong sự
nghiệp đánh giặc giữ nước. Tuy mỗi triều đại có những đặc điềm phát triển
riêng, nhưng xét chung thục tiễn lịch sử của dân tộc các giai đoạn Lý-Trần, ta
đều thấy, khi các triều đại đang lên, nhà nước phong kiến cịn đóng vai trị tích
cực, tổ tiên ta thường xuyên chăm lo xây dựng Tổ quốc, làm cho dân giầu nước
mạnh, sẵn sàng đối phó với nguy cơ xâm lược.
Trong các thế kỉ XI và XIII, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng
các thế lực xâm lược lớn mạnh. Thế kỷ XI, quân dân Đại Việt đánh tan 30 vạn
quân xâm lược Tống; thế kỷ XIII, trong vòng 30 năm (1258-1288), dân tộc ta ba
lần đương đầu với những đạo quân xâm lược khét tiếng nhất thời đại là đế quốc
Nguyên – Mông.
Thắng lợi vĩ đại của công cuộc chống giặc giữ nước thời Lý-Trần là kết quả tất
yếu của cả quá trình chuẩn bị lực lượng, xây dựng tiềm lực đất nước. Điều đó
chứng tỏ, những nhà lãnh đạo các vương triều thời Lý-Trần đã nắm chặt hai
nhiệm vụ dựng nước và giữ nước, thi hành chính sách đối nội- đối ngoại đúng
đắn. Hệ thống tư tưởng chính sách của ta có giá trị như những học thuyết.
Thời Lý – Trần là thời kỳ nhà nước phong kiến củng cố và phát triển chế độ
trung ương tập quyền, nhiều cải cách về chính trị, kinh tế, quân sự được áp dụng
đã đem lại những thành quả rực rỡ về nhiều mặt. Và quan trọng hơn cả là tăng
cường sức mạnh quân sự với 3 lần chiến thắng giặc Nguyên – Mông, đội quân
xâm lược hùng hậu phương Bắc, giữ vững bờ cõi, khẳng định chắc chắn chủ
quyền của dân tộc.
Trên cơ sở của nền kinh tế – chính trị đó, văn hố, tư tưởng của dân tộc cũng
được phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này đã xuất hiện nhiều nhân tài về văn
chương, nghệ thuật với nhiều tác phẩm bất hủ. Từ những áng văn thơ hào hùng
của Lý Thường Kiệt hay bài hịch vừa sục sơi ý chí quyết thắng, vừa thấm đẫm
tình cảm tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đến những nét chạm khắc tinh tế, uyển
chuyển đầy tính sáng tạo và bay bổng trên những con rồng thời Lý, … tất cả đã
tạo nên bức tranh đa sắc về một đời sống văn hoá phong phú. Song, nhìn một
cách tổng quát, chúng ta sẽ thấy nổi lên ý thức tự hào dân tộc, một hào khí Đơng
Á mà hậu thế mãi cịn nhắc đến.
II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI LÝ – TRẦN
Sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, qua nhiều lần chia cắt,
tách nhập, từ Nam Việt của Triệu Đà, đến Giao Chỉ bộ thời Hán, An Nam đô hộ
phủ thời Đường, một phần lãnh thổ ở phía bắc nước ta bị phong kiến ngoại
bang, bấy giờ là nhà Nam Hán, chiếm giữ. Từ khi Khúc Thừa Dụ nổi dậy năm
905, quyền tự chủ của dân tộc được lập lại trên phạm vi hai quận Giao Chỉ, Cửu
Chân, tức vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ ngày nay. Các triều đại Ngô, Đinh và
Tiền Lê kế tiếp nhau củng cố nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Kinh
đô nước ta thời Ngô là Cổ Loa (Đông Anh – ngoại thành Hà Nội). Thời Đinh,
Lê, tên nước là Đại Cồ Việt, kinh đô ở Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình). Đinh Bộ
Lĩnh chia nước thành 12 đạo hành chính, Lê Hồn đổi đạo thành bộ và cho các
hoàng tử, thân vương trấn trị ở các vùng. Dưới triều Tiến Lê, phía bắc, Lê Hồn
đánh tan qn Tống, phía nam, đánh bại quân Chiêm giữ yên bờ cõi. Cơ đồ nhà
Tiền Lê được xây dựng vững vàng trên toàn bộ đất nước, bấy giờ chủ yếu là
vùng trung du, đổng bằng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ. Các vùng rừng núi xa xơi
cịn ràng buộc lỏng lẻo, giao cho thổ tù, châu mục bản địa coi giữ, dưới sự quản
lý của triều đình. Tuy nhiên, biên giới phía đông bắc đất nước đã khá rõ ràng,
vùng biên giới từ Vĩnh An (Móng Cái) đến Khâm Châu và từ Quan Lang (Ôn
Châu) đến Ung Châu đã được hai bên Tống, Việt kiểm sốt. Cương vực phía
nam Đại Cồ Việt là Hoành Sơn (Kỳ Anh, Hà Tĩnh).
Năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh giành địa vị, cuối cùng Lê Long Đĩnh
lên ngôi vua, nhưng đây là ông vua tàn bạo, vừa ham mê tửu sắc, nên bị bệnh
nặng. Cuối năm 1009, Lê Long Đĩnh chết, triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì
vậy các tăng sư và đại thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, tôn Lý Công Uẩn lên
ngơi hồng đế, nhà Lý thành lập.
Năm 1009, Lý Cơng Uẩn lên ngôi vua lập nên vương triều Lý. Thấy Hoa Lư
chật hẹp không phù hợp với kinh đô của một quốc gia độc lập đang trên đà phát
triển, năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời đô ra thành Đại La và đổi tên là
Thăng Long, “[Thăng Long] được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi
Nam, Bắc, Đơng, Tây, lại tiện hướng nhìn ra sơng, tựa núi. Địa thế rộng mà
bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn
vật rất mực phong phú, tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa.
Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước. Cũng là nơi kinh đô
bậc nhất của đế vương muôn đời” (Chiếu dời đô)
Từ đấy Thăng Long là kinh đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước.
Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, một lần nữa khẳng định
sự trưởng thành của quốc gia độc lập tự chủ.
Nhà Lý rất quan tâm bảo vệ non sơng gấm vóc tồn vẹn lãnh thổ và độc lập, tự
chủ của dân tộc. Cuộc đấu tranh vì chủ quyền lãnh thổ diễn ra dài lâu và liên tục.
Phía bắc, nhà Tống thường xuyên mưu toan mở rộng lãnh thổ, nhiều lần cho
quân xâm lấn và phát động chiến tranh xâm lược. Trong thời kì nhà Tống âm
mưu chiếm giữ đất Quảng Nguyên (Cao Bằng), nhà Lý đã kiên trì đấu tranh, cho
nên sau cuộc xâm lăng 1076-1077 hai năm, nhà Tống buộc phải trả lại Quảng
Nguyên cho ta. Cương vực Đại Việt ở phía bắc từng bước ổn định. Biên giới từ
Cao Bằng về phía đơng lúc đó đã rõ ràng, gồm các châu Tây Bình, Lộc Bình và
huyện An Viễn. So với ngày nay phía gần biển, lãnh thổ Đại Việt cịn ăn sâu vào
tỉnh Quảng Đơng đến gần vịnh Khâm Châu; cịn phía tây Cao Bằng, cư dân Đại
Việt sống thành từng động, sự ràng buộc của triều đình chưa chặt chẽ.
Thời nhà Trần, về cơ bản cương vực phía bắc Đại Việt khơng thay đổi. Sau
những lần bị giặc Nguyên – Mông xâm lược, nhà Trần chú ý nhiều đến biên
giới; việc kiểm sốt các châu, động phía bắc và đơng bắc càng chặt chẽ hơn thời
Lý.
Ở phía nam, vương quốc Chiêm Thành thường đem binh thuyền quấy phả vùng
biên giới và ven biển của ta. Các vua Lý, vua Trần đã nhiều lần phải động binh
đánh dẹp. Trong đợt tiến công năm 1069, vua Chế Củ bị bắt, Chiêm Thành xin
dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh. Đến đời Lý Thái Tông (1028 –
1054), lãnh thổ phía nam Đại Việt đã gồm cả nửa phần tỉnh Quảng Trị bây giờ.
Năm 1075, Lý Nhân Tông cử Tể tướng Lý Thường Kiệt đi kinh lý vùng đất mới,
vẽ bản đồ hình thể núi sơng, rồi đổi châu Địa Lý thành Lâm Bình, Ma Linh
thành Minh Linh. Cư dân phía bắc được phép vào khai khẩn ruộng hoang và lập
các trang hộ2. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân (con
vua Nhân Tông) cho vua Chiêm là Chế Mân. Chế Mân đem hai châu Ô và Lý
dâng Đại Việt để làm lễ vật dẫn cưới.
Vua Anh Tơng sai Hành khiển Đồn Nhử Hài vào Ô, Lý để hiểu dụ đặt quan cai
trị, cấp ruộng cho dân và thu thuế, đồng thời đổi tên hai châu đó thành Thuận
Châu và Hóa Châu. Như vậy lãnh thổ Đại Việt vào đầu thế kỷ XIV đã vươn tới
tỉnh Thừa Thiên ngày nay.
Xu hướng khai phá đất hoang để tăng diện tích cư trú và canh tác ra vùng biển
vẫn được tiến hành liên tục. Vùng đất phù sa sông Hổng và các sông lớn khác
dẩn dần trở thành đồng bằng và làng xóm của người Đại Việt. Chẳng hạn, vùng
Bố Hải Khẩu đầu thế kỷ X hãy còn là đất biển, đến đầu thế kỷ XI, đã trở thành
đồng ruộng trù phú. Năm 1038, Lý Thái Tông đã tới đây cày tịch điền. Đó là thị
xã Thái Bình ngày nay. Dưới triều Lý – Trần, cơng cuộc khẩn hoang, trị thủy
được tiến hành quy mô, đất canh tác ngày càng mở rộng, dân cư ngày một đông
đúc. Điều này được phản ánh ở nhiều sử sách trong và ngồi nước.
Sách An Nam chí ngun của Trung Quốc chép: “Xứ Giao Chỉ dân cư trù mật,
đất không đủ cày cho nên người trước đắp đê cao ở hai bên sơng ngịi để phịng
nước lụt. Đất ở ven biển bị nước mặn lấn vào, bọn quý tộc thế gia muốn chiếm
riêng đất đó, đều tự ý đắp đê để ngăn nước mặn rồi gieo trồng cày cấy bên trong,
như thế là để yên dân và khai thác hết mối lợi của đất đai… Đê cao ba thước
rộng năm trượng, đặt hà đê chánh và phó sứ để trơng coi… Từ đó thủy tai khơng
cịn nữa mà đời sống dân được sung sướng, đất khơng bỏ sót nguồn lợi nào”.
