Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Vệ sinh An toàn thực phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.23 KB, 29 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

BVTV

:

Bảo vệ thực vật

KTTT

:

Kích thích tăng trưởng

KS

:

Kháng sinh

SXKD

:

Sản xuất kinh doanh

LD

50

:



Liều lượng gây chết trung bình của một chất độc

KDTV

:

Kiểm định thực vật

IPM

:

Integrated Pests Management. (Quản lý dịch hại tởng hợp)

VietGap
:
Vietnamese Good Agricultural Practices, có nghĩa là Thực hành
sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam, do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ban hành đối với từng sản phẩm, nhóm sản phẩm thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi.
VietGAP là những nguyên tắc, trình tự, thủ tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản
xuất, thu hoạch, xử lý sau thu hoạch nhằm đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã hội, sức khỏe người sản xuất và người tiêu dùng;
đồng thời bảo vệ môi trường và truy nguyên nguồn gốc sản xuất.
CBKT

:

Cán bộ kỹ thuật


GA

:

Gibberellin

NN-PTNT

:

Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn

WHO

:

Tổ chức Y tế Thế giới

FAO

:

Tổ chức Liên Hợp Quốc về lương thực và nông nghiệp)

“Nguy cơ nhiễm độc từ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc
kích thích tăng trưởng, thuốc kháng sinh.”
NGUY CƠ NHIỄM ĐỘC TỪ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT.
A.

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TH́C BVTV:


Tình hình sử dụng thuốc BVTV trên thế giới


Trên thế giới, thuốc BVTV ngày càng đóng vai trị quan trọng trong việc
phòng trừ sâu bệnh bảo vệ sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm. Theo
tính toán của các chuyên gia, trong những thập kỷ 70, 80, 90 của thế kỷ 20, thuốc
BVTV góp phần bảo vệ và tăng năng suất khoảng 20 - 30% đối với các loại cây
trồng chủ yếu như lương thực, rau, hoa quả.
Những năm gần đây theo ý kiến và nghiên cứu của nhiều tổ chức khoa học, chuyên
gia về nông nghiệp, bảo vệ thực vật, sinh thái quá trình sử dụng thuốc BVTV ở thế
giới trải qua 3 giai đoạn là:
1 - Cân bằng sử dụng (Balance use): yêu cầu cao, sử dụng có hiệu quả.
2 - Dư thừa sử dụng (Excessise use): bắt đầu sử dụng quá mức, lạm dụng thuốc
BVTV, ảnh hưởng đến môi trường, giảm hiệu quả.
3 - Khủng hoảng sử dụng (Pesticide Crisis): quá lạm dụng thuốc BVTV, tạo nguy
cơ tác hại đến cây trồng, môi trường, sức khỏe cộng đồng, giảm hiệu quả kinh tế
của sản xuất nông nghiệp. Giai đoạn dư thừa sử dụng từ những năm 80 - 90 và giai
đoạn khủng hoảng từ những năm đầu thế kỷ 21. Với những nước đang phát triển,
sử dụng thuốc BVTV chậm hơn (trong đó có Việt Nam) thì các giai đoạn trên lùi
lại khoảng 10 - 15 năm.
Việc sử dụng thuốc BVTV ở thế giới hơn nửa thế kỷ luôn luôn tăng, đặc biệt
ở những thập kỷ 70 - 80 - 90. Theo Gifap, giá trị tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới
năm 1992 là 22,4 tỷ USD, năm 2000 là 29,2 tỷ USD và năm 2010 khoảng 30 tỷ
USD, trong 10 năm gần đây ở 6 nước châu Á trồng lúa, nông dân sử dụng thuốc
BVTV tăng 200 - 300% mà năng suất không tăng.
Hiện danh mục các hoạt chất BVTV trên thế giới đã là hàng ngàn loại, ở các nước
thường từ 400 - 700 loại. (Trung Quốc 630, Thái Lan 600 loại). Tăng trưởng thuốc
BVTV những năm gần đây từ 2 - 3%. Trung Quốc tiêu thụ hằng năm 1,5 - 1,7 triệu
tấn thuốc BVTV (2010).

* Bên cạnh những đóng góp tích cực với sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp (SXNN) trên thế giới cũng đem lại những hệ lụy xấu, đặc biệt trong vòng
hơn 20 năm trở lại đây.
Sự đóng góp của thuốc BVTV vào quá trình tăng năng suất ngày càng giảm.
Theo Sarazy, Kenmor (2008 - 2011), ở các nước châu Á trồng nhiều lúa, 10 năm
qua (2000 - 2010) sử dụng phân bón tăng 100%, sử dụng thuốc BVTV tăng 200 300% nhưng năng suất hầu như không tăng, số lần phun thuốc trừ sâu không tương
quan hoặc thậm chí tương quan nghịch với năng suất. Lạm dụng thuốc hóa học bảo
vệ thực vật cịn tác đợng xấu đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng
phá vỡ sự bền vững của phát triển nông nghiệp. Lạm dụng hóa chất BVTV làm
tăng tính kháng thuốc, suy giảm hệ ký sinh - thiên địch để lại dư lượng độc trên
nông sản, đất và nước, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường, nhiễm độc người
tiêu dùng nông sản. Trong giai đoạn 1996 - 2000, ở các nước đã phát triển, rất
nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm, vẫn có tình trạng tồn tại dư lượng hóa


chất BVTV trên nơng sản như: Hoa Kỳ có 4,8% mẫu trên mức cho phép, cộng
đồng châu Âu - EU là 1,4%, Úc là 0,9%. Hàn Quốc và Đài Loan là 0,8 - 1,3%. Do
những hệ lụy và tác động xấu của việc lạm dụng thuốc BVTV cho nên ở nhiều
nước trên thế giới đã và đang thực hiện việc đổi mới chiến lược sử dụng thuốc
BVTV. Từ “Chiến lược sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” sang “Chiến
lược giảm nguy cơ của thuốc BVTV”.
Trên thực tế, “Sử dụng thuốc BVTV hiệu quả và an toàn” mới mang tính kinh
doanh và kỹ thuật vì chưa đề cập nhiều đến vấn đề quản lý, đặc biệt là mục tiêu
giảm sử dụng thuốc BVTV, còn “giảm nguy cơ của thuốc BVTV” đã thể hiện tính
đồng bộ, hệ thống, của nhiều biện pháp quản lý, kinh tế, kỹ thuật, nó bao gồm các
nội dung:
a) thắt chặt quản lý đăng ký, xuất nhập khẩu, sản xuất kinh doanh thuốc
BVTV,
b) giảm lượng thuốc sử dụng,
c) Thay đổi cơ cấu và loại thuốc,

d) Sử dụng an tồn và hiệu quả,
đ) Giảm lệ tḥc vào thuốc hóa học BVTV thơng qua việc áp dụng các biện
pháp quản lý dịch hại tổng hợp.
Chiến lược sử dụng thuốc BVTV mới này đã mang lại hiệu quả ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước Bắc Âu, đã thành công trong việc giảm thiểu sử dụng
thuốc BVTV mà vẫn quản lý được dịch hại tốt. Trong vòng 20 năm (1980 - 2000)
Thụy Điển giảm lượng thuốc BVTV sử dụng đến 60%, Đan Mạch và Hà Lan giảm
50%. Tốc độc gia tăng mức tiêu thụ thuốc BVTV trên thế giới trong 10 năm lại đây
đã giảm dần, cơ cấu thuốc BVTV có nhiều thay đởi theo hướng gia tăng thuốc sinh
học, thuốc thân thiện với môi trường, thuốc ít độc hại,…
Thực trạng sử dụng thuốc BVTV ở Việt Nam
Khẳng định vai trò quan trọng của thuốc BVTV trong sản xuất nông
nghiệp
Thuốc BVTV được bắt đầu được sử dụng ở miền Bắc Việt Nam vào những
năm 1955 từ đó đến nay tỏ ra là phương tiện quyết định nhanh chóng dập tắt các
dịch sâu bệnh trên diện rộng. Do vậy, cần phải khẳng định vai trị khơng thể thiếu
được của thuốc BVTV trong điều kiện sản xuất nông nghiệp cảu nước ta những
năm qua, hiện nay và cả trong thời gian sắp tới.
Việc sử dụng thuốc BVTV ở nước ta tăng nhanh.
Theo số liệu của cục BVTV trong giai đoạn 1981 - 1986 số lượng thuốc sử dụng là
6,5 - 9,0 ngàn tấn thương phẩm, tăng lên 20 - 30 ngàn tấn trong giai đoạn 1991 2000 và từ 36 - 75,8 ngàn tấn trong giai đoạn 2001 - 2010. Lượng hoạt chất tính
theo đầu diện tích canh tác (kg/ha) cũng tăng từ 0,3kg (1981 - 1986) lên 1,24 -


2,54kg (2001 - 2010). Giá trị nhập khẩu thuốc BVTV cũng tăng nhanh, năm 2008
là 472 triệu USD, năm 2010 là 537 triệu USD. Số loại thuốc đăng ký sử dụng cũng
tăng nhanh, trước năm 2000 số hoạt chất là 77, tên thương phẩm là 96, năm 2000
là 197, và 722, đến năm 2011 lên 1202 và 3108. Như vậy trong vòng 10 năm gần
đây (2000 - 2011) số lượng thuốc BVTV sử dụng tăng 2,5 lần, số loại thuốc nhập
khẩu tăng khoảng 3,5 lần. Trong năm 2010 lượng thuốc Việt Nam sử dụng bằng

