LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, trong q trình nghiên cứu tơi nhận
được sự giúp đỡ tận tình chu đáo của thầy giáo Thượng tá:Trương Xuân Dũng
và sự góp ý chân thành, động viên của thầy cơ trong khoa cùng sự động viên
khích lệ của bạn bè, người thân.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng để hoan thành đề tài nghiên cứu này,
song thời gian và trình độ bản thân cịn có hạn nên khó tránh khỏi thiếu sót.
Kính mong q thầy cơ giáo và bạn bè góp ý để đề tài được hồn thiện hơn.
Tơi xin bày tỏ nlịng biết ơn chân thành nhất đối với quý thầy cô và tất cả
các bạn./
Vinh, ngày 28 tháng 5 năm 2011
Người thực hiện
Lê Thị Tân
1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Việt Nam hai tiếng Việt Nam nghe nhân ái và tự hào đến lạ .Mỗi con
người được lớn lên và sinh ra luôn mang trong mình dịng máu của dân tộc .Ban
là ai ?bạn được sinh ra ở đâu lớn lên từ nơi nào ?cịn tơi, tơi ln tự hào vì
được sinh ra trong một dân tộc mang tên”viêt nam” .Có gì nó thiêng liêng trong
hai tiếng Việt Nam ấy - đó là cả một quá trình với những trang sử dài của hàng
ngàn năm dựng và giữ nước của cả một dân tộc từ bao thế hệ
Việt Nam chúng ta có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ
nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân
dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đơng đảo
quần chúng tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận đánh hay
đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Ngày nay,
nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta càng tự hào về
truyền thống hào hùng ấy. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được hình thành
rất sớm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Việt nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm nền dân tộc Việt Nam gắn
liền với quá trình dựng và giữ nước trải qua những cuộc khởi nghĩa vũ trang để
giành lại độc lập tự do cho đất nước, các cuộc chiến tranh chống lại các thế lực
xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, dân tộc ta đã hình thành và ngày càng phát triển
một nền nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân Việt Nam rất độc đáo,
đặc sắc và ưu việt. Chính sự độc đáo đó của nghệ thuật quân sự việt Nam đã góp
phần làm nên những chiến cơng hiển hách vang dội lịch sử của dân tộc, làm cho
quân thù luôn bị động, bất ngờ chuyển mạnh thành yếu và cuối cùng đi đến thất
bại nặng nề.
Trong các cuộc chiến tranh ấy, lịch sử dân tộc việt Nam lại một lần nữa ca
khúc ca khải hoàn khi đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, một đế quốc hùng
mạnh nhất trên thế giới. Điều đó đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng dân
2
tộc việt Nam, nhân dân việt Nam tuy nhỏ bé nhưng khơng dễ gì đánh bại, Việt
Nam có chiến tranh nhân dân, có truyền thống đánh giặc giữ nước lâu đời, có
tinh thần đồn kết, thống nhất trong dân tộc đã phát triển lên thành nghệ thuật
quân sự Việt Nam ưu việt và hiện đại không một thế lực nào có thể đánh thắng
nổi, nét độc đáo đặc sắc ấy thể hiện một cách đầy đủ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước dân và giữ nước đã hình thành cho
Việt Nam các giá trị truyền thống dân tộc phong phú,bền vững .Đó là ý thức chủ
quyền quốc gia dân tộc,ý chí tự lập tự cường yêu nước,kiên cường bất khuất tạo
thành một động lực mạnh mẽ của đất nước,là tinh thần tương thân tương ái,nhân
nghĩa cố kết cộng đồng dân tộc ,thủy chung,khoan dung độ lượng,là thông minh
sáng tạo,quý trọng hiền tài ,tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong
phú văn hóa dân tộc ......trong các giá trị tinh thần ấy thì chủ nghĩa yêu nước va
nghe thuật đánh giặc của ông cha ta vẫn là dịng chảy chính của tư tưởng văn
hóa truyền thống Việt Nam xuyên suốt trường kỳ lịch sử là động lực mạnh mẽ
cho sự trường tồn của dân tộc,chính nghệ thuật quân sự đã góp phần vận dụng
bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới .
Chính vì vậy mà em lựa chọn đề tài này để tìm hiểu một cách sâu sắc về
nét độc đáo đặc sắc của nghệ thuật “Nghệ Thuật Quân Sự Việt Nam”, đồng
thời bổ sung vào nguồn kiến thức giúp em làm phong phú về nội dung khi giảng
dạy mơn học GDQP.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
.Tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật quân sự
“Chiến tranh nhân dân Việt Nam”
.Tìm hiểu về những nét độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam
từ khi có Đảng lãnh đạo
.Vận dụng một số bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự vào sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới
.Nhận thức trách nhiệm của bản thân
3
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
. Sử dụng phương pháp lý luận thông qua việc nghiên cứu thu thập tài
liệu, các kênh thông tin quân đội.