Chính vì thế lưu vực của các con sông lớn ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã trở thành
địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân thuở ấy. Nước Đại Việt vốn từ xưa đã bao
gồm một cộng đồng dân tộc nhiều tộc người, trung tâm là người Việt. Ở vùng
trung du và nhất là vùng núi là địa bàn sinh sống của các tộc khác như Mường,
Tày, Thái, Mèo, Nùng, Dao, ... Thời Lý, cư dân vùng rừng núi gần biên giới phía
bắc là người Tày, Mán, Nùng… sinh sống. Họ cư trú thành từng động, bản do
các tộc trưởng có uy tín đứng đầu. Bấy giờ, các dịng họ có thế lực như Tơn,
Hồng. Thân, Vi, Nùng. . . đã từng làm chủ các châu động. Triều đình Lý vừa
dùng đức vừa dùng uy để vỗ về phủ dụ các tộc trưởng địa phương. Chính nhờ
vậy mà họ đã có đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm
lược hồi thế kỷ XI. Như vậy từ thời Lý, Đại Việt đã là một quốc gia đa tộc có đa
số, có thiểu số, phân bố khắp lãnh thổ gồm miền núi, trung du và đồng bằng.
Tuy trình độ phát triển có khác nhau, nhưng từ sớm họ đã cố kết, đùm bọc,
chung lưng, đấu cật cùng nhau dựng nước và giữ nước.
Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Ngun có ghi: “Nước Đại Việt… đất
rộng người đơng, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu”4. Sách An
Nam chí lược cũng phản ánh: Nước Đại Việt có “dân cư đơng đúc”. Theo Dư địa
chí của Nguyễn Trãi, đời Lý thiên hạ chia thành 24 lộ; Hành khiển dâng số hộ
gồm 3.300.100 đinh. Đời Trần chia nước thành 12 xứ; viện quan dâng số vàng,
hạng đại nam và trung nam có 4.900.000 đinh, hạng hồng nam có 2.104.300
đinh5. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, thời Trần Đại Việt.đã có trên 7 triệu đinh
nam (?) Bấy giờ, do nhu cầu cần nắm vững nhân đinh để tuyển quân, bắt phu và
thu thuế, Nhà nước Lý – Trần quản lý chặt chẽ số người bằng phương pháp lập
sổ hộ tịch. Phan Huy Chú cho biết, “buổi đầu đời Trần làm sổ hộ tịch, cứ hằng
năm lại làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ vì noi theo phép cũ của nhà Lý nên
như vậy”6. Tuy rằng sử sách xưa không ghi chép cụ thể dân số Đại Việt là bao
nhiêu, nhưng chúng ta có thể đoán rằng dân số nước ta thời Lý – Trần khoảng từ
5 đến 7 triệu.
Theo sử cũ, Đại Việt là một xứ sở phồn thịnh. Đó là một nước, như Cao Hùng
Trưng viết, ruộng đất màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn ni đều thích nghi
cả… Muối thì trắng sạch như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía, đẹp mắt. Vàng thì
sẵn ở các châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai thì sáng, sẵn ở các xứ Tĩnh
An và Vân Đồn. Cịn san hơ và đồi mồi thì sẵn ở trong biển”7. Sách Lịch triều
hiến chương loại chí cho biết, “nước Đại Việt là nơi đơ hội ở phương Nam,
ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc, người
ở đâu đến làm ăn buôn bán cũng làm giàu được cả”.
Đất nước Đại Việt đơng dân và giàu có, lại nằm ở một vị trí địa lý quan trọng,
trên đường giao lưu từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, từ đất liền ra biển cả…
đã lọt vào cặp mắt dòm ngó, đầy tham vọng của các thế lực xâm lược láng giềng
hết thế kỷ này đến thế kỷ khác. Lịch sử đã để lại những bài học quý giá về mặt
này. Phan Huy Chú viết: “Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa, nên Trung Quốc lúc
nào cũng nghĩ cách chiếm đất nước mình, đặt làm quận huyện để cai trị đã từ lâu
rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy; lúc đã lấy được rồi thì khơng chịu
bỏ ra nữa”9. Từ thế kỷ X, nước ta đã giành được độc lập, nhưng vẫn thường
xuyên bị các thế lực phong kiến phương Bắc tìm cơ hội để thơn tính, đặt quyền
cai trị và mở đường tiến xuống phía nam. Tham vọng biến Đại Việt thành các
quận huyện nội thuộc vẫn chưa dứt trong tư tưởng của nhiều triều đại phong
kiến thống trị ở Trung Quốc.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, các triều đại Nam Hán, Tống và Nguyên đã bảy lần
gây binh lửa xâm lược Đại Việt: nhà Nam Hán hai lần (các năm 931 và 938),
nhà Tống hai lần (các năm 981 và 1075 – 1077), nhà Nguyên – Mông ba lần
(các năm 1258, 1285 và 1288). Triều đại này bị đánh bại nhiều lần mới chịu
thơi, thì triều đại sau trong các thế kỷ sau, lại nuôi tham vọng xâm lược mới.
Nhà Nam Hán rồi nhà Tống thất bại, buộc vua Tống phải thốt lên: “Đừng thấy
Giao Chỉ nhỏ mà xem thường” và đã có lúc chán chường: “Nước Giao Chỉ nhỏ,
thủy thổ độc dữ, dân chúng gan lý liều chết, có lấy được cũng vơ ích” (Tống sử),
thế nhưng đến nhà Ngun tham vọng bành trướng lại trỗi dậy, liên tục gây ra ba
cuộc chiến tranh. Kết quả cả ba lần đều thất bại để rồi “việc Nam chinh luôn
luôn như ngứa ngáy trong tim” Hốt Tất Liệt.
Ở mỗi cuộc chiến tranh, hoàn cảnh của kẻ thù một khác. Giặc Tống gây chiến
tranh với Đại Việt trong lúc nội tình đang đầy rẫy khó khăn, muốn thông qua
chiến tranh để ổn định nội trị. Giặc Nguyên – Mông xâm lược nước ta trong giai
đoạn vó ngựa của chúng đã tung hồnh khắp các lục địa Âu – Á. Dẫu trong hoàn
cảnh nào, kẻ thù dân tộc luôn luôn là những thế lực xâm lược lớn mạnh gấp ta
nhiều lần. Nhà Tống huy động 30 vạn quân cho chiến tranh, trong khi quân đội
nhà Lý có hơn 10 vạn. Trong cuộc xâm lăng năm 1285, qn Ngun đơng hơn
nửa triệu, cịn triều đình nhà Trần lúc động viên cao nhất cũng chỉ có 30 vạn
quân. Tuy nhiên, trong các cuộc chiến tranh nói trên, nhân dân ta đều giành
thắng lợi, đó là kết quả của sự nỗ lực phi thường của cả dân tộc, không chỉ trong
giai đoạn chiến tranh mà cả trong giai đoạn xây dựng đất nước. Trần Quốc Tuấn
khái quát quy luật của cuộc kháng chiến chống Nguyên rằng: tóm lại, giặc cậy
trường trận, ta cậy đoản binh, lấy đoản chế trường là việc thường của binh
pháp”10.
Cùng với nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, nước Đại Việt còn thường xuyên bị
các thế lực phía nam quấy nhiễu, cướp phá. Thời Lý, năm 1069, quân Chiêm
Thành quấy phá biên giới; năm 1128, Chân Lạp đem 2 vạn quân vào cướp Nghệ
An; năm 1132, Chân Lạp và Chiêm Thành đánh phía nam, tiến đến tận Nghệ
An… Thời Trần, quân Chiêm Thành liên tục trong các năm 1353, 1361, 1365,
1367, 1380, 1383, 1389 đã xâm lấn Hóa Châu, Lâm Bình, Nghệ An, Thanh Hóa,
Quảng Oai. Đặc biệt nghiêm trọng dưới triều vua Chế Bồng Nga, quân Chiêm
ba lần cướp phá kỉnh thành Thăng Long vào các trăm 1371, 1377 và 1378.
Tình hình đất nước và kẻ thù trên đây địi hỏi dân tộc ta trong tiến trình xây
dựng đất nước phải thường xuyên cảnh giác trước các thế lực xâm lược; lo sao
cho đất nước ln ln có sẵn phương lược và đủ sức mạnh để bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc.
Chế độ phong kiến Lý – Trần mang đậm tính dân tộc chịu ảnh hưởng của lễ nghi
phong kiến phương Bắc, nhưng tính chuyên chế chưa cao, khoảng cách giữa vua
và tơi, giữa q tộc và bình dân chưa thật lớn. Lối sống trong sinh hoạt chốn
triều đình cịn thể hiện tính dân chủ của cộng đồng. Trần Thánh Tông cho phép
các vương hầu, tôn thất xong buổi chẩu vào trong cung điện và lan đình, cùng
nhau ăn uống; hoặc khi tối trời khơng về thì đặt gối dài, chăn rộng cùng nghỉ
liền giường với nhau, để tỏ tình thân ái; chỉ khi có lễ lớn, tân khách hay yến tiệc,
mới phân biệt ngôi thứ…. Hoặc như Trần Quốc Tuấn đã từng nói với các tướng
sĩ: “Lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”.
Điểu đó chứng tỏ sự đổng tâm, hịa thuận trong nội bộ chính quyền, làm tăng
thêm sức mạnh của vương triều tạo điều kiện cố kết nhân tâm trong cả nước,
nhất là khi cần huy động quân đội của các vương hầu quý tộc Sách Đại Việt sử
ký toàn thư chép: “Năm Nguyên Phong (đời Trần Thái Tông), giặc Nguyên sang
cướp, vương hầu đều đem gia hầu và hương bỉnh, thổ hào sung vào đội quân cần
vương; việc biến năm Đại Định2, vương hầu lại đem dân thơn trang sắm sửa
nghi trượng để đón vua mới. Như thế, chế độ nhà Trần cũng làm tăng thêm được
sức mạnh của cái thế “duy thành”, bảo vệ nhà nước”3.
Nhìn chung, tầng lớp quý tộc thời Lý – Trần là một đẳng cấp xã hội trẻ, đang độ
phát triển. Xu hướng cát cứ của quý tộc chưa phải là hiện tượng phổ biến. Sự đối
lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc đó chưa cao. Đặc
điểm này đã tạo nên một khơng khí chính trị lành mạnh trong giới cầm quyền và
trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho chính quyền, cho cả nước trong
mối quan hệ đối nội cũng như trước những thử thách ngặt nghèo cửa ngoại xâm.
Trong cấu trúc xã hội thời Lý – Trần, hệ thống cộng đổng làng xã đã đóng góp
một vai trị rất quan trọng. Có thể coi đây là nền tảng là cơ sở của cả cấu trúc,
trong đó bao gồm đơng đảo những người nông dân và các thợ thủ công, tức
thành phần chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là nơi cung cấp
nhân lực, vật lực cho cơng cuộc xây dựng sức mạnh phịng vệ đất nước.