40% mức sử dụng TB của 4 nước lớn dùng nhiều thuốc BVTV trên thế giới (Mỹ,
Pháp, Nhật, Brazin) trong khi GDP của nước ta chỉ bằng 3,3%GDP trung bình của
họ! Số lượng hoạt chất đăng ký sử dụng ở Việt Nam hiện nay xấp xỉ 1000 loại
trong khi của các nước trong khu vực từ 400 - 600 loại, như Trung Quốc 630 loại,
Thái Lan, Malasia 400 - 600 loại. Sử dụng thuốc BVTV bình quân đầu người ở
Trung Quốc là 1,2 kg, ở Việt Nam là 0.95 kg (2010).
Mạng lưới SXKD thuốc BVTV tăng nhanh và khó kiểm sốt
Theo số liệu của cục BVTV, đến năm 2010 cả nước có trên 200 cơng ty
SXKD thuốc BVTV, 93 nhà máy, cơ sở sản xuất thuốc và 28.750 cửa hàng, đại lý
buôn bán thuốc BVTV. Trong khi hệ thống thanh tra BVTV rất mỏng, yếu, cơ chế
hoạt đợng rất khó khăn.
1 thanh tra viên năm 2010 phụ trách 290 đơn vị sản xuất buôn bán thuốc
BVTV, 100.000ha trồng trọt sử dụng thuốc BVTV và 10 vạn hộ nông dân sử dụng
thuốc BVTV. Như vậy rõ ràng mạng lưới này là quá tải, rất khó kiểm soát.
Những tác động tiêu cực của thuốc BVTV
- Dư lượng thuốc BVTV trên nơng sản là phở biến và cịn cao, đặc biệt trên
rau, quả, chè…
Kết quả kiểm tra, năm 2000 - 2002 của cục BVTV cho thấy ở vùng Hà Nợi số mẫu
có dư lượng quá mức cho phép khá cao, trên rau, nho, chè từ 10% - 26%, ở
TPHCM từ 10 - 30%. Mười năm sau, trên rau con số đó vẫn cịn 10,2% - Thuốc
BVTV làm tăng tính kháng thuốc của sâu bệnh, tiêu diệt ký sinh thiên địch, có thể
gây bợc phát các dịch hại cây trồng. Theo Phạm Bình Quyến - 2002, khi phu thuốc
Padan trên lúa, nhóm thiên địch nhện lớn bắt mồi giảm mật độ 13 lần trong khi
không phun tăng 25 lần. Điều tra tởng số lồi thiên địch ở vùng chè Thái Nguyên
nơi không sử dụng thuốc trừ sâu nhiều gấp 1,5 - 2 lần so với nơi có sử dụng thuốc.
Sâu tơ hại rau kháng 24 loại thuốc - Sử dụng nhiều thuốc tác động xấu đến môi
trường, gây ô nhiễm đất và nước không khí ảnh hưởng đến sức khỏe cợng đồng.
Theo thống kê cả nước hiện cịn tồn đọng trên 706 tấn thuốc cần tiêu hủy và
19.600 tấn rác bao bì thuốc bảo vệ thực vật chưa được thu gom và xử lý, hàng năm
phát sinh mới khoảng 9.000 tấn.



Những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật
- Sử dụng thuốc quá nhiều, quá mức cần thiết. Theo Phạm Văn Lầm - 2000,
số lần phun thuốc bảo vệ thực vật cho chè ở Thái Nguyên từ 6,2 đến 29,7 lần/ năm,
cho lúa ở đồng bằng sông Hồng từ 1 - 5 lần/ vụ, ở đồng bằng sông Cửu Long từ 2 6 lần/ vụ, trên 6 lần có 35,6% hợ. Số lần phun cho rau từ 7 - 10 lần/ vụ ở đồng bằng
sông Hồng, ở Thành phố Hồ Chí Minh 10 - 30 lần. Một kết quả điều tra năm 2010
(Bùi Phương Loan - 2010) ở vùng rau đồng bằng sông Hồng cho thấy số lần phun
thuốc bảo vệ thực vật từ 26 - 32 lần (11,1 - 25,6 kg ai/ha) trong 1 năm. Số lần phun
như trên là quá nhiều, có thể giảm 45 - 50% (Ngô Tiến Dũng, Nguyễn Huân,
Trương Quốc Tùng 2002, 2010)
- Sử dụng thuốc khi thiếu hiểu biết về kỹ thuật. Theo Đào Trọng Ánh - 2002,
chỉ có 52,2% cán bợ kỹ tḥt nơng nghiệp - khún nông cơ sở hiểu đúng kỹ thuật
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ này ở người bán thuốc là 33% ở nông dân
49,6%.
- Sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, tùy tiện hỗn hợp khi sử dụng.
Kết quả điều tra năm 2002 (Đào Trọng Ánh) chỉ có 22,1 - 48% nông dân sử dụng
đúng nồng độ liều lượng thuốc trên lúa, 0 - 26,7% trên rau và 23,5-34,1% trên chè,
trong khi đó có nhiều nơng dân tăng liều lượng lên gấp 3 - 5 lần. Ở các tỉnh phía
Nam, có tới 38,6% dùng liều lượng cao hơn khuyến cáo, 29,7% tự ý hỗn hợp nhiều
loại thuốc khi phun. Năm 2010, 19,59% nông dân cả nước vi phạm sử dụng thuốc,
trong đó khơng đúng nồng đợ là 73,2% (Cục BVTV)
- Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không tuân thủ thời gian cách ly
Đây là một tồn tại nguy hiểm, tác động trực tiếp đến vệ sinh an tồn thực phẩm
song đáng tiếc là rất phở biến, đặc biệt là ở các vùng rau quả, chè… có tới 35 60% nông dân chỉ thực hiện thời gian cách ly từ 1 - 3 ngày, 25 - 43,3% thực hiện
cách ly 4 - 6 ngày trong khi phần lớn các loại thuốc có yêu cầu cách ly từ 7 - 14
ngày hoặc hơn. (Đinh Ngọc Ánh - 2002), năm 2010 trên diện rợng cịn tới 10,22%
nơng dân khơng đảm bảo thời gian cách ly. (Cục BVTV)
- Coi trọng lợi ích lợi nhuận hơn tác động xấu đến môi trường, sức khỏe

cợng đồng.
Có mợt thực tế rất đáng lên án là một bộ phận nông dân cố tình sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật sai quy định pháp lý và kỹ thuật vì mục đích lợi nhuận của bản thân,
xem nhẹ luật pháp và lợi ích cộng đồng. Đặc biệt ở các vùng rau, quả, chè, hoa,
nơng sản có giá trị cao… Điều tra năm 2003 - 2005 tại Vĩnh Phúc, Hà Nợi, có tới
20 - 88,8% số nơng dân vẫn dùng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục. Năm 2010,
Cục BVTV cho biết cịn 5,19% số hợ dùng thuốc cấm, ngồi danh mục, 10,22%
khơng đúng thời gian cách ly, 51% khơng thực hiện theo khún cáo của nhãn.
Như vậy có thể thấy, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở nước ta trong
vòng 10 năm lại đây, bên cạnh những thành tựu và ưu điểm cũng còn nhiều tồn tại,


thiếu sót, tác hại có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó có nguyên
nhân chủ quan từ phía xây dựng, ban hành, thực hiện các chính sách quản lý và kỹ
thuật và chủ quan từ phía thực hiện của người sản xuất nông nghiệp trong sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật. [1]

B. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI NHÓM THUỐC BVTV
1. Định nghĩa về thuốc BVTV
- Thuốc BVTV là những hợp chất hoá học (vô cơ, hữu cơ), những chế phẩm
sinh học (chất kháng sinh, vi khuẩn, nấm, siêu vi trùng, tuyến trùng, …), những
chất có nguồn gốc thực vật, động vật, được sử dụng để bảo vệ cây trồng và nông
sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật gây hại (côn trùng, nhện, tuyến trùng,
chuột, chim, thú rừng, nấm, vi khuẩn, rong rêu, cỏ dại, …).
- Theo qui định tại điều 1, chương 1, điều lệ quản lý thuốc BVTV (ban hành
kèm theo Nghị định số 58/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ), ngồi tác
dụng phịng trừ sinh vật gây hại tài nguyên thực vật, thuốc BVTV cịn bao gồm cả
những chế phẩm có tác dụng điều hoà sinh trưởng thực vật, các chất làm rụng lá,
làm khô cây, giúp cho việc thu hoạch mùa màng bằng cơ giới được thuận tiện (thu
hoạch bông vải, khoai tây bằng máy móc, …). Những chế phẩm có tác dụng xua

đ̉i hoặc thu hút các lồi sinh vật gây hại tài nguyên thực vật đến để tiêu diệt.
- Ở nhiều nước trên thế giới thuốc BVTV có tên gọi là thuốc trừ dịch hại. Sở
dĩ gọi là thuốc trừ dịch hại là vì những sinh vật gây hại cho cây trồng và nông sản
(côn trùng, nhện, tuyến trùng, chuột, chim, nấm, vi khuẩn, cỏ dại, …) có mợt tên
chung là những dịch hại, do vậy những chất dùng để diệt trừ chúng được gọi là
thuốc trừ dịch hại.
2. Các nhóm thuốc BVTV
Thuốc BVTV được chia thành từng nhóm tuỳ theo công dụng của chúng:
Thuốc trừ sâu
Thuốc trừ bệnh
Thuốc trừ cỏ dại
Thuốc trừ nhện hại cây
Thuốc trừ tuyến trùng
Thuốc trừ ốc sên
Thuốc trừ chuột
Thuốc trừ chim hại mùa màng


Trong các nhóm thuốc BVTV trên đây được sử dụng phổ biến hơn cả là
thuốc trừ sâu, thuốc trừ bệnh và thuốc trừ cỏ dại.
C. TÍNH ĐỢC CỦA TH́C BVTV ĐỚI VỚI NGƯỜI VÀ ĐỢNG
VẬT MÁU NĨNG
Thuốc BVTV khơng chỉ có tác dụng gây đợc đến dịch hại cây trồng, mà
trong quá trình lưu thơng, sử dụng nếu khơng có những biện pháp ngăn ngừa thích
hợp, thuốc có thể gây đợc cho người, sinh vật có ích và mơi trường sinh sống.
1. Con đường xâm nhập của thuốc BVTV
Thuốc BVTV có thể xâm nhập vào cơ thể con người qua các con đường sau:
- Qua đường hô hấp khi hít thở phải khí, hơi hay bụi thuốc BVTV.
- Qua da khi tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV.
- Qua đường tiêu hoá khi ăn hoặc uống phải thuốc BVTV.