. Sử dụng phương pháp hệ thống để thể hiện đầy đủ quá trình hình thành
và phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam.
. Liên hệ thực tiễn đời sống
V. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN
Sau khi nghiên cứu thành công, đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được
nét độc đáo sâu sắc của nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử đồng thời giúp chúng ta hiểu thêm về nghệ thuật quân sự
Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước, đặc biệt là nghệ thuật quân sự
Việt Nam từ khi có đảng lãnh đạo, vận dụng được một số bài học kinh nghiệm
về nghệ thuât quân sự vào sự nghiêp bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới làm
phong phú thêm chúng ta giảng dạy mơn Giáo Dục Quốc Phịng An Ninh.
4
NỘI DUNG
PHẦN I: NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA TỔ TIÊN
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta đánh sụp
thành trì mục ruỗng của triều đình nhà Nguyễn biến nước ta thành thuộc địa của
Pháp ,nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ. Bắt đầu từ muà xuân
năm 1930,dưới ngọn cờ độc lập ,tự do của Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã
đoàn kết thành một khối ,kiên cường chiến đấu và xây dựng đất nước, giành
được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đó là nhờ Đảng, nhân dân ta được
vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa do vị
trí địa lý thuận lợi,nước ta ln bị các thế lực ngoại xâm nhịm ngó . Sự xuất
hiện các thế lực thù địch và âm mưu thôn tính mở rộng lãnh thổ của chúng là
nguy cơ trực tiếp đe dọa vận mệnh đất nước ta. Do vậy yêu cầu chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ độc lập và cuộc sống đã sớm xuát hiện trong lịch sử dân tộc
ta. Người Nam muốn tồn tạ, bảo vệ cuộc sống và nền văn hóa của mình chỉ có
con đường duy nhất là đoàn kết đứng lên đánh giặc, giữ nước.
I. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH NGHỆ
THUẬT ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA TỔ TIÊN
1.1. Địa lý
Nước ta nằm ở cực đơng bán đảo Đơng
Dương, phía Đơng Nam lục địa Châu Á (toạ
độ địa lý: 16’00N, 18 00E), chiếm diện tích
khoảng 331. 688km2. Phía Đơng và Nam tiếp
giáp Thái Bình Dương trong vùng nhiệt đới
gió mùa, biên giới giáp với vịnh Thái Lan ở
phía Nam, Bắc Bộ và Biển Đơng ở phía Tây,
Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Căm pu Chia
ở phía Tây. Đất nước ta có hình chữ S, với
khảng cách từ Bắc đến Nam khảng 1650 km,
5
vị trí hẹp nhất chiều Đơng sang Tây là 50 km. Với đường bờ biển dài 3260 km
không kể các đảo, Việt Nam tuyên bố có 12 hải lý ranh giới lãnh thổ. Nước ta có
địa hình đa dạng bao gồm rừng núi Cao Nguyên, Trung Du chiếm 3/4 lãnh thổ,
nhiều sơng ngịi kênh rạch. Nước ta có 2 con sông lớn nhất là Sông Hồng và
Sông MêKông bắt nguồn từ Tây Bắc lục địa Châu Á chảy ra Biển Đông tạo ra
hệ thống giao thông, thuỷ chiến lược rộng khắp. Từ xa xưa nước ta đã có đường
“Thiên di” của nhiều tộc người tạo nên 2 trục đường chính nối dài từ Bắc vào
Nam.
Do Việt Nam là nước giàu tài nguyên, có điều kiện để phát triển nền sản
xuất nông nghiệp nhưng lại nằm ở vành đai thiên tai, lụt lội, khí hậu khơng điều
hồ. Mặt khác nước ta nằm ở một vị trí chiến lược hết sức quan trọng, cửa ngõ
đi vào lục địa Châu Á, đi ra Thái Bình Dương, điểm cắt nhau của đường thiên di
Bắc Nam và Đơng Tây. Vì thế nước ta ln bị các thiên tai địch hoạ, kẻ thù dịm
ngó tiến cơng xâm lược. Điều này đòi hỏi dân tộc ta phải biết đoàn kết, cảnh
giác, sát cánh bên nhau, cùng nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại sự tàn
phá của thiên nhiên, đánh bại mọi kẻ thù để tồn tại, xây dựng và phát triển đất
nước. Trong đánh giặc, tổ tiên ta đã biết vận dụng yếu tố “thiên thời, địa lợi”
sáng tạo ra nhiều cách đánh phù hợp hiệu quả như: Lợi dụng núi rừng, đèo dốc,
sông biển, đồng ruộng ao hồ, đầm lầy...để tiêu diệt kẻ địch, bảo vệ mình. Đúng
như Nguyễn Trãi đã viết “Quan hà bách nhị do thiên thiết” (quan hà hiểm yếu
hai người chống lại được trăm người).