Mỗi làng xã Đại Việt là một tế bào xã hội. Ở đó, những hộ nơng dân sống quần
tụ, gắn bó trong mối quan hệ vừa là thân tộc vừa là láng giềng. Trong điều kiện
kinh tế hàng hóa chưa phát triển mạnh, các làng xã nơng nghiệp cịn tương đối
khép kín, tự cung tự cấp. Ở đây bên cạnh một hệ thống chính quyền cấp xã
mang tính chất nhà nước gồm các “quản giáp”, các xã trưởng, các đại hoặc tiểu
tư xã – những người đại diện của chính quyền nhà nước, còn tồn tại song song
một hệ thống quyền lực mang tính chất cơng xã cổ truyền do dân cử, gồm các bô
lão, những già làng, những tộc trưởng có uy tín cùng tham gia quản lý làng, xã.
Khi đất nước thanh bình, khi nhà nước phong kiến cịn thể hiện vai trị tích cực
thì những người nơng dân vẫn sống thuần hậu, chất phác và cần mẫn với việc
đồng áng, họ tham gia các nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng tơ thuế, lao dịch
và binh dịch. Một bộ phận tham gia các đội tuần đinh, dân binh làng xã. Họ là
lực lượng vũ trang cơ sở, tồn tại dưới hình thức “tĩnh vi nơng, động vi binh” (lúc
yên là nông dân, lúc động là binh lính). Khi đất nước có chiến tranh, nơng dân là
lực lượng đông đảo nhất tham gia quân đội của nhà nước, hoặc các đội dân binh
đánh giặc tại chỗ, với ý thức “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, cùng
đánh giặc giữ làng giữ nước. Dĩ nhiên, tầng lớp binh dân – những người nông
dân và thợ thủ công là đối tượng bóc lột, thống trị của giới quý tộc phong kiến,
vì thế, khi chính quyền nhà nước kém hiệu lực, khi quý tộc quan lại trở lên tham
nhũng hà khắc, thì chính họ, những người bình dân lại là lực lượng chủ yếu
tham gia các cuộc “nổi loạn” của quần chúng. Trường hợp này đã diễn ra vào
giai đoạn cuối thời Lý và cuối thời Trần.
Dưới cùng của bậc thang xã hội Đại Việt là tầng lớp nông nô, nô tỳ. Đây là di
sản của xã hội cổ xưa. Đến thời Lý – Trần, nông nô, nô tỳ phát triển tương đối
mạnh về số lượng. Lúc đó, tầng lớp quý tộc địa chủ đang là lực lượng quan
trọng ủng hộ chính quyền và đóng vai trị tích cực đối với sự phát triển kinh tế
xã hội, họ được nhà nước cho phép nuôi người phục dịch, chiêu mộ dân nghèo,
người lưu tán khai phá đất hoang lập các trang trại. Hình thức kinh doanh nơng
nghiệp đó đã tạo ra tầng lớp lao động có địa vị thấp kém, bị phụ thuộc hoàn toàn
về thân phận đối với chủ của mình. Nơng nơ, nơ tỳ là lực lượng sản xuất trong
các trang trại, nhưng khi cần họ trở thành lực lượng quân sự của các vương hầu
quý tộc, họ tham gia bảo vệ trị an và đánh giặc giữ nước. Trong kháng chiến
chống Nguyên, lực lượng gia nô, nông nơ đã có những đóng góp đáng kể; nhiều
chiến cơng của họ đã được lịch sử ghi nhận.
Cùng với sự phát triển của chính quyền về mặt hành chính là q trình kiện tồn
chức năng lập pháp và hành pháp của nó. Ởnước ta, đến thời Lý – Trần, các hoạt
động lập pháp của nhà nước đã xuất hiện và phát triển. Năm 1042, Lý Thái Tơng
ban hành bộ Hình thư – bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. Sang thời Trần,
bên cạnh bộ Quốc triều thống chế gồm 20 quyển, xác định các quy chế chính
quyền, nhà nước còn tổ chức biên soạn và nhiều lần sửa đổi bổ sung bộ Hình thư
của mình. Các bộ luật này đã thất truyền. Tuy nhiên, căn cứ vào các lệnh dụ của
nhà vua, các việc làm cụ thể được sử sách ghi chép, có thể nghĩ rằng luật pháp
thời Lý – Trần đã đề cấp đến nhiều lĩnh vực, trong đó có những chế định về
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi thành viên đối với xã hội, về nghĩa vụ binh
dịch của các đinh tráng, về nghĩa vụ đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước, về
chức năng của các loại quân trong việc bảo vệ chính quyền và biên giới Tổ
quốc. Các hoạt động lập pháp ngày càng quy củ đó chứng tỏ nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền thời Lý – Trần ngày một ổn định, và hoàn bị để thực hiện
tốt các chức năng của nó.
Công cuộc xây dựng đất nước thời Lý – Trần tiến hành trong hồn cảnh nạn
ngoại xâm ln ln là nguy cơ trực tiếp và thường xuyên. Trong giai đoạn này,
đã diễn ra liên tục bốn cuộc chiến tranh giữ nước lớn. Đó là chưa kể đến những
lần triều đình phải động binh xử lý các vụ xâm phạm biên giới của các lực lượng
phàn lộng phía tây và nam Tổ quốc. Do đó, để củng cố nền thống trị của nhà
nước phong kiến độc lập, tự chủ và đồng thời để tăng cường lực lượng quốc
phòng sẵn sàng ứng phó với nguy cơ xâm lược của nước ngồi, chính quyền Lý
– Trần đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang của mình. Lực
lượng vũ trang đó gồm có qn chính quy của triều đình, qn địa phương của
các lộ, phủ, giả binh của vương hầu và dân binh, hương binh ở làng xã. Cấm
quân là lực lượng quân đội thường trực nòng cốt của trung ương, được coi trọng
phát triển và thường xuyên túc trực bảo vệ kinh đô. Quân đội nhà nước Đại Việt
là qn đội chính quy, đã đạt đến một trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện và
chỉ huy tốt. Các lực lượng vũ trang thời Lý – Trần đã đóng vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ chính quyền và đã lập nhiều chiến công rực rỡ trong công cuộc
đánh giặc giữ nước.
III. VĂN HÓA THỜI LÝ – TRẦN
1. Các yếu tố tác động đến tư tưởng – văn hóa thời Lý – Trần
Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, với sự đấu tranh kiên trì và anh dũng, nhân dân ta
đã giành lại được độc lập hoàn toàn. Từ sự nghiệp tự cường của họ Khúc (905)
họ Dương và tiếp đó là cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng của Ngô Quyền thắng lợi (năm 938) quốc gia phong kiến độc lập tự chủ
chính thức ra đời. Từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XIX (trước khi tiếp xúc với những
ảnh hưởng của nền văn minh phương Tây), nhân dân ta đã xây dựng được một
đất nước vững mạnh, có một nền văn hố riêng, phát triển. Nền văn hố rực rỡ
đó nảy sinh và tồn tại chủ yếu trong thời đại nước ta mang tên Đại Việt có kinh
đơ là Thăng Long, do đó được mệnh danh là văn hoá Đại Việt hay văn hoá
Thăng Long và gần đây là văn minh Đại Việt.
Đất nước bước vào kỉ nguyên độc lập tự chủ – Đây chính là điều kiện thuận lợi
để nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước sau những
tháng năm dài dưới ách đô hộ ngoại bang. Đặc biệt là từ sau cuộc dẹp loạn 12 sứ
quân của Đinh Tiên Hoàng, nên thống nhất đất nước được khôi phục và cũng cố
thêm một bước dưới thời Tiền Lê Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi, trong
“Chiếu dời đô” đã viết: “Đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở thành Đại La,
giữa khu vực trời đất, có thể rồng cuộn, hổ ngồi, ở giữa Nam – Bắc – Đơng –
Tây, tiện hình thế núi non sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng
sủa, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh. Xem khắp nước Việt, chỗ ấy là hơn cả;
thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thương đô của kinh sư muôn đời “.
Việc đời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long là một bước tiến mới, thể hiện sự trưởng
thành của ý thức dân tộc và của giai cấp thống trị dân tộc. Cũng từ đây Thăng
Long đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hố của nước Đại Việt và Việt
Nam sau này.
- Thời độc lập tự do của quốc gia Đại Việt kéo dài gần 1000 năm (từ thế kỉ X
đến thế kỉ XIX) đây là thời kì độc lập lâu dài nhưng khơng phải độc lập trong
thanh bình mà ln ln phải đối phó với giặc ngoại xâm. Hơn 9 thế kỉ, nhân
dân Đại Việt đã phải 8 lần đứng dậy cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm: hai lần
kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê và Lý, ba lần kháng chiến chống quân
Mông – Nguyên đời Trần, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh ở đầu
thế kỉ XV do Vương triều Hồ lãnh đạo; 10 năm “nếm mật nằm gai” của nghĩa
quân Lam Sơn đã quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi; kháng chiến chống quân
xiêm. Thanh ở thế kỉ XVIII. Chính cuộc sống trong độc lập, trong đấu tranh đó
đã có tác động đến tâm tư tình cảm của con người Việt Nam. Lịng u nước đã
trở thành tình cảm và tư tưởng cao qúy nhất và sâu sắc nhất của họ. Điều này
không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền văn hoá văn minh mà còn ảnh
hưởng đến cả tư tưởng chủ đạo của nền văn hố, văn minh đó.
- Nền văn minh Đại Việt có nguồn gốc sâu xa từ những truyền thống sản xuất
chiến đấu của tổ tiên, được kế thừa những di sản văn hố, văn minh hố của thời
kì Văn Lang – Âu Lạc và của hàng nghìn năm đấu tranh chống Bắc thuộc. Vì
vậy nó càng có điều kiện phát huy và phát triển trong hoàn cảnh đất nước hồ
bình.
Trong xã hội Lý – Trần, nền kinh tế nơng nghiệp giữ vai trị chủ đạo và là cơ sở
của mọi hoạt động trong nước. Chính quyển phong kiến coi trọng nghề nơng và
đề ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp. Sức lao động và sức kéo
trong nông nghiệp được nhà nước bảo vệ. Nông dân có ruộng cày, xóm làng ồn
định. Qn lính được thay phiên nhau về tham gia sản xuất theo chính sách Ngụ
binh ư nơng.