Để đảm bảo an tồn cho người, khơng để thuốc BVTV xâm nhiễm vào cơ
thể con người, cần hiểu biết về thuốc BVTV và thực hiện triệt để các nội dung sau:
+ Phải rửa tay chân mặt mũi trước khi ăn uống hoặc hút thuốc.
+ Phải cất giữ thuốc BVTV ở nơi khô ráo, xa hồ ao, giếng và các nguồn
nước sinh hoạt khác. Phải để xa nguồn thực phẩm không để ánh sáng mặt trời rọi
vào trực tiếp và được khoá cẩn thận, để xa tầm tay với của trẻ em.
+ Phải có đầy đủ bảo hợ lao đợng khi đi phun thuốc, như áo mưa, kính, khẩu
trang, mặt nạ, găng tay, ủng, … thay quần áo tắm rửa sạch sẽ ngay sau khi phun
thuốc xong.
+ Khơng dùng bình phun rị rỉ, không để thuốc rây lên da.
+ Không di chuyển ngược với hướng gió trong khi phun thuốc.
+ Khơng ăn uống hoặc hút thuốc khi đang làm việc với thuốc BVTV.
+ Không sử dụng các chai chứa thuốc BVTV để chứa nước uống, không
dùng bình chứa nước để đựng thuốc BVTV.
+ Không mua bán, vận chuyển thùng thuốc BVTV bị nứt vỡ hoặc bị rò rỉ,
các loại thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng, thuốc BVTV khơng có nhãn mác hoặc có
nắp đậy khơng kín.
+ Khơng để thuốc BVTV ở cạnh thức ăn, quần áo thuốc men, thức ăn gia
súc, đồ chơi.
+ Cấm vận chuyển thuốc BVTV trên cùng xe chở khách và hàng hoá khác.
+ Không cất giữ thuốc BVTV trong nhà bếp, ở gần nguồn thực phẩm, các
chất dễ cháy, để thuốc BVTV phía trên chuồng trại chăn ni.
2. Ngộ độc cấp tính và ngộ độc mãn tính
* Độ độc mãn tính:


Khi mợt loại thuốc BVTV nói riêng hay mợt chất đợc nói chung xâm nhập
vào cơ thể vật với mợt lượng nào đó, cơ thể sẽ bị ngợ đợc, biểu hiện bằng những
triệu chứng (ví dụ hôn mê, co giật, đồng tử bị giãn) đó là ngợ đợc cấp tính.
Khi một chất độc hay một loại thuốc BVTV xâm nhập vào cơ thể với một lượng

nhỏ chưa gây ra trúng độc cấp tính. Nhưng nếu ngày này qua ngày khác thuốc liên
tục xâm nhập vào cơ thể với những lượng nhỏ thì đến mợt lúc nào đó cơ thể sẽ bị
suy yếu, có những cơ quan chức năng của cơ thể bị tổn thương do tác động của
thuốc.
* Độ độc cấp tính:
Những loại chất đợc khi xâm nhập vào cơ thể một loại động vật với một
lượng nhỏ, đã gây ngợ đợc cấp tính thì chất đó có đợ đợc cấp tính cao. Ngược lại,
những chất độc khi xâm nhập vào cơ thể một loại động vật với lượng tương đối
nhiều hơn mới gây ngộ độc cấp tính thì chất đó có đợ đợc cấp tính thấp hơn.
Những thuốc BVTV có đợ đợc cấp tính cao thì càng dễ gây ngộ độc cho
người. Chỉ tiêu để biểu thị độ độc cấp tính của mợt chất đợc nói chung, và của mợt
loại thuốc BVTV nói riêng - đối với đợng vật máu nóng trong trường hợp chất đó
xâm nhập qua đường miệng vào bộ máy tiêu hoá là chỉ số LD50 . Khi tác đợng lên
cùng mợt lồi đợng vật, mỗi loại thuốc BVTV có mợt trị số LD50 riêng, biểu thị
đợc đợc cấp tính của thuốc đó đối với đợng vật máu nóng.
LD50 là liều gây chết cho 50% số lượng con vật thử nghiệm (chuột bạch, thỏ…)
được tính bằng số lượng miligam hoạt chất của thuốc/kg thể trọng của con vật thí
nghiệm. Trị số LD50 của một loại thuốc càng nhỏ thì đợ đợc cấp tính của thuốc đó
với đợng vật máu nóng ngày càng cao, thuốc càng nguy hiểm, dễ gây chết người và
động vật.
Theo quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các thuốc
BVTV chia thành các nhóm có đợ đợc cấp tính khác nhau, tuỳ theo trị số LD50
(qua đường miệng) của thuốc đó.
Loại thuốc nào có LD 50 nằm trong khoảng 500-2000 thì sử dụng “Nguy
hiểm”. Loại thuốc nào có LD 50 >2000 thì sử dụng từ “Cẩn thận”.
Những ký hiệu và biểu tượng nêu trong bảng trên đây được áp dụng trong việc
trình bày các bao bì, các nhãn thuốc BVTV lưu thông và sử dụng ở Việt Nam.
Với những thuốc BVTV tḥc nhóm I, nếu vơ ý nuốt phải vài giọt hoặc một
nhúm nhỏ (thuốc ở thể rắn) cho tới 1 thìa cà phê là có thể gây chết người. Với
nhóm II, nếu nuốt phải mợt lượng nhiều (30/450ml) thì mới gây chết người.

Các thuốc BVTV có những trường hợp cịn gây đợc cho cơ thể qua đường
tiếp xúc (Xâm nhập qua da). Trị số biểu thị độ độc của một loại thuốc BVTV qua
đường tiếp xúc cũng là LD50 (mg/kg). Trị số LD50 của một loại thuốc BVTV qua
đường tiếp xúc càng nhỏ thì thuốc đó càng dễ gây ngộ độc cho động vật, cho người
khi bị thuốc dính vào da.


Bảng phân loại nhóm độc theo Tổ chức Y tế Thế giới (LD50( mg/kg, chuột
nhà)).
* Những biểu hiện khác về độ độc của một loại thuốc BVTV đến động vật
máu nóng:
Ngồi đợ đợc cấp tính (đặc trưng bằng trị số LD50 nêu ở phần trên) còn phải
xem xét về khả năng mợt loại thuốc BVTV có thể gây ra hay không cho động vật
các chứng bệnh hiểm nghèo như : Gây sẩy thai, gây đẻ quái thai, gây ung thư, gây
biến đổi di truyền, …
Để được cấp giấy phép lưu thông và sử dụng trong nước cho một loại
thuốc BVTV, mọi Cơng ty sản x́t thuốc BVTV trong và ngồi nước đều phải nợp
cho cơ quan có thẩm qùn mợt bộ hồ sơ bao gồm nhiều tài liệu chứng minh cho
tính an toàn và tính hiệu quả của loại thuốc xin đăng ký sử dụng, trong đó những
tài liệu có giá trị pháp lý xác minh rằng sản phẩm BVTV xin đăng ký sử dụng ở
Việt Nam hồn tồn khơng có khả năng gây cho người sử dụng thuốc (cũng như
người tiêu thụ nơng sản có xử lý thuốc đó) những căn bệnh hiểm nghèo như đã nêu
ở trên.
D. NGỘ ĐỘC THUỐC BVTV VÀ CÁC BIỆN PHÁP SƠ CỨU
1. Xâm nhập của thuốc BVTV vào bên trong cơ thể
Thuốc BVTV có thể xâm nhập vào bên trong cơ thể theo 3 con đường chính:
- Thuốc dây rớt trên da, xâm nhập vào bên trong cơ thể: trong quá trình pha
và phun thuốc BVTV, tay chân là bộ phận dễ bị nhiễm thuốc nhất; mắt miệng và bộ
phận sinh dục là nơi dễ mẫn cảm với thuốc nhất. Trời nóng nực, mồ hôi ra nhiều
càng làm cho thuốc dễ xâm nhập qua da vào bên trong cơ thể.