1.2. Kinh tế
Nền kinh tế nước ta trước đây chủ yếu lấy sản xuất nông nghiệp, thủ cơng
nghiệp là chính theo mơ hình tự cung tự cấp, trình độ canh tác thấp, quy mơ nhỏ,
có tính chất phân tán. Theo một số nhà nghiên cứu thì nước ta nằm trong vùng
các nước thuộc nền văn minh nơng nghiệp. Trình độ phát triển kinh tế thấp ảnh
hưởng trực tiếp đến nghệ thuật đánh giặc của dân tộc. Vì vậy ngay từ thời kỳ
đầu dựng nước, dân tộc ta đã biết kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đất nước đi
đơi với chăm lo củng cố quốc phịng, sẵn sàng đánh giặc giữ nước theo tinh thần
6
tự lực tự cường, quán triệt tư tưởng “Quốc phú binh cường”. Trong xây dựng
đất nước tổ tiên ta đã đề ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế, củng cố
quốc phịng như “ngụ binh ư nơng” của nhà Lý, “Khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ bền gốc” của nhà Trần, “Ra sức làm đường, đắp đê, đào kênh rạch cải
tạo đồng ruộng, đẩy mạnh chăn nuôi sản xuất ra các loại cơng cụ lao động,
đóng thuyền bè để phát triển sản xuất, cơ động quân đội”. Trong đánh giặc nhân
dân ta đã biết cất giấu lương thực để ổn định đời sống, nuôi quân, sử dụng các
công cụ lao động sản xuất ra các loại vũ khí trang bị như mũi tên đồng, cung nỏ,
vót chơng...để đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Chính trị
Đất nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, khơng qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, phân vùng cát cứ không nhiều. Do phải cùng nhau chung lưng
đấu cật chống lại thiên tai, địch hoạ, các nhà nước phong kiến đã có những tư
tưởng tiến bộ thân dân, những chính sách hoà hợp dân tộc đúng đắn, nên các dân
tộc ít xảy ra mâu thuẫn, hận thù. Các dân tộc đều sống hồ thuận, gắn bó thuỷ
chung, u q hương đất nước. Đây là nhân tố, là cơ sở tạo nên sức mạnh đoàn
kết, thống nhất dân tộc, sự cố kết cộng đồng bền vững. Trong quá trình xây dựng
đất nước, chúng ta đã tổ chức ra nhà nước xác định chủ quyền lãnh thổ, tổ chức
ra quân đội, đề ra luật pháp để quản lý, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nhà
nước phong kiến Việt Nam đều có tư tưởng trọng dân, đưa ra nhiều chính sách
hợp với lịng dân, xác định vai trị, vị trí của quần chúng nhân dân, mối quan hệ
giữa dân với nước, nước với dân được ví như “khơng thể phân biệt được đâu là
cá đâu là nước” nên đã động viên và phát huy được sức mạnh tồn dân trong
cơng cuộc xây dựng đất nước, động viên cả nước đánh giặc gìn giữ non sơng.
Trong đánh giặc, qn và dân ta đã chiến đấu dũng cảm, kiên cường, bất khuất,
tinh thần quyết tâm cao, với ý chí quật cường sắt đá và nghị lực phi thường, luôn
sáng tạo ra nhiều cách đánh hay, đánh giặc mềm dẻo khơn khéo, mưu trí sáng
tạo. Dân tộc ta đã chiến đấu và đánh bại nhiều kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững độc lập cho dân tộc.