Các cơng trình khẩn hoang và thủy lợi được tiến hành hằng năm, quy mô ngày
một lớn. Thời Lý, nhiều đoạn đê quan trọng dọc theo những sông lớn, nhất là đê
Cơ Xá (đê sông Hồng) được đắp. Năm 1248, triều Trần ra lệnh cho các lộ đắp đê
từ đầu nguồn đến bờ biển gọi là đê quai vạc. Đến đời Trần, hệ thống đê sông
Hồng và các sông lớn ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ đã hồn chỉnh. Chức hà đê
chánh và phó sứ được đặt để quản lý và trông coi đê điều. Nhiều kênh ngịi được
đào và khơi sâu thêm. Những cơng trình đó đã tạo ra những điều kiện tốt cho sự
phát triển kinh tế nông nghiệp. Sứ thần nhà Nguyên là Trần Phu đã ghi lại rằng:
“Ở Đại Việt lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đơng mà mạ vẫn mườn
mượt”.
Từ thời Trần: nhà nước khuyến khích khai phá đất hoang lập thành các trang trại
lớn. Các khu định cư và các vùng đất canh tác mới xuất hiện. Ở các lộ có đặt
chức đồn điền chánh và phó sứ để quản lý, đôn đốc việc khẩn hoang. Năm 1266,
vua xuống chiếu cho phép các vương, cơng chúa, phị mã, cung phi chiêu tập
dân nghèo khơng có đất làm nô tỳ, đi khai hoang ven biển lập các điền trang.
Thời kỳ này xuất hiện một loại hình kinh tế mới, đó là kinh tế điền trang.
Sự phát triển của kinh tế điền trang thái ấp cùng với việc cho phép các vương
hầu quý tộc xây dựng phủ đệ và lực lượng vũ trang riêng vừa có ý nghĩa kinh tế
vừa có ý nghĩa quân sự, càng tăng thêm thế nước, chính quyền có thêm lực
lượng vật chất để bảo vệ vương quyền và phòng giữ đất nước.
Đây là thời kì hình thành của chế độ phong kiến (từ thế kỉ X) tiến tới xác lập (ở
thế kỉ XV) và từ thế kỉ XVI trở về sau, những quan hệ sản xuất phong kiến đã
trở thành những quan hệ thống trị và ngày càng được củng cố. Sự thực đó đã dẫn
đến tình trạng Đại Việt bị chia cắt làm hai miền: Đàng trong và Đàng ngoài với
sự tồn tại của các tập đoàn thống trị khác nhau. Nguy cơ ngoại xâm bị đẩy lùi.
Thay vào đó là những cuộc chiến tranh phong kiến, việc mở rộng lãnh thổ xuống
phương nam. Đến giữa thế kỉ XVIII, việc sáp nhập miền đất Nam bộ ngày nay
vào lãnh thổ Đại Việt đã cơ bản hoàn thành và cuối cùng là mâu thuẫn đấu tranh
giai cấp… Sau hơn 200 năm chia chắt, chế độ phong kiến đã kìm hãm sự phát
triển của toàn xã hội và đã đến lúc phải thống nhất đất nước trong tình hình mới.
Hồn cảnh xã hội đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sực phát triển của nền văn hoá và
văn minh Đại Việt.
- Những mặt khác, trong điều kiện hố bình, dân số vẫn ngày càng tăng lên. Đó
là một trong những nhu cầu dẫn đến việc khẩn hoang các vùng đất ven biển và
đặc biệt là vùng đất phía nam, đang từng bước sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
Điều này lại dẫn đến sực gia tăng nhu cầu về công cụ sản xuất, xây dựng nhà
cửa, làng xóm, về các dụng cụ cần thiết và các thức ăn hàng ngày. Mặc khác,
việc mở rộng lãnh thổ Đại Việt. Điều này lại dẫn đến sự gia tăng nhu cầu về
công cụ sản xuất xây dựng nhà cửa, làng xóm, về các dụng cụ cần thiết và thức
ăn hàng ngày. Mặc khác, việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam cũng làm tăng
thêm những sản phẩm mới của đất đai, núi rừng, sông biển. Thủ cơng nghiệp do
đó phát triển lên một bước về cả hai mặt: kĩ thuật và loại hình sản phẩm. Đó là
cơ sở quan trọng để mở rộng hơn nữa sự phân công lao động xã hội, tạo tiền đề
cho sự gia đời của các đô thị.
Dưới thời Lý – Trần, các nghề thủ công trong nước được tạo điều kiện phát
triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt, gốm sứ, luyện kim, mỹ nghệ,
chạm khắc, đúc đổng, v.v… Trong nông thôn Đại Việt xuất hiện những làng thủ
công chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống của mình, như nghề dệt lĩnh
ở Trích Sài (Hà Nội); nghề dâu ở Nghi Tàm (Hà Nội); nghề dệt ở Từ Sơn (Hà
Bắc); nghề làm nón ở Ma Lơi (Hải Hưng) … Kinh thành Thăng Long có 61
phường, mỗi phường làm một nghề thủ công, phố xá buôn bán các sản phẩm
ngày một sầm uất. Từ thời Lý, nhà nước đã áp dụng những biện pháp tạo điều
kiện cho các nghề thủ công trong nước phát triển. Chẳng hạn, mở lớp dạy dệt
gấm cho các cung nữ và khuyến khích dùng những sản phẩm thủ công nội địa.
Năm 1040, Lý Thái Tơng đã ra lệnh phát gấm vóc trong kho để may lễ phục cho
vua quan, cấm mua gấm vóc của nhà Tống. Nghề dệt lụa của Đại Việt vì thế mà
đã trở thành nổi tiếng trong vùng với đủ các thứ vải, lụa, gấm vóc, the đoạn… có
nhiều màu sắc và họa tiết trang trí đặc sắc. Nhu cầu vải mặc và một số trang bị
khác cho quân đội đã được nghề dệt trong nước cung cấp.
Nghề gốm sứ có truyền thống từ lâu đời, đến thời Lý đã tiến thêm một bước dài,
cung cấp nhiều vật dụng cho cung đình và nhu cầu ở các làng xã. Nghệ thuật
gốm sứ thời Lý – Trần mang đậm sắc thái dân tộc, có trình độ thẩm mỹ cao và
đạt tới đỉnh cao trong lịch sử phát triển của nó.
Nghề khai mỏ và luyện kim, chủ yếu là đồng và sắt, đã cung cấp thỏa mãn
nguyên vật liệu cho nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ cũng
như các thứ binh khí, chiến cụ trang bị cho quân đội.
Đường giao thông thủy, bộ trong nước được mở mang và phát triển đồng thời
với các phương tiện vận chuyển như các loại thuyền lớn, nhỏ, tạo điều kiện tốt
không chỉ đối với sự phát triển giao lưu kinh tế mà cịn cho cơng cuộc phịng giữ
đất nước, là cơ sở tốt để nhà nước huy động, sử dụng khi có chiến tranh.
Nhà nước Lý – Trần khơng hạn chế ngoại thương, nhưng ln ln có những
biện pháp quản lý rất chặt chẽ để đề phòng âm mưu do thám của người nước
ngoài, nhằm bào vệ an ninh trong nước.
Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những cơ sở vật chất vững vàng
cho sự tồn tại quốc gia độc lập tự chủ và mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển nền văn hóa dân tộc.
Sự phát triển của giáo dục đã có tác dụng lớn. Do yêu cầu của việc xây dựng bộ
máy quan lại, giáo dục ngày càng phát triển. Từ cuối đời Trần, đặc biệt sang thời
Lê Sơ, khoa cử đã trở thành một trong những phương thức tuyển lựa quan lại
chủ yếu của triều đình Phong kiến. Sang thế kỉ XVII, XVIII, hầu hết các làng ở
Đàng ngoài và sau đó ở Đàng trong đều có các lớp học tự do các thầy đồ phục
trách. Làng đã dành một số ruộng (gọi là học điền) phục vụ việc nuôi thầy và
khuyến khích học tập. Lệnh thành lập các trường công ở xã thời Tây Sơn tuy
chưa được thực hiện nhưng có tác dụng khuyến khích, rất lớn. Khi Nho giáo suy
đổi, đấu tranh giai cấp tăng lên thì giáo dục trở thành điều quan trọng để nhân
dân nói lên những nguyện vọng, tâm tư và tình cảm của mình.
2. Văn hóa thời Lý – Trần
- Tơn giáo, tín ngưỡng
Nhìn chung, các nhà nước Lý – Trần đã chủ trương một chính sách khoan dung
hịa hợp và chung sống hịa bình giữa các tín ngưỡng tơn giáo như tín ngưỡng
dân gian, Phật, Đạo, Nho. Đó chính là hiện tượng Tam giáo đồng nguyên, Tam
giáo tịnh tồn ở thời kỳ này. Nói như Phan Huy Chú, “thời Lý – Trần, dù là chính
đạo hay dị đoan đều được tôn chuộng, không phân biệt”. Trên nền tảng đó, nhìn
chung các tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo đã được tôn
sùng.
Các tín ngưỡng dân gian cổ truyền như tín ngưỡng thần linh, vật linh, tục thờ
Mẫu, tục sùng bái anh hùng, pha trộn với Đạo giáo đã được tự do phát triển và
khuyến khích. Trong hai tác phẩm Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái, rất
nhiều vị thiên thần và nhân thần, các anh hùng và danh nhân đã được truyền
thuyết hóa và tơn vinh. Theo dã sử, đời Lý Thần Tơng, có Trần Lộc, dựa trên các
tín ngưỡng dân gian đã lập nên đạo Nội tràng. Hình tượng Phật Mẫu Man nương
(có nguồn gốc từ chùa Dâu) đã được sùng bái, thờ cúng ở rất nhiều nơi.
Các đạo sĩ Đạo giáo đã giữ một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh thời
Lý – Trần. Họ được triều đình mời đi trấn yểm các núi sơng trong nước, vào
cung làm lễ tống trừ ma quỷ đêm 30 Tết, làm phép cầu đảo chống hạn, trừ sâu
lúa, giảng giải cho vua về phép tu luyện. Những đạo sĩ nổi tiếng là Thông
Huyền, Hứa Tông Đạo Huyền Vân. Một số đạo sĩ kiêm thiền tăng như Trần Tuệ
Long, Trịnh Trí Khơng, Nguyễn Bình An. Một số đạo qn đã được xây dựng
như Thái Thanh cung, Cảnh Linh cung, Ngã Nhạc quán. Đạo học, cùng với Phật
học và Nho học đã được đưa vào nội dung các kỳ thi Tam giáo.
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý- Trần, được coi như một
Quốc giáo. Hầu hết các vua Lý (Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông,
Thần Tông, Anh Tông) và nhiều vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông)
đều sùng Phật, sai dựng chùa tháp, tô tượng đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn
sách Phật…. Như năm 1031, vua Lý xuống chiếu phát tiền, thuê thợ làm chùa
quán ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ. Nhiều q tộc tơn thất đã quy Phật như
Hồng hậu Ỷ Lan, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung. Khắp nơi, nhiều chùa chiền
đã được xây dựng như các chùa Diên Hựu (Một Cột), Phật Tích, Long Đội, Báo
Thiên, Bối Khê, Thái Lạc, Phổ Minh, cụm quần thể chùa tháp ở n Tử. Phần
lớn các cơng trình này đã được nhà nước tài trợ. Đơng đảo quần chúng bình dân
trong làng xã nô nức theo đạo Phật. Lê Quát sống vào cuối đời Trần, nhận
xét :”Từ trong kinh thành cho đến ngồi châu phủ, kể cả những nơi thơn cùng
ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi
nào có nhà ở là ắt có chùa chiền… Dân chúng quá nửa nước là sư…”.