- Nuốt phải thuốc: Thuốc theo cùng đồ ăn, uống xâm nhập vào cơ thể; nếu
thuốc BVTV xâm nhập vào cơ thể theo con đường này thường gây trúng độc nặng
nhất.
- Hít phải hơi độc của thuốc: Hơi độc sẽ đi qua mũi xâm nhập vào phổi
Chỉ khi xâm nhập được vào bên trong cơ thể, thuốc BVTV mới gây độc cho người
và gia súc.
2. Triệu chứng ngộ độc thuốc BVTV
Về điều kiện, nạn nhân phải có tiếp xúc mợt thời gian nhất định với thuốc
BVTV, hoặc ăn uống nhầm phải thực phẩm có chứa đợc chất. Những nạn nhân
uống thuốc BVTV để tự tử.
- Trường hợp nhiễm độc nhẹ: Có thể gặp mợt hoặc nhiều biểu hiện trong các
triệu chứng như: Nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi, chảy nước miếng, chảy nước mắt.
- Ngộ độc ở mức độ trung bình: Buồn nôn, nôn, mờ mắt, đánh trống ngực,
tức ngực, đau thắt dạ dày, run rẩy, vã mồ hôi, co đồng tử, mạch chậm, …
- Ngộ độc nặng: Co giật, thở yếu, mê sảng, rối loạn nhịp tim, … tử vong.
3. Những việc cần làm ngay
Khi gặp một người bị ngộ độc thuốc BVTV, phải khẩn trương đưa nạn nhân
ra khỏi nơi có đợc đến chỗ n tĩnh, thoáng mát. Tạo điều kiện đưa nạn nhân đến
cơ sở y tế gần nhất. Nếu xa cơ sở điều trị và không có thầy thuốc thì tiến hành việc
sơ cứu những trường hợp đó như sau:
- Đưa nạn nhân ra khỏi vùng nhiễm độc.
- Xử lý vùng da bị dính thuốc.
- Thay ngay hoặc cởi bỏ quần áo bị dính thuốc.
- Chỗ da bị dính thuốc, dùng khăn ướt vắt dáo thẩm sạch, sau đó rửa bằng xà
phịng. Khơng nên dùng bàn chải chà sát làm tróc da dễ gây bợi nhiễm; tóc, móng
tay cũng được rửa sạch như vậy.
4. Các biện pháp sơ cứu
- Cách xử lý thuốc bắn vào mắt: Không được dụi mắt và cũng không nhỏ

một loại thuốc đau mắt nào vào mắt bị nhiễm độc. Dùng bông y tế hoặc khăn tay
nhúng vào nước sạch vắt ráo, thấm lấy hết thuốc ở mi và hố mắt, sau đó rửa ngay
bằng nước sạch.
Cách rửa mắt: Người bệnh ngồi, mặt ngửa và nghiêng về phía bên mắt định
rửa. Dùng nước sạch rửa liên tục từ 15 - 20 phút. Nơi có điều kiện cho vịi nước
chảy liên tục trong 10 phút để rửa mắt.
- Nạn nhân ăn uống phải thuốc BVTV cần thực hiện ngay việc gây nôn như
sau: Nếu có điều kiện pha 03 muỗng cà phê muối ăn với một chén nước chín, cho
nạn nhân uống và sau đó bảo bệnh nhân há miệng, dùng ngón tay kích thích lưỡi


gà (đóc giọng) để gây nơn. Nếu cấp cứu tại hiện trường, chỉ cần dùng ngón tay trỏ
kích thích lưỡi gà cũng có thể gây nơn được cho bệnh nhân.
Chú ý: Những bệnh nhân co giật, ngất, hơn mê, khó thở, suy tim nặng, có
thai gần ngày sinh khơng được gây nôn và những trường hợp không phải nhiễm
độc đường tiêu hoá thì không cần gây nôn.
- Khi bệnh nhân bị suy hơ hấp dẫn đến khó thở thì phải làm hô hấp hỗ trợ,
đơn giản nhất là dùng phương pháp thởi ngạt: Cởi khuy áo cở, móc hết đờm, dãi
trong miệng và họng đồng thời lau sạch chất độc bám trong miệng nạn nhân nếu
có. Đặt bệnh nhân nằm ngửa, độn gối dưới cổ để đầu ngửa tối đa, quỳ bên cạnh
nạn nhân dùng bàn tay thuận kéo hàm ra phía trước và lên trên để lưỡi khỏi lấp
họng, nếu nạn nhân bị tụt lưỡi, thì phải dùng gạt hoặc khăn nắm kéo lưỡi ra và tìm
cách giữ chặt bên ngồi. Dùng ngón cái và trỏ của bàn tay cịn lại bịt mũi và kết
hợp ấn trán để cở ngửa hẳn ra sau. Hít thật sâu, miệng ngậm miệng nạn nhân thổi
thật mạnh làm cho lồng ngực nhô lên trơng thấy, thởi 4 lần liền. Sau đó, bng
miệng nạn nhân để không khí tự động thoát ra khỏi phổi, lồng ngực xẹp xuống.
Tiếp tục thổi ngạt 15 lần/phút đến khi hết khó thở, nếu sau 20 phút khơng hết khó
thở thì phải nhanh chóng chuyển đi bệnh viện và phải liên tục thổi ngạt trong lúc di
chuyển.
- Khi gặp bệnh nhân ngưng tim, phải giúp nạn nhân phục hồi hoạt động tim

bằng các phương pháp sau đây: Đấm vào vùng trước tim 5 cái đồng thời xem mạch
bẹn (Điểm giữa rãnh đùi - bụng), nếu tim không đập thì xoa bóp tim ngồi lồng
ngực. Cách xoa bóp tim ngồi lồng ngực: Đặt nạn nhân nằm ngửa trên một nền
cứng, đầu thấp chân gác cao. Quỳ bên phải bệnh nhân, đặt lòng bàn tay trái ở 1/3
dưới xương ức bệnh nhân, lòng bàn tay phải đặt lên trên bàn tay trái, dùng sức
mạnh của 2 tay và cơ thể ấn mạnh nhịp nhàng 60 lần phút, cứ 4 lần xoa bóp tim thì
1 lần thởi ngạt. Lực ấn khi xoa bóp tim phải đủ cho lồng ngực bệnh nhân xẹp
xuống khoảng 4 cm; tuỳ thể trạng bệnh nhân dùng lực thích hợp để tránh gây tổn
thương thêm.
Việc cần làm tiếp sau là giữ ấm cho nạn nhân, nếu người bệnh cảm thấy lạnh
thì đắp ấm và cho uống nước trà, cà phê đặc hoặc cho ăn nhẹ (cháo đậu, cháo thịt
nạc băm, cháo trứng), cho uống Vitamin C, B1 và nước quả. Nếu bệnh nhân sốt,
lau mát cho bệnh nhân.
Không cho uống sữa khi cịn nhiễm đợc và cũng khơng cho ăn uống
các dung dịch có chứa dầu, mỡ, rượu hoặc các loại nước giải khát có chứa rượu;
các gia vị kích thích như tiêu, ớt.
Trên đường vận chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế, cần đặt nạn nhân nằm
nghiêng, tốt nhất là nghiêng sang phải.
Tiếp tục làm hô hấp nhân tạo nếu nạn nhân cịn ngất hoặc khó thở. Cử người
đi theo (có mang nhãn, bao bì thuốc gây nhiễm độc) và thông báo cho cơ sở y tế
biết những biện pháp sơ cứu đã thực hiện.


E. KỸ TḤT SỬ DỤNG TH́C BVTV AN TỒN HIỆU QUẢ
1. Kỹ thuật 4 đúng trong việc dùng thuốc BVTV
* Đúng thuốc:
Trước khi chọn mua thuốc, nông dân cần biết loại sâu, bệnh, cỏ dại gây hại
mà mình cần phòng trừ. Không nên sử dụng cùng một loại thuốc trong suốt vụ
hoặc từ năm này qua năm khác. Nên ưu tiên mua loại thuốc ít độc nhất. ưu tiên
chọn mua loại thuốc có thời gian cách ly ngắn nhất.

- Nên ưu tiên mua những loại thuốc có tác đợng chọn lọc (có hiệu lực trừ sâu
bệnh cao nhưng tương đối ít đợc với sinh vật có ích
* Đúng liều lượng:
Dùng thuốc với liều cao hơn khuyến cáo càng làm gia tăng nguy cơ bị ngộ
độc của người đi phun thuốc, người sống ở gần vùng phun thuốc và người sử dụng
nơng sản có phun thuốc. Ngồi ra cịn có nguy cơ cây trồng bị hại do thuốc liều
lượng cao gây ra (nhất là khi dùng thuốc trừ cỏ).
* Đúng lúc:
Đối với dịch hại đúng lúc là phun thuốc vào thời điểm mà dịch hại trên đồng
ruộng dễ bị tiêu diệt nhất. Sâu hại thường mẫn cảm nhất đối với thuốc BVTV khi
chúng ở giai đoạn sâu non tuổi nhỏ. Đối với thuốc trừ cỏ thì phải tuỳ theo đặc điểm
của từng loại thuốc và sử dụng vào lúc thuốc có tác đợng mạnh nhất đến cỏ dại và
ít có nguy cơ gây hại cho cây trồng.
Phun đúng lúc cũng là tránh phun thuốc khi trời sắp mưa to có thể làm rửa
trôi hết thuốc trên mặt lá, thân cây. Phun thuốc vào lúc trời mát, khơng có gió to để
thuốc bay vào mặt hoặc bay vào nhà ở gần nơi phun thuốc.
Phun đúng lúc là không phụ thuộc vào quá gần ngày thu hoạch nông sản.
Phải tuỳ loại thuốc mà ngừng sử dụng trước khi thu hoạch một thời gian nhất định.
* Đúng cách:
Dùng thuốc đúng cách thể hiện trước hết ở khâu pha thuốc. Pha thuốc đúng
cách là làm thế nào để làm cho chế phẩm sử dụng được hoà thật đồng đều vào
nước, như vậy khi phun thuốc sẽ được trang trải thật đều trên vật phun (lá cây, mặt
đất…). Khâu tiếp theo của việc dùng thuốc đúng cách là phun rải thuốc trên đồng
ruộng cho đúng cách. Phun rải thuốc đúng cách là làm sao cho thuốc BVTV tiếp
xúc được với dịch hại nhiều nhất. Có những loại sâu hại chỉ tập trung phá ở gốc (ví
dụ rày nâu), có những lồi chun sống trên lá, trên ngọn, lại có những lồi chỉ
sống ở mặt dưới lá,… Do vậy khi phun thuốc phải hướng sao cho tia tập trung vào
nơi quy định phun.
Dùng thuốc đúng cách còn có nghĩa là khơng tự ý hỗn hợp nhiều loại thuốc
BVTV với nhau để phun trên đồng ruộng. Khi hỗn hợp 2 hay nhiều loại thuốc