Thời Lý – Trần, có rất nhiều vị sư tăng nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và địa
vị chính trị- xã hội. Có thể kể các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ
Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Khơng, Giác Hải, Pháp Loa Huyền Quang. Có 3 tông
phái chủ yếu: Tịnh Độ tông thờ đúc Phật Adiđà, chú trọng đến lễ thức lên chùa
lễ Phật, phổ biến trong quần chúng bình dân làng xã; Mật tơng là tơng phái Phật
giáo có sử dụng nhiều phép lạ, phần nào có ảnh hưởng của Đạo giáo (như các
nhà sư Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Khơng); Thiền tơng vốn có truyền thống từ
lâu, là tơng phái có thế lực lớn nhất, chú trọng đến thiền định về tư tưởng, chủ
trương Phật tại Tâm, được các giới quý tộc, trí thức hâm mộ. Có 2 phái Thiền
tơng chính: Phái Thảo Đường do Lý Thánh Tơng sáng lập, có nơi trụ trì chính là
chùa Khai Quốc (Trấn Quốc, Hà Nội); phổ biến hơn cả là phái Trúc Lâm, do 3 vị
tổ sáng lập: Trần Nhân Tơng (tức Điều Ngự Giác Hồng), Pháp Loa và Huyền
Quang, nơi trụ trì chính là cụm chùa ở núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh).
Nhà nước Lý – Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung,
hịa hợp tơn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật và
Nho, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống. Trần Thái Tơng nói: “Đạo giáo của đức
Phật là để mở lịng mê muội, là con đường tỏ rõ lẽ tử sinh. Còn trách nhiệm
nặng nề của tiên thánh tà đặt mực thước cho tương lai, nêu khuôn phép cho hậu
thế”. Trần Nhân Tơng thì chủ trương “Sống với đời, vui vì đạo” (Cư trần lạc
đạo). Đạo Phật thời Lý – Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà nước
(chính sách thân dân, khoan dung), là đối trọng tư tưởng của Nho giáo, tạo nên
thế cân bằng tôn giáo.
Cuối thời Trần, khi Nho giáo và Nho học phát triển, trong điều kiện xuất hiện
một bộ phận tăng ni biến chất và thối hóa, Phật giáo đã bước đầu bị một số nho
sĩ như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu bài xích. Hồ Quý Ly ra lệnh sa
thải bớt tăng đồ, ai chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn rất sâ đậm trong xã hội, nhất là trong
các làng xã.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng Nho giáo thòi Lý – Trần đã có xu hướng phát
triển ngượ lại với Phật giáo. Trong khi thế lực Phật giáo có chiều hướng suy
giảm dần, thì thế lực của Nho giáo lại ngày càng tăng tiến, từ chỗ lúc đầu mới
chỉ là một nền văn hóa giáo dục được nhà nước phong kiến chấp nhận trên
nguyên tắc dùng làm học thuyết trị nước tới chỗ sau đó (thời cuối Trần) đã trở
nên một ý thức hệ đang trên đà thống trị xã hội.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một phương
thức giao lưu văn hóa cưỡng chế, vì vậy, trong hơn 10 thế kỷ, nó vẫn chỉ là một
lớp váng mỏng đọng lại trong tầng lớp ưu tú, ảnh hưởng xã hội rất nhỏ bé. Đến
thời Lý – Trần, nó đã trở thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây
dụng một thiết chế qn chủ tập quyền theo mơ hình Đơng Á Trung Hoa, cũng
như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước, trong đó một biện pháp chiến
lược là chế độ khoa cử. Do vậy, các nhà vua sùng Phật thời Lý – Trần vẫn cần
đến một sự bổ trợ của Nho giáo. Trần Thái Tơng nói: “Bậc đại thánh và đại sư
đời trước khơng khác gì nhau. Như thế đủ biết đạo giáo của Đức Phật phải nhờ
đến tiên thánh [chỉ Khổng Mạnh] mà truyền lại cho đời…”.
Thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí khá
khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng, thờ Chu Công, Khổng Tử và
các vị tiên hiề, làm nơi dạy học Hoàng Thái tử. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa
thi Thái học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh; năm 1076, mở trường
Quốc Tử Giám. Đến năm 1086, Triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển
Tích được tuyển bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần, Nho giáo và Nho học
khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học được mở, khoa cử đều kỳ hơn. Các vua
Trần đã cố gắng dung hòa Phật – Nho trong đường lối trị nước. Tầng lớp nho sĩ
ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu,
Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn
An … Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách trước đây chỉ
dành cho tầng lớp quý tộc tơng thất. Trường hợp của Đồn Nhữ Hài, từ một nho
sinh giúp vua làm tờ biểu tạ tội, sau được thăng đến chức Hành khiển, là một ví
dụ tiêu biểu.
Thời cuối Trần, q trình Nho giáo hóa đời sống chính trị – xã hội đã diễn ra
một cách quanh co phức tạp. Một mặt, một số Nho sĩ đã nhiệt thành cổ vũ tun
truyền cho đạo Nho và mơ hình Nho giáo, bài xích Phật giáo. Trương Hán Siêu
tuyên bố: “Đã là kẻ sĩ đại phu, nếu không phải đạo Nghiêu Thuấn, không bày tỏ,
không phải đạo Khổng Mạnh, không trước thuật…”. Nhóm nho sĩ Lê Quát,
Phạm Sư Mạnh đề nghị triều đình tiến hành cải cách thể chế theo hướng Nho
giáo hóa, mơ phỏng thiết chế Trung Hoa nhà Minh. Mặt khác, q trình Nho
giáo hóa đã gặp sự phản ứng từ nhiều phía, trước hết từ chính bản thân một số
vua Trần. Minh Tông cho rằng “nhà nước đã có phép tắt nhất định, Nam Bắc
khác nhau”. Nghệ Tông kiên quyết phản bác: “Triều trước [nhà Lý] dựng nước,
có luật pháp, chế độ riêng, khơng theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc,
nước nào làm chủ nước đó, khơng phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị
[đời Trần Dụ Tơng] bọn học trị mặt trắng được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa
của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc như về
y phục, âm nhạc… thật không kể xiết”. Và nhà vua này chủ trương bảo lưu thể
chế cũ.
Ở các làng xã, q trình Nho giáo hóa lại càng mờ nhạt hơn. Dân chúng vẫn
sống theo những phong tục cổ truyền, chưa bị ràng buộc bởi những quy phạm
Nho giáo. Sứ giả Trung Quốc Trần Cương Trung sang Việt Nam đời Trần nhận
định: “Dân chúng vẫn giữ những phong tục rất nông nổi. Không biết đến lễ nhạc
Trung Hoa”. Nho thần Lê Quát phàn nàn: “Ta thuở trẻ đọc sách, ít nhiều hiểu
đạo thánh hiền để giáo hố dân chúng, mà rút cuộc vẫn chưa được một hương
nào tin theo. Ta thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi
tìm những học cung, văn miếu mà chưa hề thấy một ngơi nào. Đó là điều khiên
ta vô cùng hổ thẹn.”
Trong khuôn khổ những cải cách của mình nhằm xây dựng một nhà nước trung
ương tập quyền mạnh, Hồ Quý Ly đã đẩy mạnh quá trình Nho giáo hóa xã hội
Đại Việt như cho dịch và chú giải các Kinh Thư, Kinh Thi, mở trường Nho học
ở các địa phương và tổ chức thi Hương. Tuy nhiên, ở đây là một thứ Nho giáo
thực dụng, khơng giáo điều và có phần sáng tạo độc lập, dung hợp với những tư
tưởng Pháp gia nhằm nâng cao hiệu quả công việc trị nước.
- Giáo dục, khoa cử
Thời đầu Lý, nền giáo dục Đại Việt có thể chủ yếu là Phật học. Lý Công Uẩn đã
học ở chùa Lục Tổ. Các sư tăng đồng thời cũng là những trí thức. Dần dần, cũng
như Nho giáo, giáo dục khoa cử Nho học ngày càng phát triển.
Thời Lý – Trần, Nho học phát triển từ trên xuống dưới. Năm 1070, Văn Miếu
được thành lập, cũng là nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái tử. Lúc đầu,
khi mới mở trường Quốc Tử Giám (1076), chỉ có các quý tộc quan liêu và con
em được theo học. Nhìn chung, việc giáo dục Nho học ở thời Lý cịn khá hạn
chế.
Giáo dục Nho học đã có nhiều tiến bộ dưới thời Trần. Quốc Tử Giám, với những
tên gọi mới (Quốc tử viện, Quốc học viện) đã được củng cố và mở rộng đối
tượng học tập. Năm 1236, đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con em
văn thần và tụng thần [chức quan tư pháp] vào học. Năm 1253, Nhà nước sai
sửa sang Quốc học viện, đắp tượng Không Tử, Chu Công và Mạnh Tử, vẽ tranh
Thất thập nhị hiền để thờ, lại xuống chiếu vời Nho sĩ trong nước đến Quốc tử
viện giảng Tứ thư lục kinh. Năm 1272, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức,
thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, có thể giảng bàn ý nghĩa
của Tứ thư, Ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách.
Ngoài Quốc tử viện là một loại trường Nho học cấp cao, thời Trần cịn một số
trường Nho học khác. Ta có thể kể: trường phủ Thiên Trường, trường Lạn Kha
thư viện (ở chùa Phật Tích), trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc và
trường Cung Hoàng của Nho sĩ Chu Văn An, trước đó đã từng giữ chức Tư
nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1397, triều đình lại đã chính thức sai đặt nhà học và
chức học quan (được nhà nước trợ cấp phần ruộng công thu hoa lợi) ở các lộ
phủ địa phương như Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, với chức năng là “giáo hóa
dân chúng, giữ gìn phong tục, dạy bảo học trò thành tài nghệ, chọn người ưu tú
tiến cử lên triều đình”.
Cùng với giáo dục, khoa cử ở Đại Việt đã có từ thời Lý. Năm 1075, mở khoá thi
Minh kinh bác sĩ Nho học đầu tiên. Lê Văn Thịnh người Bắc Ninh là người đỗ
đầu Thái học sinh (Tiến sĩ sau này), được đưa vào giúp vua học, sau này thăng
đến chức Thái sư. Tuy nhiên, Nho học và khoa cử thời Lý vẫn chưa ổn định. Sau
vụ Lê Văn Thịnh bị buộc tội mưu phản (có thể là kết quả của một âm mưu
chống Nho học của các thế lực Phật giáo), khoa cử hầu như đã bị đình hỗn lại.
Cả triều Lý có 3 khoa thi. Năm 1195, nhà Lý có mở khoa thi Tam giáo (Nho,
Phật, Đạo), loại thi này còn tồn tại đến đầu thời Trần.
Các kỳ thi Thái học sinh đời Trần được tổ chức quy củ và thường xuyên hơn,
niên hạn là 7 năm một kỳ. Cả thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức
và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374,
có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hồng
giáp). Có một thời gian. nhà Trần đã chia thành hai loại Trạng nguyên: Kinh
Trạng nguyên và Trại Trang nguyên (dành riêng cho vùng Thanh – Nghệ). Các
vị tân khoa được nhà vua trọng đãi: ban mũ áo, dự yến tiệc, được dẫn đi thăm
kinh thành Thăng Long trong 3 ngày. Có một số người đỗ đại khoa khi tuổi đời
còn rất trẻ: Trạng nguyên Nguyễn Hiền (l3 tuổi), Bảng nhãn Lê Văn Hưu (18
tuổi), Thám hoa Đặng Ma La (14 tuổi), Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (16
tuổi).
Quy trình và nội dung khoa cử đời Trần lúc đầu gồm 4 kỳ, lần lượt là các bài thi:
ám tả cổ văn, kinh nghĩa và thơ phú, chiếu chế biểu và đối sách (văn sách). Năm
1397, Hồ Quý Ly cải cách thi cử. Nội dung của 4 kỳ thi bỏ ám tả cổ văn và được
sắp xếp lại: kinh nghĩa, thơ phú, chiếu chế biếu và văn sách. Đồng thời, bắt đầu
tổ chức thi Hương ở địa phương.
Khoa cử được tiếp tục dưới triều Hồ (2 khoa). Nguyễn Trãi là người thi đỗ Thái
học sinh năm 1400. Hồ Hán Thương đã tiếp tục cải cách thi cử, đưa thêm vào
mơn tốn và viết chữ.
- Văn học nghệ thuật
Văn học thời Lý- Trần phản ánh những tư tưởng và tình cảm của con người thời
đại, nhìn chung mang nhiều yếu lố tích cực, lạc quan của những vương triều
đang ở thế đi lên. Cơ sở tư tưởng của nó là Phật giáo và Nho giáo. Có 2 dịng
văn học chính: văn học Phật giáo và văn học yêu nước dân tộc.
Tư tưởng Phật giáo trong thơ văn Lý – Trần chủ yếu là tư tưởng của phái Thiền
tông. Nó bao gồm các tác phẩm về triết học và những cảm hứng Phật giáo, cùng
là những tác phẩm về lịch sử Phật giáo thời Lý – Trần. Nhiều bài thơ phú, kệ,
minh do các sư tăng trí thức viết, bàn về các khái niệm sắc – không, tử – sinh,
hưng – vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con người và thiên nhiên,
phản ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và thời đại.
Sư Mãn Giác để lại những câu thơ nổi tiếng về cảm hứng đó.
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(nghĩa là: Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Một số nhà vua và quý tộc sùng Phật đã biên soạn những tác phẩm về giáo lý
nhà Phật như các cuốn Khóa hư lục, bài Thiền tơng chi nam của Trần Thái Tông,
Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ trung thượng sĩ ngữ lục
của Trần Tung. Về lịch sử Phật giáo có các cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục,
Tam tổ thực lục nói về thiền phái Trúc tâm. Một số cuốn sách, cùng với những
bản kinh Phật giáo, đã được nhà nước cho đem khắc in và phổ biến.
Dòng thơ văn yêu nước, dân tộc cũng đã giữ một vị trí rất quan trọng trong thơ
văn Lý – Trần. Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh dũng chống giặc, lòng
trung quân ái quốc cũng như lòng tự hào dân tộc qua những cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm. Thuộc loại này có thể kể bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý
Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, bài Phú sông Bạnh Đằng của
Trương Hán Siêu, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng
Nguyên như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân Tông:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
Một số tác phẩm đã nói lên ý thức tìm về cội nguồn, sưu tập những truyền
thuyết, thần tích nói về lịch sử và nhân vật lịch sử thời quốc sơ Văn Lang – Âu
Lạc cũng như các thời kỳ sau. Hai tác phẩm tiêu biểu là Việt Điện u linh của Lý
Tế Xuyên và Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp.
Tinh thần dân tộc cũng đã được thể hiện trong các bộ quốc sử. Có thể kể đến
Việt sử cương mục và Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Đại Việt sử lượt
(hay Việt sử lược) của một tác giả khuyết danh. Nổi tiếng là bộ Đại Việt sử ký
của Lê Văn Hưu, được coi là bộ chính sử đầu tiên của Việt Nam. Hai tác phẩm
An Nam chí lược của Lê Trắc và Nam Ơng mộng lục của Hồ Nguyên Trừng
được viết ở Trung Quốc, cũng có nhiều đóng góp cho sự tìm hiểu lịch sử, nhân
vật lịch sử điển chương và địa chí của Đại Việt thời Lý – Trần.
Một thành tựu quan trọng của văn học Lý- Trần là việc phổ biến chữ Nơm, vừa
mang tính dân tộc (Nam Nơm), vừa mang tính dân gian (nơm na), cải biến và
Việt hóa chữ Hán. Chữ Nôm lúc bấy giờ được gọi là “Quốc ngữ”, “Quốc âm”.
Chữ Nơm có thể đã xuất hiện từ lâu (thời Bắc thuộc) nhưng chưa phổ biến. Thời
Lý, người ta có thể tìm thấy một số dấu vết chữ Nơm trên một số chuông đồng
(chùa Vân Bản, Đồ Sơn) và văn bia (bia chùa Báo Ân, Vĩnh Phúc). Đến thế kỷ
XIII, chữ Nôm được phổ biến với giai thoại về Nguyễn Thuyên (sau được đổi là
Hàn Thuyên) viết bài Văn tế cá sấu bằng văn Nôm. Một số tác giả khác được
biết cũng sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm như Nguyễn Sĩ Cố, Trần Nhân Tông,
Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An (viết cuốn Quốc âm thi tập, nay không cịn), Hồ
Q Ly. Chữ Nơm cũng đã được phổ biến trong dân gian như một số câu vè
châm biếm cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa và vua Champa Chế
Mân, hoặc việc Trần Nguyên Đán kết giao với Hồ Quý Ly. Một số câu thơ Nôm
cũng thấy trong các cuốn Lĩnh Nam chích quái (truyện Hà Ô Lôi) hoặc trong
Tam tổ thực lục (giai thoại về sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích). Chữ Nơm
cịn được dùng để ghi chép một số bản nhạc, ca khúc thời kỳ này.
Thời Lý – Trần – Hồ cũng để lại nhiều cơng trình về nghệ thuật kiến trúc- điêu
khắc. Nhìn chung, kiến trúc thời Lý mang tính hồnh tráng, quy mơ; kiến trúc
thời Trần mang tính thực dụng, khoẻ khoắn. Tinh thần Phật giáo đã thấm đượm
trong các công trình này.
Cung điện và thành qch là những cơng trình kiến trúc do nhà nước đứng ra chỉ
huy xây dựng, huy động sức lực của dân chúng theo chế độ lao dịch, trưng tập
và phần nào là lao động làm th.
Thành Thăng Long (với 3 vịng thành Đại La, Hồng thành và Cấm thành) là
cơng trình kiến trúc lớn thời Lý – Trần. Hoàng thành mở ra 4 cửa: Tường Phù
(Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam) và Diệu Đức (Bắc). Thời Lý có
các điện Càn Nguyên (sau đổi thành Thiên An), Tập Hiền, Giảng Võ, các cung
Long Thuỵ, Thuỷ Hoa, lầu Chính Dương coi giờ giấc, điện Long Trì đặt chng
thỉnh nguyện ngồi thềm. Thời Trần có các cung điện Quan Triều (vua ở), Thánh
Từ (Thượng hoàng ở), Thiên An (vua làm việc), Tập Hiền (tiếp sứ), Diên Hồng
(mở hội nghị….). Hòa vào các cung điện là một cảnh quan thiên nhiên được bố
trí lộng lẫy và xứng hợp như các hồ, ngòi, vườn tược, cầu cống, vườn bách thảo
bách thú v.v… Một số lớn các cung điện được xây dựng bằng gỗ, sơn son thếp
vàng, đã bị hủy hoại qua chiến tranh.
Các cung điện ở khu Tức Mặc – Thiên Trường (Nam Định) là nơi các Thượng
hoàng đời Trần lui về ở và làm việc. Thời đầu Trần, Phùng Tá Chu là người
được giao trọng trách xây dựng khu cung điện này, được coi như một kinh đô
thứ hai. Nổi tiếng nhất là hai cung Trùng Quang và Trùng Hoa. Chung quanh
cịn có các khu biểu diễn nghệ thuật (múa hát, bơi thuyền, đánh cờ, múa bông)
và khu kinh tế (chăn nuôi, chế biến, làm đồ gốm). Gạch ngói ở đây được in dịng
chữ “Thiên Trường phủ chê”.
Thành nhà Hồ (An Tơn, Vinh Lộc, Thanh Hóa), cịn gọi là Tây Đơ, là cơng trình
kiến trúc đồ sộ và độc đáo bằng đá, xây dựng thời cuối Trần tồn tại qua 6 thế kỷ.
Diện tích thành khá rộng (khoảng 630.000 m2), ngồi thành có lũy đất trồng tre
gai, sát thành có hào nước sâu bảo vệ. Riêng tịa thành hiện còn cao gần 6m, xây
ghép bằng những phiến đá tảng nguyên khối, có phiến dài 7m, nặng 17 tấn, với
nhiều cửa vịm kiên cố, trên có vọng lâu. Trong thành cịn có một số di vật như
các viên gạch đắp hoa, rồng đá, sấu đá.
Cùng với thành quách, thời Lý- Trần cịn có các khu lăng mộ và phủ đệ. Nhà Lý
có khu sơn lăng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), nhà Trần có khu lăng mộ ở Long
Hưng (Thái Bình) và An Sinh (Đơng Triều), với nhiều tượng đá khắc họa hình
người và mng thú. Các dinh thự của quý tộc đời Trần xây dựng ở các địa
phương trấn trị, một số có quy mơ đồ sộ, như phủ đệ của Trần Quốc Khang Ở
Diễn Châu (Nghệ An).