BVTV cũng có trường hợp do phản ứng với nhau mà hỗn hợp sẽ giảm hiệu lực trừ
dịch hại, hoặc dễ gây cháy lá cây, hoặc dễ gây độc cho người sử dụng. Do vậy chỉ
thực hiện việc hỗn hợp nếu như điều đó có hướng dẫn trên nhãn thuốc hoặc trong
các tài liệu khoa học kỹ thuật hướng dẫn dùng thuốc BVTV.
2. Đảm bảo thời gian cách ly từng loại thuốc BVTV trên từng loại cây trồng
* Dư lượng thuốc BVTV trên nông sản:
Sau khi một loại thuốc BVTV được phun rải lên cây hoặc bón vào đất thì
thuốc sẽ để lại trên mặt lá, thân cây và thông thường là cả ở bên trong các mô thực
vật một lượng thuốc (hoạt chất) nhất định. Sau phun rải một thời gian (vài ngày,
một vài tuần) lượng hoạt chất bám trên cây và tồn tại bên trong cây sẽ giảm dần do
tác động của nhiều yếu tố: Do thời tiết (nắng mưa), do hoạt động phân huỷ thuốc
của các men thực vật, do sự tăng trưởng của cây được gọi là dư lượng thuốc BVTV
trên thân lá, trái, củ của cây trồng. Càng xa ngày phun rải thuốc thì dư lượng của
thuốc bên ngoài và bên trong cây càng giảm thấp.
* Mức dư lượng tối đa cho phép:
Một loại thuốc BVTV chỉ gây độc cho cơ thể người và động vật máu nóng,
nếu như loại thuốc thâm nhập vào cơ thể với mợt lượng thấp hơn lượng giới hạn
nói trên thì chưa gây hại cho cơ thể. Loại thuốc nào có đợc tính càng cao (tḥc
nhóm I) thì giới hạn đó càng thấp. Ngược lại loại thuốc nào có đợc tính càng thấp
(tḥc nhóm III) thì giới hạn đó càng cao.
Những lương thực và thực phẩm chứa dư lượng một loại thuốc BVTV ít hơn
mức dư lượng tối đa cho phép thì được xem như vô hại đối với sức khoẻ của người
tiêu dùng. Ngược lại, những nông sản chứa dư lượng một loại thuốc BVTV vượt
quá mức dư lượng tối đa cho phép thì không được dùng làm lương thực, thực phẩm
cho người tiêu dùng.
* Thời gian cách ly:
Thời gian của một loại thuốc BVTV đối với một loại nông sản là thời gian
kể từ ngày phun loại thuốc đó lần cuối trong vụ đến ngày thu hoạch nơng sản đã

có phun thuốc. Thời gian cách ly có thể thay đổi từ một vài ngày đến một vài tuần
tuỳ theo đặc tính khoa học, tuỳ theo độc tính của thuốc và tuỳ theo loại cây lương
thực, thực phẩm được phun thuốc, tuỳ theo lượng thuốc dùng trên đồng cỏ. Thời
gian cách ly dài hay ngắn cịn tuỳ tḥc vào điều kiện thời tiết trong thời kỳ phun
thuốc.
3. Đảm bảo an toàn trong khâu cất giữ tại nhà những thuốc BVTV chưa sử
dụng hết
Những thuốc BVTV mua về chưa sử dụng hoặc dùng chưa hết phải được cất
giữ trong các phịng riêng biệt, khơng dợt khi bị mưa, có khoá cửa chắc chắn, xa
nơi ở và chuồng trại gia súc.


Những dụng cụ đong thuốc, bình bơm thuốc, quần áo bảo hộ lao động phải
được giặt giũ, rửa sạch sẽ sau mỗi đợt phun thuốc và phải cất giữ trong kho riêng
(cùng với nơi lưu trữ thuốc BVTV của gia đình). Tuyệt đối không được dùng các
đồ dùng trong sinh hoạt (xô chứa nước ăn, chậu rửa rau vo gạo, muỗng, thìa, chén
ăn cơm, …) để đong, pha thuốc.
Không trút đổ thuốc dư thừa, chưa dùng hết sang bất kỳ đồ đựng khác (vỏ
chai bia, chai nước mắm, …). Sau khi đã dùng hết thuốc không được dùng bao bì
thuốc BVTV (chai thuốc, bịch thuốc BVTV) vào bất kỳ mục đích nào khác. Phải
huỷ và chôn những bao bì này. [2]
F. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG THUỐC BVTV:
1. Cần sớm xây dựng chiến lược sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam trong
10 - 15 năm tới với các định hướng chủ yếu sau:
- Giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc BVTV cả về kỹ thuật, sản xuất kinh tế, bảo vệ
môi trường, an tồn thực phẩm và sức khỏe cợng đồng.
- Đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
- Nâng cao nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc

BVTV.
2. Trên cơ sở Luật bảo vệ thực vật và KDTV sẽ được ban hành cần có nghị định và
thông tư mới riêng về quản lý - sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong đó cần có quy
định cụ thể về xây dựng, ban hành và sử dụng danh mục thuốc bảo vệ thực
vật theo các định hướng sau:
- Hạn chế số lượng hoạt chất trong danh mục, rất hạn chế các loại hoạt chất hỗn
hợp, hạn chế số tên sản phẩm cho 1 hoạt chất.
- Hạn chế đăng ký sản phẩm mới cũng như nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật: đánh
giá hiệu quả kỹ thuật đồng thời hiệu quả về môi trường, an toàn thực phẩm, hiệu
quả kinh tế của các hoạt chất lẫn phụ gia. Hạn chế đăng ký sản phẩm tḥc nhóm
đợc I, II có thời gian cách ly dài, có đợc tính cao với ký sinh thiên địch và cá. Xem
xét tăng phí khảo nghiệm và đăng ký.
- Đởi mới cơ cấu các nhóm thuốc trong danh mục, tăng tỷ lệ thuốc sinh học lên 30
- 40% trong 5 - 7 năm tới, giảm rõ rệt các loại thuốc tḥc nhóm đợc I và II.
- Thuốc nhập khẩu phải có phiếu xác nhận xuất xứ. Xuất xứ phải phù hợp với hồ
sơ đăng ký. Tăng thuế nhập khẩu với các loại thuốc thuộc diện không khuyến
khích sử dụng, miễn thuế đối với loại thuốc khuyến khích sử dụng, thân thiện môi
trường, ít độc hại.
- Thực hiện nguyên tắc “có vào có ra danh mục” để định kỳ sàng lọc sản phẩm.
Định kỳ 3 năm cần rà soát lại sản phẩm, loại bỏ các loại thuốc không hoặc chưa
được sử dụng trên thị trường, thuốc đã bộc lộ nhiều nhược điểm, hạn chế.


- Xây dựng các danh mục khuyến cáo sử dụng của Trung ương và từng tỉnh giúp
người nông dân lựa chọn đúng.
3. Xây dựng lợ trình giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở
nước ta từ nay đến năm 2020 theo hướng:
- Giảm thiểu lượng thuốc sử dụng hàng năm khoảng 30 - 40% đặc biệt trên lúa,
rau, chè, quả, vùng nông sản xuất khẩu.
- Giảm số lượng hoạt chất trong danh mục 30 - 40%, số sản phẩm thương mại cho

1 loại hoạt chất (tối đa 5).
- Nâng tỷ lệ thuốc sinh học, thuốc có đợ đợc thấp (nhóm 4,5), thuốc thân thiện mơi
trường lên 40 - 60%.
4. Xây dựng chương trình hoặc đề án tổng thể việc mở rộng ứng dụng các tiến bộ
kỹ thuật mới có tác dụng giảm thiểu, chống lạm dụng và nâng cao hiệu quả sử
dụng thuốcbảo vệ thực vật như IPM, 3 giảm 3 tăng, Vietgap…
5. Tăng cường thanh kiểm tra khâu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, khâu ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật mới. Củng cố và nâng cao quyền lực của hệ thống thanh tra
chuyên ngành về BVTV, môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt xác
định rõ quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền cấp xã phường trong quản lý,
giám sát, kiểm tra việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Xây dựng và củng cố về tổ
chức và chính sách nợi dung hoạt đợng của màng lưới dịch vụ bảo vệ thực vật khuyến nông cơ sở.
6. Thống nhất việc xây dựng ban hành bộ tài liệu huấn luyện về quản lý, sản xuất
kinh doanh và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chương trình huấn luyện các quy
trình kỹ thuật ứng dụng tiến bợ kỹ thuật mới. Coi trọng huấn luyện CBKT, nông
dân, đại lý bán thuốc.
Quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiện nay ở nước ta là 1 bài toán khó
nhưng cần được giải đúng. [1]
NGUY CƠ NHIỄM ĐỢC TỪ TH́C KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG.

A. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TH́C KÍCH THÍCH TĂNG
TRƯỞNG:
Để có được sức khoẻ và đủ lương thực, thực phẩm, con người đã sử dụng
nhiều hoá chất, các loại thuốc kích thích, điều hoà sinh trưởng trong sản xuất
lương thực. Việc sử dụng hoá chất kích thích tăng trưởng ko đúng quy định đã gây
nên vụ ngộ độc thực phẩm, gây nên các bệnh mãn tính do nhiễm và tích luỹ các
chất đợc hại từ mơi trường bên ngồi và thực phẩm, gây rối loạn chuyển hoá các
chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư. Trước tình trạng sử dụng
thuốc kích thích tăng trưởng tràn lan trong trồng rau, quả, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành điều tra để tìm nguyên



nhân và tác hại của các loại thuốc kích thích sinh trưởng có nguồn gốc từ thuốc bảo
vệ thực vật ngoài danh mục cho phép do nhập lậu bằng các con đường không chính
thức. Kết quả điều tra ban đầu cho thấy, người dân sử dụng rất nhiều loại thuốc
kích thích sinh trưởng cho cây trồng với giá thành rất rẻ, có đợc lực cao, kích thích
sinh trưởng nhiều.
Trong đợt điều tra khảo sát việc canh tác rau muống nước trên địa bàn
các thành phố vào tháng 4 và tháng 5 năm 2007, cùng với thông tin của báo đài
cho thấy bà con nông dân thường sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng để làm rau
muống nước nhanh thu hoạch, cây vượt xanh non tăng năng suất một cách mà báo
chí gọi là “công nghệ siêu tốc”. Các loại thuốc kích thích, điều hoà sinh trưởng
được Nhà nước liệt vào chung với thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên về cơ chế tác
động thì lại rất khác nhau. Thuốc trừ sâu là các hợp chất có tác dụng diệt sâu, ảnh
hưởng trực tiếp đến người sử dụng thuốc cũng như người tiêu dùng nông sản.
Riêng thuốc kích thích tăng trưởng lại khác vì không tác động đến sâu bệnh hại mà
tác động trực tiếp lên cây trồng với mục đích duy nhất là tăng năng suất, tăng khối
lượng cây trồng. [3]
MỢT SỚ LOẠI TH́C KÍCH THÍCH THƯỜNG GẶP
Gibberellin
Thuốc kích thích tăng trưởng bao gồm các hoạt chất như NAA,
Gibberellin, Xytokinin dưới nhiều tên gọi thương mại khác nhau... Qua điều tra
nông dân vùng rau muống nước thường dùng các thương hiệu có hoạt chất chủ lực
là Gibberellin (GA). [3]
B.
1.

GA là nhóm Phytohoocmon thứ hai được phát hiện sau auxin (NAA).
Hiệu quả sinh lý rõ rệt của GA là kích thích mạnh mẽ sự sinh trưởng kéo dài của
thân, sự vươn dài lóng cây, làm tăng sinh khối của cây trồng, làm tăng nhanh sự

sinh trưởng dinh dưỡng. GA kích thích sự nảy mầm của hạt và củ, có tác dụng đặc
trưng là phá tình trạng ngủ nghỉ của hạt giống (miên trạng). [3]
Trong nhiều trường hợp, GA kích thích sự ra hoa rõ rệt, ảnh hưởng kéo dài nhanh
chóng cụm hoa. Xử lý GA làm cây dài ngày ra hoa trong điều kiện ngày ngắn, có
thể biến cây hai năm thành cây mợt năm. Trong việc tạo quả, GA có vai trò giống
như auxin (NAA) làm tăng kích thước quả, tạo nên quả không hạt trong một số
trường hợp. Vì GA ảnh hưởng hầu hết trên quá trình trao đổi chất, các hoạt động
sinh lý, đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây nên GA là một trong những
chất điều tiết sinh trưởng thường được ứng dụng có hiệu quả trong nông nghiệp.
Hiện nay, người ta đã phát hiện ra trên 50 Gibberellin được ký hiệu GA , GA , GA ,
…GA …trong đó GA (axit Gibberellic) có hoạt tính mạnh nhất. Điều đáng nói là
khác với auxin, GA khá bền vững trong cây và khả năng phân hủy là ít. [3]
1

52

3

2

3


2.

Clenbuterol

Đối với gia súc như lợn, gà, vịt, hoá chất kích thích tăng trưởng ngồi
dexamethasone, người chăn ni thường sử dụng là clenbuterol. Chất sau này ảnh
hưởng lên sức khoẻ người tiêu dùng rất nặng vì nó là mầm mống của bệnh ung thư.

Clenbuterol được trộn trong thức ăn cho lợn khiến lợn tăng trọng rất nhanh và làm
thịt lợn rất bắt mắt. [4]
Khái niệm và phân loại chất tăng trọng (chất tạo nạc)
Chất tăng trọng hay chất tạo nạc là mợt hợp chất hóa học tḥc họ βagonist được xếp vào loại chất độc cấm sử dụng trong chăn ni trên tồn thế giới.
Họ β-agonist gồm 2 nhóm:
Nhóm β1-agonist: gồm các chất có tác dụng kích thích tim, được dùng
để điều trị sốc tim, suy tim cấp tính như Dobutamine, Isoproterenol,
Xamoterol, Epinephrine…. [4]
• Nhóm β2-agonist: Gồm các chất làm giãn cơ, được dùng để điều trị
hen suyễn, bệnh phổi mãn tính: Salbutamol (Albuterol), Clenbuterol,
Ractopamine, Epinephrine (thúc chín tố), Fenoterol, Formoterol,
Isoproterenol ( và ), Metaproterenol, Salmeterol, Terbutaline,
Clenbuterol, Isoetarine, pirbuterol, procaterol, ritodrine, epinephrine.
[4]
Họ β-agonist là các hợp chất tổng hợp phenethanolamine được sử dụng như là một
tác nhân dùng để trị các bệnh về hơ hấp trong y học. Chúng cịn có tác dụng làm
tăng hàm lượng protein, kích thích tăng trưởng nhờ quá trình chuyển hóa hàm
lượng mỡ tích tụ thành các mô cơ ở vật nuôi. Tuy nhiên chúng lại gây ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người khi tiêu thụ những thức ăn có nguồn gốc từ đợng vật
bị nhiễm các chất này, gây ra những vụ ngộ độc thực phẩm do sự tích tụ trong gan,
các bệnh liên quan đến tim mạch, hệ thần kinh trung ương… Sở dĩ như vậy là do
các hợp chất này được sử dụng như là một chất kích thích tăng trưởng, phân phối
lại dưỡng chất trong vật nuôi một cách quá mức và bất hợp pháp. [4]


1

2

Tính chất Clenbuterol và Salbutamol

Trong những chất kể trên, Salbutamol, Clenbuterol và Ractopamine là ba
chất đứng đầu trong danh mục 18 chất kháng sinh, hóa chất bị cấm sử dụng trong
chăn nuôi ở nước ta do Bợ NN&PTNT ban hành năm 2002. Trong đó hai chất đầu
gần như cả thế giới đều cấm, riêng với Ractopamine lại có đến 24 nước chấp nhận
sử dụng (2002), trong đó có cả những nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc ,
Brazin, Mehico, Thái Lan…Tuy nhiên cũng có rất nhiều nước cấm, đứng đầu là
Liên hiệp châu Âu, Trung Quốc, Malayxia, vùng lãnh thở Đài Loan. Do đó việc
kiểm soát hàm lượng các chất tḥc nhóm β-agonist trong các chế phẩm dùng


trong chăn nuôi trở thành một yêu cầu cấp thiết của xã hội. Sau đây chỉ xin lấy hai
chất Clenbuterol và Salbutamol làm ví dụ:



Salbutamol: là
mợt loại thuốc kích thích chọn lọc các thụ thể beta - 2 (ở cơ trơn phế
quản...). Khi ăn thịt heo có salbutamol cũng giống như uống thuốc
này. Salbutamol còn trong thịt heo bao nhiêu là con người sử dụng
bấy nhiêu. Trong khi salbutamol chỉ dùng để cấp cứu bệnh nhân hen
lên cơn co thắt phế quản không thở được. Nếu không cắt cơn hen
bệnh nhân sẽ chết. Chỉ có giữa cái sống và cái chết mới phải sử dụng
salbutamol vì đây là chất cực kỳ nguy hiểm cho sức khỏe con người.