Chùa tháp là kiến trúc Phật giáo đặc biệt thời Lý- Trần. Chùa làng có số lượng
rất nhiều, nhưng quy mô thường nhỏ, kiến trúc đơn giản. Một số ngôi chùa có
kiến trúc độc đáo hoặc quy mơ bề thế. Chùa Diên Hựu (Một Cột) ở Thăng Long
mơ phỏng hình ảnh một đóa hoa sen mọc trên hồ nước, hài hịa với cảnh quan
thiên nhiên. Chùa Phật Tích, Long Đội và quần thể chùa ở Yên Tử đều được xây
dựng trên núi cao, cảnh trí kỳ vĩ. Chùa Thái Lạc và ‘Phổ Minh có những bức
phù điêu chạm trổ độc đáo.
Tháp Phật có nguồn gốc từ các stupa ở Ấn Độ được biến cách, là những kiến
trúc tưởng niệm, khá phổ biến ở thời Lý- Trần. Tháp Báo Thiên (nay khơng cịn)
xây dựng đời Lý, ở giữa kinh thành Thăng Long có 12 tầng. Những tháp đời
Trần cịn lại là tháp Phổ Minh (Nam Định) 14 tầng, tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc)
11 tầng. Tương truyền trong bảo tháp có chứa đựng tro xương của các vị sư tổ
kết tinh lại, gọi là xá lị, như xá lị của Trần Nhân Tơng trong lịng tháp Phổ Minh.
Điêu khắc và đúc tạo hình thời Lý-Trần có các loại tượng. chng, vạc, các bức
phù điêu. Ngồi các tượng Chu Cơng, Khơng Tử, Tứ Phối được bày trong Văn
Miếu, phổ biến là các tượng Phật, nổi tiếng nhất là pho tượng đá Adiđà ở chùa
Phật Tích và pho Di Lặc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm. Năm 1231, triều đình
đã xuống chiếu sai tơ tượng Phật để thờ ở tất cả những nơi có đình trạm (trạm
nghỉ dọc đường). Năm l256, sai đúc 330 quả chuông. Những chuông đồng nổi
tiếng là chuông chùa Sùng Khánh Báo Thiên (nặng 12000 cân) và chuông Quy
Điền khổng lồ ở chùa Diên Hựu. Vạc đồng lớn ở chùa Phổ Minh cũng là một
sản phẩm đúc nổi tiếng, được người Trung Quốc xếp vào danh mục “An Nam tứ
đại khí” (chỏm tháp Báo Thiên, chng Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh
Lâm).
Các bức phù điêu đời Lý- Trần phần lớn đều chạm khắc các hình tượng Phật
giáo (tồ sen, lá đề, sóng nước), hình tượng các tiên nữ múa hát, các hình tượng
rồng uốn khúc (loại rồng giun đơn giản và khoẻ khoắn). Các bức phù điêu chạm
khắc gỗ nổi tiếng ở chùa Thái Lạc và chùa Phổ Minh. Tại khu lăng vua Trần, có
nhiều tượng người và thú vật bằng đá. Trong điêu khắc Lý- Trần, có ảnh hưởng
của nhiều yếu tố mỹ thuật Champa.
Thuộc mỹ thuật thời Lý- Trần, cịn có các đồ gốm, dáng hình đơn giản, thanh
thốt. Có các loại men đàn hoa nâu, men hoa lam và loại men ngọc trắng xanh
nổi tiếng. Nghệ thuật biểu diễn ca múa nhạc thời Lý- Trần phát triển phong phú,
chịu ảnh hưởng của cả nghệ thuật Nam Á và Đông Á, được biểu diễn rộng rãi
trong dân gian cũng như được ưa chuộng trong sinh hoạt cung đình.
Nghệ nhân sử dụng các nhạc cụ như sáo, tiêu, chũm choẹ, trống cơm (phạn cổ
ba, gốc Chăm), các loại đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thất huyền, đàn Ba lỗ
(gốc Chăm), các khúc ca “Trang Chu mộng điệp”, “Bạch lạc Thiên mẫu biệt tử”,
“Đạp ca”, “Thanh ca”, “Ngọc lân xuân”, “Nam thiên”, “Tây thiên”, “Lý liên”,
“Mộng tiên du”, “Canh lậu trường” … Trong các buổi tiệc yến ở điện Tập hiền,
có biểu diễn ca vũ của các đào, kép. Sứ giả Trung Quốc tả: “Con gái đi chân
khơng, mười ngón tay dịu dàng đứng múa, hơn 10 người con trai mình đều cởi
trần, kề vai giậm chân, quây quần chung quanh mà hát theo…”. Chèo, tuồng
được nhiều người ưa chuộng, tích diễn phổ biến là vở “Tây vương mẫu hiến bàn
đào”.
Múa rối nước là môn nghệ thuật đặc sắc, phát triển từ đời Lý, có liên quan đến
nhà sư Từ Đạo Hạnh, đã được trình diễn trong các hội đèn Quảng Chiếu, với
nhiều trò rất sinh động. Trong các lễ hội, có nhiều trị vui tạp kỹ mang tính dân
gian như đấu vật, chọi gà, cờ người, bơi chải, đánh đu, leo dây, đá cầu, trò nhại,
hất phết, cưỡi ngựa đánh cầu… Đinh Bàng Đức, nối tiếng về trò leo dây, múa
rối, Trần Cụ là người giỏi xuất sắc trong môn bắn nỏ, đá cầu. Một số vua Trần
thường tổ chức các cuộc thi ca múa trong giới quý tộc. Trần Nhật Duật được coi
là người sành điệu nổi tiếng. Các chùa chiền cũng tổ chức nhiều lễ hội đông vui
như hội Thiên Phật ở chùa Quỳnh Lâm và hội Vô Lượng ở chùa Phổ Minh.
Những thành tựu khoa học kỹ thuật thời Lý- Trần- Hồ chủ yếu được biết ở một
số ngành như y học cổ truyền, thiên văn lịch pháp, đóng thuyền chiến, cũng như
những kỹ thuật truyền thống trong các nghề luyện đúc đồng, dệt, gốm, xây
dựng…
Danh y Phạm Bân nổi tiếng về y đức, trách nhiệm đối với người bệnh. Tuệ Tĩnh
(Nguyễn Bá Tĩnh) đề cao tác đụng của thuốc nam (với nhiều vị quy như sâm,
trầm, củ mài…) là tác giả bộ Nam dược thần hiệu (có 580 vị thuốc nam, 3873
phương thuốc trị 184 loại bệnh). Các thày thuốc Trâu Tôn, Trâu Canh (người
gốc Hoa) hay Nguyễn Đại Năng đã có nhiều kết quả về khoa châm cứu.
Kỹ thuật xây dựng và tính tốn đã đạt đến trình độ cao trong các cơng trình
thành qch (như thành Tây Đơ), cung điện, chùa tháp. Phùng Tá Chu là người
nổi tiếng trong việc xây dựng cung Thiên Trường.
Về thiên văn lịch pháp, Đặng Lộ đã sáng chế ra “Linh lung nghi” là một dụng cụ
chiêm nghiệm chính xác thiên văn khí tượng, cịn là người đã đổi lịch Thụ thời
ra lịch Hiệp kỷ. Trần Nguyên Đán thông thạo lịch pháp, là tác giả cuốn Bách thế
thông kỷ thư chép về các hiện tượng nhật nguyệt thực trong nhiều thế kỷ, cũng
là người đổi lịch Hiệp kỷ thành lịch Thuận thiên.
Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra loại súng lớn thần cơ sang pháo đúc bằng
đồng, chuyên chở trên xe, có bầu nhồi thuốc và lỗ đặt ngòi. Cổ lâu thuyền tải
lương là loại thuyền chiến lớn hai tầng, bên trên có đường sàn, bên dưới cứ hai
người chèo một mái chèo, tốc độ nhanh.
3. Những nét đặc sắc của tư tưởng văn hóa thời lý – trần
3.1. Văn hóa tinh thần (phi vật thể)
Đến cuối thế ki XV, văn hoá Việt Nam đã qua hai cuộc đại hội tụ để lại những
dấu ấn sâu sắc đáng tự hào đối với lịch sử văn hoá Việt Nam.
Lần thứ nhất là cuộc đại hội tụ của những thành tố nội sinh xuất hiện từ rất lâu
đời nhưng cũng rất tản mạn trong lịng xã hội tiền sử mà sau đó, kết quả tuyệt
vời nhất là sự khai sinh của văn minh sông Hồng (cịn gọi là văn minh Văn
Lang hay Đơng Sơn). Bản chất là không ngừng liên kết và mở rộng để xây dựng
cho bằng được một cõi giang sơn riêng, một bản lĩnh tồn tại riêng và một bản
sắc văn hoá cũng đầy sức sống riêng. Các thế hệ cư dân cổ nhất đã hoàn thành
xuất sắc sứ mệnh cao cả và thiêng liêng này. Một nhà nước Văn Lang, một quốc
gia âu Lạc… tuy khơng có thành qch sừng sững hay dinh thự nguy nga, khơng
có những bác học hay phát minh xuất sắc… nhưng lại là những nhà nước vĩnh
tồn trong tâm khảm của các thế hệ con cháu Lạc Hồng. Với người Việt, Hùng
Vương là đấng mãi mãi được kính thờ:
Dù ai đi ngược về xi,
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba.
Nếu nghiêm cẩn quan sát, ta sẽ thấy một bản lĩnh tồn tại thật phi thường. Từ khi
cuộc Nam chinh của nhà Tần bắt đầu, bão táp can qua đã dồn dập đổ xuống
mảnh đất bé nhỏ người thưa. Sự liều lĩnh và xảo quyệt của Nam Việt, sự tàn bạo
và thâm độc của nhà Hán, sự dã man và điên cuồng của nhà Ngô, sự chà đạp thô
bạo của Nam Triều, sự nham hiểm của nhà Tuỳ và đặc biệt là nhà Đường… tất
cả đã nối nhau chứng tỏ ý chí chung của các tập đồn phong kiến Trung Quốc đơ
hộ trong mưu đồ quyết tâm xố bỏ cho bằng được kí ức bất diệt của nhân dân ta
về nền độc lập và tự chủ từng có từ thời các Vua Hùng. Phong kiến Trung Quốc
hồn tồn có dư dả thời gian, phương tiện và điều kiện, những mưu sâu kế hiểm,
nhưng, chúng đã không thể nào làm được diều này. Bản lĩnh tồn tại được xây
dựng và khẳng định ngay trong lòng văn minh sông Hồng đủ để cho tất cả các
thế hệ thuộc cộng đồng người Việt vượt qua những thử thách cam go nhất.
Từ văn minh sông Hồng, bản sắc văn hố của cư dân nơng nghiệp trồng lúa
nước ở khu vực giáp biển dọc theo chiều dài của bán đảo Đông Dương, nơi chịu
ảnh hường trực tiếp và mạnh mẽ của vùng có khí hậu gió mùa nhiệt đới, đã hình
thành và liên tục được bồi đắp. Chúng ta có quyền tự hào rằng, những thế hệ tiên
phong của người Việt cổ, bằng tất cả khả năng của mình đã góp phần làm phong
phú cho đời văn hố của nhân loại. Đặc điểm lớn nhất, bao trùm nhất của cuộc
đại hội tụ lần thứ nhất chính là q trình khơng ngừng kếtnối những giá trị
nội sinh của đời sống văn hoá vốn dĩ đang tồn tại rất tản mạn trong các khối
cộng đồng dân cư, khéo léo gia cố để khẳng định sự bền vững bằng phương
cách riêng của mình và kết quả là đã tạo dựng nên được nền văn minh sơng
Hồng mang tính bản địa rất rõ rệt.
Thời Bắc thuộc là thời thử thách cam go nhất. Thời nước mất nhà tan, các giá trị
văn hố chung mà tồn thể cộng đồng đã hun đúc được trong rất nhiều thế kì cứ
ln đứng trước nguy cơ bị tan rã. Cuộc chiến đấu chống Bắc thuộc trường kì,
gian khổ và oanh liệt đã kết thúc toàn thắng. Một kỉ nguyên mới đã được mở ra.
Bối cảnh chính trị tốt đẹp này là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển
của văn hoá dân tộc.
Lần thứ hai là cuộc đại hội tụ gắn liền với quá trình xây dựng và khẳng định kỉ
nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà, tổ tiên ta phải đồng thời tiến
hành ba nhiệm vụ lớn.
Triệt tiêu những di hại của âm mưu đồng hoá nguy hiểm mà các triều đại phong
kiến Trung Quốc đô hộ đã áp đặt đối với cộng đồng cư dân người Việt kéo dài
trong hơn một ngàn năm (từ năm 179 TCN đến năm 905).
– Xây dựng một nền văn hố mới, thể hiện hào khí của quốc gia Đại Việt hùng
cường và đậm đà bản sắc riêng của cộng đồng người Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Bắc Nam bờ cõi đã chia,
Phong tục mỗi nơi một khác”.
Bình ngơ Đại cáo – Nguyễn Trãi
Tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hoá của các nước trong khu vực (mà đặc
biệt là Trung Quốc) nhằm không ngừng nâng cao đời sống văn hoá của Đại Việt.
Đặc điểm lớn nhất, xuyên suốt nhất và bao trùm nhất của cuộc đại hội tụ lần
thứ hai chính là q trình phục sinh những giá trị lớn của văn minh sông Hồng,
đồng thời, sáng tạo những giá trị mới, thể hiện tư thế mới. tầm vóc mới, năng
lực mới và bản lĩnh mới của các khối cộng đồng cư dân người Việt.
Với cuộc đại hội tụ lần thứ hai, văn hoá của các khối cộng đồng cư dân người
Việt phát triển phong phú hơn và cũng đã tạo ra được những ảnh hường rộng
lớn, sâu sắc và lâu dài hơn.
Hiện tượng hội nhập ba thành tố Phật, Nho và Đạo là một hiện tượng đặc
sắc hiếm có trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt dưới thời đại Lý-Trần
(xin dùng danh từ này để gọi chung một thời kỳ lịch sử kéo dài từ năm 938 đến
1406, mà chủ yếu là hai triều đại Lý: 215 năm, và Trần: 175 năm), là nét riêng
góp phần tạo nên một bầu khơng khí về sau dường như khơng tìm thấy lại; góp
phần tạo nên bản sắc ưu mĩ của văn hóa Việt Nam trong năm thế kỷ tự chủ buổi
đầu. Có thể coi đây là kết quả của nhiều điều kiện, nhiều nhân tố khác nhau,
nhưng trong đó, có một điều kiện hết sức quan trọng – đó là sự cởi mở về quan
điểm chính trị của các chính quyền nhà nước đương đại thuở ấy, do bản
lĩnh, tầm nhìn, và sự mẫn cảm phi thường của người nắm vận mệnh đất nước thấu hiểu được các yêu cầu của lịch sử, thể hiện cụ thể hóa bằng nhiều
chủ trương chính sách của triều đình. Những công việc song song và đan cài
vào nhau suốt cả thời kỳ này, bao giờ cũng biểu hiện sự đối xử cân bằng vị thế
giữa cả Phật, Nho và Đạo, như: vừa cho dựng chùa, lập các đạo cung, đạo quán,
xây đền miếu, vừa cấp độ điệp cho sư sãi, đặt giai phẩm cho tăng đạo, sắc phong
cho các vị Nho thần, lại vừa cho dựng Văn Miếu và Quốc Tử Giám, mở khoa thi
Nho học, đồng thời cũng mở cả khoa thi Tam giáo dành cho những quan chức
chuyên trách việc tôn giáo, tế lễ hoặc những người làm Giám đốc các đền miếu,
chùa chiền.
Chỉ dẫn chứng một ông vua là Trần Nhân Tông (1258-1308) thôi, ta thấy vừa
đánh xong giặc Ngun-Mơng ít lâu, ơng đã cởi áo hoàng bào đi tu, làm vị tổ
đầu tiên của Giáo hội Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng ông vẫn quan tâm bồi dưỡng
nhân cách bậc “nhân nhân quân tử” theo các tiêu chuẩn của đạo Nho cho ông
vua con kế vị và cho hàng ngg̣ũ bề tôi rường cột của triều đình. Mặt khác, ơng
cũng lo tổ chức cho nhiều đại thần công khanh thụ giới ưu bà tắc, tức là không
xuất gia nhưng vẫn làm Phật tử tại gia.
Đặc biệt, chủ trương dung hợp Nho, Phật, Đạo của các vua Trần thời này lại
không hề đi kèm với những biện pháp cứng rắn, mệnh lệnh, mà được thực hiện
khá uyển chuyển, lấy việc thuyết phục và tự nguyện làm phương châm hàng
đầu. Nền chính trị của các vương triều thuở bấy giờ đã có tác dụng cố kết lịng
dân, giải tỏa dần mọi ức chế, ổn định tâm lý xã hội, và đưa ba hệ thống giáo lý,
tư tưởng vốn rất xa cách là Phật, Đạo và Nho xích lại gần nhau; mặt khác, quan
trọng hơn, nó tạo điều kiện cho sự xuất hiện một đội ngg̣ũ trí thức cấp
tiến, những tinh hoa chắt lọc từ trong hàng triệu con người mới có, tinh thơng về
nhiều mặt, sắc bén về trí tuệ, đáp ứng được mọi yêu cầu đa dạng của đời sống
chính trị, xã hội và cả nhu cầu vi diệu của tâm linh, có thể gọi là một lực lượng
xã hội định hướng – động lực thiết yếu làm mũi tên chỉ đường cho đất nước mà
bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử cũng đương nhiên phải có (song tiếc
thay giai đoạn lịch sử đương đại lại chưa hội tụ được những điều kiện cần và đủ
để lực lượng này xuất hiện, cố kết và tác động như một xung lực). Đại Việt sử ký
toàn thư đã phải nói là thời bấy giờ “nhân tài đầy dẫy”, và nhà sử học Lê Quý
Đôn cũng nhận định: “Bởi vì nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà khơng bó
buộc, hịa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập,
hào hiệp, cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường, làm rạng rỡ sử
sách” (Kiến văn tiểu lục). Lê Q Đơn tuy hình dung họ như những gương mặt
sĩ phu tiêu biểu, nhưng muốn hiểu được sức mạnh tinh thần của những con
người ấy thì phải nhìn sâu hơn vào những nhân tố nhiều mặt kết hợp ở bên trong
– một tổng lực thâm hậu – mà phải trải qua một q trình dài thật sự được giải
phóng và tự do về tư tưởng mới có thể hun đúc nên được.
Như vậy, không thể không thừa nhận sự cởi bỏ một cách có ý thức (dù rằng
khơng thể nào triệt để) những ràng buộc khắt khe về một hệ tư tưởng cực quyền
nào đấy, về một thứ chính trị độc chuyên nào đấy, về một thứ tơn giáo tồn trị
nào đấy, nhằm đi đến một sự hỗn dung, điều hòa, đa nguyên về ý thức hệ, là một
thực tế có ý nghĩa tích cực đáng coi là kỳ lạ ở các xã hội quân chủ dưới thời LýTrần, đã giúp cho sự hội nhập văn hóa thời này diễn ra thuận lợi, dễ dàng.
Chế độ phong kiến Lý – Trần mang đậm tính dân tộc chịu ảnh hưởng của lễ nghi
phong kiến phương Bắc, nhưng tính chuyên chế chưa cao, khoảng cách giữa vua
và tơi, giữa q tộc và bình dân chưa thật lớn. Lối sống trong sinh hoạt chốn
triều đình cịn thể hiện tính dân chủ của cộng đồng. Trần Thánh Tông cho phép
các vương hầu, tôn thất xong buổi chẩu vào trong cung điện và lan đình, cùng
nhau ăn uống; hoặc khi tối trời khơng về thì đặt gối dài, chăn rộng cùng nghỉ
liền giường với nhau, để tỏ tình thân ái; chỉ khi có lễ lớn, tân khách hay yến tiệc,
mới phân biệt ngôi thứ…. Hoặc như Trần Quốc Tuấn đã từng nói với các tướng
sĩ: “Lúc trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười”.
Điểu đó chứng tỏ sự đổng tâm, hịa thuận trong nội bộ chính quyền, làm tăng
thêm sức mạnh của vương triều tạo điều kiện cố kết nhân tâm trong cả nước.
Nhìn chung, tầng lớp quý tộc thời Lý – Trần là một đẳng cấp xã hội trẻ, đang độ
phát triển. Sự đối lập trong nội bộ chính quyền hoặc sự đối kháng giai cấp lúc đó
chưa cao. Đặc điểm này đã tạo nên một khơng khí chính trị lành mạnh trong giới
cầm quyền và trong cả nước nói chung, tạo nên thế mạnh cho chính quyền, cho
cả nước trong mối quan hệ đối nội cũng như trước những thử thách ngặt nghèo
cửa ngoại xâm.
Trong cấu trúc xã hội thời Lý – Trần, hệ thống cộng đổng làng xã đã đóng góp
một vai trị rất quan trọng. Có thể coi đây là nền tảng là cơ sở của cả cấu trúc,
trong đó bao gồm đơng đảo những người nơng dân và các thợ thủ công, tức
thành phần chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, là nơi cung cấp
nhân lực, vật lực cho công cuộc xây dựng sức mạnh phòng vệ đất nước.
3.2. Văn hóa vật chất (vật thể)
Sự phát triển chung của nền văn hố dân tộc đã có tác động lớn đến sự phát
triển của nghệ thuật kiến trúc và tạo hình. Thời Lý- Trần có các cơng trình kiến
trúc đặc sắc
+ Thành Thăng Long được xây dựng từ thời Lý, có quy mơ lớn. Trong thành có
nhiều cung điện, có lầu 4 tầng.