Salbutamol là chất bị ngành nông nghiệp cấm sử dụng trong chăn nuôi
như một loại hoocmôn tăng trưởng. [4]
Clenbuterol: (Spiropent, Ventipulmin) là một amin giao cảm được sử

dụng bởi người bị chứng rối loạn hô hấp như là một loại thuốc thơng
mũi và thuốc giãn phế quản. Những người có rối loạn hô hấp mãn tính
như hen suyễn sử dụng như một thuốc giãn phế quản để làm cho việc
thở dễ dàng hơn. Thuốc phở biến nhất có sẵn dưới dạng hydrochloride
hydrochloride các muối clenbuterol. Ngoài ra Clenbuterol là loại chất
kích thích tuyến thượng thận, điều tiết sinh trưởng động vật, thúc đẩy
quá trình phát triển cơ bắp và tác dụng phân giải lipid. Những con lợn
được trộn thức ăn có chứa Clenbuterol sẽ có tỷ lệ thịt nạc nhiều hơn
thịt mỡ.[4]

Sử dụng và tác hại
Họ β- agonist là một trong những hợp chất dùng trong chăn nuôi, đặc biệt
là chăn nuôi heo để kích thích heo tăng trưởng và cho thịt siêu nạc. Với thuốc
salbutamol (dùng ở người), các chuyên gia khuyến cáo phải thận trọng khi dùng
cho người đang có bệnh tim mạch như tăng huyết áp, bệnh tiểu đường và phụ nữ
đang mang thai. [4]
Để heo nhanh lớn, siêu nạc, dễ bán, một số người chăn nuôi thường dùng
các chất Clenbuterol và salbutamol. Tác dụng phụ của hai chất này làm cho heo nở
nang, tăng trọng nhanh, nhất là tăng lượng nạc. Khi heo được cho ăn các chất trên
thì sẽ siêu nạc, tiêu lượng mỡ, và nếu không bán nhanh thì heo sẽ chết. Do vậy,
thường người ta chỉ cho dùng các chất trên khi heo gần đến ngày xuất chuồng. [4]
Việc ăn phải thịt lợn chứa chất Clenbuterol về lâu dài có thể gây biến
chứng ung thư,ngộ độc cấp, run cơ,đau tim, tim đập nhanh,tăng huyết áp, choáng
váng… Clenbuterol sẽ gây tổn hại cho hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, thậm chí gây
chết người. Đối với gia súc như lợn, con vật khi ăn phải chất này chỉ có thể tồn tại
được quá nửa tháng là phải giết mổ. [4]
Nếu lợn được kích nạc bằng Salbutamol thì cơ bắp, cơ mông, đùi rất
chắc, nổi rõ. Salbutamol được hấp thụ dễ dàng qua đường tiêu hóa, có thể gây
nhược cơ, làm giảm vận đợng của cơ, khớp, khiến cơ thể phát triển không bình
thường. [4]

Nếu người tiêu dùng ăn thịt heo có tồn dư hai chất nói trên thì lâu dần sẽ
có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu lên tim mạch, làm cho tim đập nhanh, tăng huyết áp,
run cơ, rối loạn tiêu hóa… và có thể là nguy cơ cho những căn bệnh khác.
Ngoài ra chất Ethephon(thúc chín tố) để bảo quản thịt, các lái bn đã sử dụng hóa
chất này để bảo quản thịt gia súc, gia cầm sau giết mổ nhằm giữ độ tươi của thịt.
Trong chế biến bảo quản thực phẩm có nguồn gốc động vật, chất này cũng bị cấm
sử dụng. [4]


Gibberecllic acid kích thích rau quả sử dụng
Ở nước ta hiện nay, sau khi báo chí đưa tin nhiều địa phương các loại thuốc kích
thích tăng trưởng, thuốc tăng phọt để thúc rau lớn nhanh và gần đây là sự việc rau
su su Tam Đảo sau một đêm mọc dài hàng chục centimet, theo tìm hiểu và phát
hiện loại thuốc mà người trồng su su dùng để phun để kích thích tăng trưởng cho
rau là thuốc có tên PRO FARM-N2 và TONY-920. Thuốc TONY 920 là loại thuốc
nằm trong danh mục được phéo sử dụng có hoạt chất chính là Gibberecllic acid, là
mợt trong 4 nhóm chất điều hồ sinh trưởng thực vật. [5] TS. Nguyễn Thị Nhung,
Trưởng Bộ môn thuốc, cỏ dại, môi trường Viện Bảo vệ thực vật (Bộ NN-PTNT)
cho biết, hiện nay để kích thích sinh trưởng vươn ngọn, bật chồi nhanh giúp cho
rau tăng năng suất, nhiều hộ dân thường mua các loại thuốc kích thích. Tuy nhiên,
nếu người trồng rau sử dụng thuốc kích thích quá độc, liều lượng cao, gần ngày thu
hoạch, không đảm bảo thời gian cách ly thì dư lượng thuốc còn lại trong rau sẽ
vượt quá mức cho phép, gây ngộ độc cho người tiêu dùng, kể cả với các loại thuốc
kích thích sinh học. Theo bà Nhung, tuy mức độ tồn dư thuốc trong rau mà người
dùng có thể bị ngộ độc cấp tính với các biểu hiện như buồn nơn, nhức đầu, chóng
mặt, tiêu chảy... hoặc sẽ bị ngợ độc mãn tính, lâu dần tích tụ lại các cơ quan nội
tạng gây ra những bệnh nguy hiểm cho cơ thể. Tác hại của các loại thuốc này lên
con người có thể thấy ở hiện tượng trẻ em dậy thì sớm ngày mợt nhiều. [6]
3.


C.

NHIỄM ĐỢC TỪ TH́C KÍCH THÍCH GIÁ ĐƠ

Lơ thuốc kích thích giá đỗ với hơn 80.000 lọ bị các cơ quan chức năng
bắt giữ ngay tại TP Hà Nội khiến dư luận ngỡ ngàng về thực trạng hàng vạn gia
đình đang bị đầu độc âm thầm bởi rau mầm ngâm hóa chất đợc hại. [7]
Tuy nhiên, kết quả phân tích mẫu loại thuốc kích phọt này vừa được Viện
khoa học hình sự Bộ Công an công bố đã khẳng định sự nguy hại. Theo đó, kết quả
phân tích cho thấy thành phần chủ yếu trong các ống thuốc tăng trưởng trên là chất
6-BA (6-Benzylaminopurine) và một lượng nhỏ chất pCPA được pha chế trong môi
trường kiềm. [7]
Hai loại chất này là các chất kích thích tăng trưởng thực vật, tḥc họ
Cytokinins và họ Auxins có tác dụng kích, thúc sự nảy mầm và sinh trưởng của cây
trồng được dùng nhiều trong giá đỗ và cây su su…để kìm hãm sự phát triển của rễ,
thúc đẩy hình thành mầm hoa và nở hoa, quá trình tạo quả và sinh trưởng của quả.
[7]


Các chất trên khơng nằm trong danh mục các hóa chất được phép sử
dụng trong thực phẩm do Bộ Y tế quy định và cũng khơng có trong danh mục các
loại thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam. Đặc biệt, các cơ quan
chức năng cho biết do chứa hàm lượng kiềm cao nên nếu tiếp xúc trực tiếp với số
thuốc kích thích trên có thể gây bỏng da, hỏng mắt. Nếu nuốt hay hít phải có thể
làm tởn thương bợ máy tiêu hóa và hệ hơ hấp. [7]
Tồn bợ lơ hàng khơng có tem nhãn phụ, khơng có giấy tờ chứng minh
nguồn gốc. Nhãn mác, bao bì các hộp và ống thuốc đều bằng chữ Trung Quốc. Qua
phiên dịch sơ bộ trên nhãn mác, bao bì sản phẩm ống thuốc thì đây là loại dùng
cho các loại rau mầm. Theo đó, thuốc có thể khiến cho mợt cây rau mầm lớn thêm
2- 3cm trong vịng 4-5 tiếng đồng hồ. [7]

Vụ việc đã làm sáng rõ mối lo ngại về các loại rau mầm, giá đỗ cũng như rất nhiều
loại trái cây, rau xanh và thịt, cá nhiễm kim loại nặng, chất kích thích tăng trọng,
tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thuốc “thúc chín tố”, “tăng phọt”… dẫn đến thực
trạng cả cộng đồng đang lặng lẽ bị đầu độc. [7]

D.

BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC

Mặc dù thuốc kích thích tăng trưởng có mục đích sử dụng khác xa với
thuốc trừ sâu và không độc như thuốc trừ sâu nhưng xét về tính an tồn cho sức
khỏe cợng đồng người tiêu dùng thì nên hạn chế sử dụng, chỉ nên tăng cường phân
hữu cơ hoai mục trong sản xuất để ngày càng thân thiện với môi trường trong việc
tăng năng suất cây trồng, nhất là đối với cây thực phẩm như rau xanh, rau muống
nước. Các cơ quan chức năng cần tăng cường thông tin tuyên truyền vận động
nông dân trồng rau muống nước hiện nay nên hạn chế sử dụng thuốc kích thích
tăng trưởng, tăng cường sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu vi sinh, vừa tăng năng
suất cây trồng vừa an toàn cho người tiêu dùng và môi trường ngày càng tốt hơn.
[5]
NGUY CƠ NHIỄM ĐỘC TỪ THUỐC KHÁNG SINH

A. ĐỊNH NGHĨA THUỐC KHÁNG SINH:
Kháng sinh là những hợp chất trước đây có nguồn gốc thiên nhiên (tức được
ly trích từ các vi sinh vật như vi nấm), và nay được tởng hợp, có tác dụng ức chế sự
phát triển hoặc tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh. Kháng sinh có tác dụng rất tốt nếu
được sử dụng đúng theo chỉ định, hướng dẫn của bác sĩ điều trị. Cịn nếu sử dụng
khơng đúng, có thể sẽ gây nhiều tác hại khôn lường. [8]


Tác dụng của thuốc kháng sinh:

Kháng sinh chống lại vi khuẩn bằng cách làm hư hại thành phần cấu tạo của
chúng như lớp vỏ bảo vệ, màng trao đổi chất v.v... Tuy nhiên, trong phương diện
điều trị, người ta quan tâm đến hai loại tác dụng: tác dụng diệt khuẩn và tác dụng
kìm khuẩn (kìm khuẩn có khi cịn được gọi là hãm khuẩn, trụ khuẩn, tĩnh khuẩn).
Kháng sinh diệt khuẩn có tác dụng giết chết vi khuẩn, cịn kháng sinh kìm khuẩn
chỉ làm cho vi khuẩn ngưng phát triển, không sinh sản chứ không bị tiêu diệt.
Kháng sinh kìm khuẩn được dùng khi cơ thể người bệnh còn sức đề kháng, hệ
thống miễn dịch còn đủ mạnh để tiêu diệt vi khuẩn đã bị thuốc làm cho yếu đi. Nếu
cơ thể người bệnh quá yếu, bắt buộc phải dùng các loại kháng sinh diệt khuẩn. Chỉ
có thầy thuốc mới biết kháng sinh nào là diệt khuẩn và kháng sinh nào là kìm
khuẩn, cũng như việc dùng mỗi loại trong từng trường hợp cụ thể.[8]
B. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH:
Nguy cơ kháng thuốc kháng sinh.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), vừa công bố báo cáo về tình trạng kháng
thuốc kháng sinh trên toàn cầu, nêu rõ vấn đề kháng thuốc kháng sinh ở một số
bệnh viêm nhiễm mà trước đây điều trị rất dễ dàng thì nay đã trở nên khó khăn
hơn. Các vi khuẩn đường ṛt kháng thuốc kháng sinh giờ đây đã trở lên phổ biến,
từ khơng có trường hợp nào cách đây 30 năm thì nay đã tăng lên 50%, nhất là vi
khuẩn đường ruột Ecoli. Tại Australia, các ca kháng thuốc kháng sinh trong việc
điều trị rối loạn tiêu hóa chiếm khoảng 10%, còn ở Trung Quốc là 70% và Nhật
Bản - 34%.
Các loại kháng sinh khác tỷ lệ kháng thuốc dao động từ 30 đến 60%.Theo bà
Vivian Lin, Giám đốc Bộ phận phát triển sức khỏe khu vực Tây Thái Bình Dương
của WHO, mợt số ngun nhân chính dẫn đến có nhiều ca kháng thuốc kháng sinh
là: Thứ nhất do uống kháng sinh không đúng cách; thứ hai do bác sĩ cũng kê đơn
kháng sinh không đúng cách; thứ ba là các hiệu thuốc có thể bán kháng sinh khơng
đúng quy định.
Hiện nay, một số nước công nghiệp phát triển đã đi đầu trong việc giải quyết
vấn đề này và nâng cao nhận thức về kháng thuốc kháng sinh. Theo khuyến cáo
của WHO, việc kê đơn thuốc kháng sinh và khả năng tiếp cận với thuốc kháng sinh

phải được coi là vấn đề quan trọng và tránh lạm dụng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên,
do vấn đề tài chính và thiết bị y tế có hạn của mợt số nước đang phát triển, nhất là
khu vực châu Á, nên việc lạm dụng kháng sinh để chữa bệnh đã trở nên phổ biến,
nhất là sử dụng thuốc kháng sinh trong ngành công nghiệp thực phẩm.


Về vấn đề lạm dụng kháng sinh, Tổ chức Y tế Thế giới vừa cơng bố kế
hoạch tồn cầu để kiểm soát sự kháng thuốc kháng sinh và cấm lạm dụng kháng
sinh trong một số trường hợp. Theo các chuyên gia Mỹ, nếu sử dụng thuốc kháng
sinh không đúng sẽ gây tai biến cho cơ thể như dị ứng, nhiễm độc các cơ quan nội
tạng, loạn khuẩn đường ruột và tiêu chảy khó điều trị. Trước đây, thuốc kháng sinh
rất hiệu quả trong điều trị các bệnh liên quan đến viêm nhiễm do vi khuẩn thì hiện
nay đã xuất hiện nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc. Việc sử dụng kháng sinh cần
hợp lý, địi hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn và dứt khoát phải tuân thủ
sự hướng dẫn, kê thuốc của bác sĩ; , đặc biệt tránh dùng thuốc kháng sinh cho việc
phòng ngừa bệnh.[8]

Lượng kháng sinh đã sử dụng trong Nuôi trồng thủy sản ở một số nước - đơn vị
g.a.i-tấn sản phẩm thu hoạch - Nguồn: FAO 2012

Tại Việt Nam, Vấn đề lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi đã được cảnh báo
suốt vài thập kỷ qua, nhưng xem ra xu hướng này khó chuyển biến nếu Việt


Nam khơng có những thay đổi căn bản về phương thức chăn nuôi và tiêu thụ
sản phẩm chăn nuôi theo hướng hiện đại.
Đã thành… tập quán!
Một số chuyên gia nhận xét, lạm dụng kháng sinh là "tập quán xấu" của người
chăn nuôi Việt Nam nhiều năm qua. Hơn nữa, quy mô chăn nuôi nông hộ và gia
trại khiến kiểm soát chất lượng khó khăn. Bên cạnh đó, kháng sinh trong chăn ni

có nguồn gốc Trung Quốc - "cường quốc" sản xuất kháng sinh trong chăn nuôi lại
được bán tràn lan với giá rẻ mạt.
Kết quả điều tra của PGS Lã Văn Kính - Phó Viện trưởng Viện Chăn ni kiêm
Giám đốc Phân viện Chăn nuôi Nam Bộ và cộng sự từ năm 1996 cho thấy, thời
điểm đó trên 75% mẫu thịt và 66,7% mẫu gan (gà nuôi theo phương thức công
nghiệp) tồn dư kháng sinh với mức 3,67 - 122 ppm, cao hơn rất nhiều lần tiêu
chuẩn quốc tế. Đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh cũng phát hiện 26 loại kháng
sinh được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi, nhiều nhất là chloramphenicol (chiếm
15,35%), tylosin (15%), colistin (13,24%), norfloxacin (10%), gentamycin
(8,35%), nhóm tetracylin (7,95%), ampicillin (7,24%)... Trong đó,
chloramphenicol hiện đã bị cấm sử dụng. 44,96% mẫu thịt gà có dư lượng kháng
sinh vượt mức cho phép từ 2,5 đến 1.100 lần so với tiêu chuẩn ngành.
Sau nhiều năm, tình trạng lạm dụng kháng sinh vẫn không giảm. Cuối tháng 11
năm ngoái, Hội Y tế công cộng Việt Nam tổ chức hội nghị thường niên tại Hà Nội,
GS - TS Nguyễn Công Khẩn, Cục trưởng Cục Khoa học - Công nghệ - Đào tạo
(Bộ Y tế), cho biết, vẫn cịn khoảng 70 - 80% thực phẩm từ đợng vật có rủi ro về
kháng sinh do dư lượng hoặc đã từng sử dụng trong quá trình chăn nuôi.


Nguồn />Thay đổi là… thua lỗ?
Ngăn chặn việc lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi không chỉ bảo vệ môi trường
mà trước hết là đảm bảo an toàn cho con người. Ngành y tế cho biết, đã xuất hiện
những chủng vi khuẩn kháng kháng sinh, làm giảm hiệu quả điều trị, mà nguyên
nhân ngoài việc người dân lạm dụng kháng sinh trong điều trị cịn có vấn đề ăn
nhiều thực phẩm tồn dư kháng sinh quá cao.
Trong ngành thủy sản, vấn đề dư lượng kháng sinh được kiểm soát khá tốt, do Việt
Nam xuất khẩu với sản lượng lớn và chịu sự kiểm tra gắt gao của các nước. Nhưng
trong chăn nuôi, do tiêu thụ nội địa và việc kiểm tra xử phạt quá lỏng lẻo nên khó
kiểm soát vấn đề lạm dụng kháng sinh. Hơn nữa, việc xử phạt chỉ ảnh hưởng đến
một vài doanh nghiệp và số tiền phạt khơng đủ sức răn đe.

Cùng đó, lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi được coi là một trong những
nguyên nhân khiến giá gà, giá thịt lợn một số thời điểm rớt thảm hại do không tiêu
thụ được. Người dân gần như ngay lập tức quay lưng lại với các sản phẩm độc hại.
Hơn nữa, việc người dân dần chuyển hướng sang thịt gà Mỹ, thịt bị Úc, có lẽ phần
nhiều là do thông tin về việc tồn dư kháng sinh hay sử dụng các chất tăng trọng,
tạo nạc chưa được giải quyết dứt điểm.
Tồn dư kháng sinh trong thực phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng Ảnh: thehealthycity.org
Theo một vài nhà nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi nước ngoài: "Việt Nam là mảnh
đất màu mỡ cho các sản phẩm chăn nuôi các nước tiên tiến, vì người dân đang dần
mất niềm tin với các sản phẩm trong nước". [10]
C. NHIỄM ĐỘC THUỐC KHÁNG SINH:
Nhiễm độc thận do thuốc kháng sinh.
Gần 50% thuốc dùng trong phòng, chữa bệnh là kháng sinh. Hầu hết chúng
và các chất chuyển hoá được thải trừ qua thận. Trên đường đi, chúng có thể gây các
tác dụng khơng có lợi cho thận...
1.

Trực tiếp gây nhiễm độc thận.
Gây nhiễm độc ống thận: Kháng sinh gây thương tổn trực tiếp hoặc ở màng
nhân tế bào biểu mô, lưới bào tương, ty lạp thể hoặc ở lysosom.Tuỳ theo t̉i tác,
tình trạng mất nước, tuần hồn hoặc tuỳ các bệnh mạn tính kèm theo mà việc
nhiễm độc này nặng thêm. Trong số này, phải kể đến 4 nhóm thuốc:
Nhóm aminozid: Nhóm này gây suy thận với tỷ lệ khoảng 10%. Suy thận
thường xuất hiện sau khi dùng thuốc 7-10 ngày. Nếu dùng liều cao, kéo dài, dùng


×