7
1.4. Văn hố - xã hội
Dân tộc ta có một nền văn hoá bản địa xuất hiện sớm, từ thời tiền sử với
kết cấu bền vững có nhà, có làng, có bản, có nhiều dân tộc cùng chung sống,
mỗi dân tộc, làng xã lại có một truyền thống phong tục tập quán riêng. Nhưng
trong quá trình lao động, đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì các dân
tộc đã vun đắp nên những truyền thống văn hóa chung như: Tinh thần u nước,
đồn kết, gắn bó, u thương đùm bọc che chở lẫn nhau, ý thức lao động cần cù
sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh dũng cảm, kiên cường, bất khuất...Đây
là nguồn gốc sức mạnh của dân tộc để chống lại thiên nhiên, đánh bại mọi thế
lực, mọi kẻ thù xâm lược. Truyền thống ấy được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua
các truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ”, “Sơn Tinh - Thuỷ Tinh”, “Thánh
Gióng”. Trong q trình xây dựng đất nước, dân tộc ta luôn coi trọng phát triển
nền văn hoá, giáo dục kiến thức hội hoạ, âm nhạc mang bản sắc truyền thống
dân tộc, đồng thời không ngừng tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn
hố thế gới làm cho nền văn hóa nước ta ngày càng phong phú, đa dạng và tràn
đầy sức sống.
Có thể khẳng định rằng: Các yếu tố địa lý kinh tế, chính trị, văn hố xã
hội có ảnh hưởng rất lớn đến nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên ta. Tất cả nững
yếu tố đó đã khơng ngừng được tìm tòi và phát triển, tạo nên sức mạnh to lớn
cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh bảo
vệ giống nòi, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.
II. Cỏc cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược
2.1. Những cuộc chiến tranh giữ nước đầu tiên
- Cuộc kháng chiến chống quân Tần: trước năm 214 trước cơng ngun,
dưới sự lónh đạo của vua Hùng và vua Thục Phán
- Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của Triệu Đà, từ năm 184 đến
179 trước công nguyên, do An Dương Vương lónh đạo
8
2.2. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống xâm lược giành và
giữ độc lập từ thế kỉ II trước công nguyên đến đầu thế kỉ X
- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào năm 40, đó giành được độc lập
và giữ vững được trong 3 năm.
- Năm 248, cuộc khởi nghĩa của bà Triệu Thị Trinh, nhưng bị thất bại
- Năm 542 là cuộc khởi nghĩa của Lý Bụn, giành thắng lợi, Lý Bụn lờn
ngụi vua với hiệu Lý Nam Đế và đặt tên nước là Vạn Xuân
- Ngoài ra cũn cú rất nhiều cỏc cuộc khởi nghĩa tiờu biểu khỏc như: Khởi
nghĩa của Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa Phùng Hưng (từ năm 766 đến
791), khởi nghĩa Ngô Quyền ….
2.3. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ X đến thế
kỷ XVIII
- Kháng chiến chống quân Tống lần thứ nhất của nhà Tiền Lê năm 981
- Cuộc khỏng chiến chống Tống lần 2 (1075- 1077) của nhà Lý
- Ba lần khỏng chiến chống quõn Nguyờn của nhà Trần ở thế kỉ XIII
- Cuộc khỏng chiến chống qũn Minh do Hồ Quớ Ly lónh đạo, cuối thế
kỉ XIV
- Khởi nghĩa Lam Sơn và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi,
Nguyễn Trói lónh đạo (1418 - 1427)
- Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 –
1785, kháng chiến chống quân xâm lược Món Thanh 1788 – 1789.
III. NỘI DUNG NGHỆ THUẬT ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA TỔ TIÊN
Từ thế kỉ X, các nhà nước phong kiến Việt Nam đã dành được độc lập tự
chủ, đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật đánh giặc Việt
Nam dưới chế độ phong kiến. Nghệ thuật đánh giặc trong thời kỳ này là sự kế
thừa và phát triển nghệ thuật đánh giặc của nhân dân Âu Lạc trước đây, cũng
9
như của các vị anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ...
Nội dung nghệ thuật đánh giặc giữ nước của tổ tiên ta được thể hiện ở
những mặt sau đây:
3.1. Tư tưởng, kế sách đánh giặc
Với tư tưởng tích cực chủ động tiến cơng và kế sách đánh giặc mềm dẻo,
khéo léo của dân tộc ta đã được các triều đại Lí, Trần, Hậu Lê...và Quang Trung
vận dụng một cách linh hoạt, sánh tạo, đưa quân và dân ta đánh bại nhiều kẻ thù
xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc và được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, Tư tưởng tích cực, chủ động tiến cơng
Lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cho
thấy: “Tư tưởng chiến lược tiến công là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đánh
thắng các đạo quân xâm lược đất nước ta”.
Quan điểm quân sự của dân tộc Việt Nam cho rằng: chỉ có tiến cơng và
tiến cơng một cách kiên quyết mới có thể đánh bại được kẻ thù để giải phóng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Và trên thực tế, các cuộc chiến tranh chống xâm lược
đã giành được thắng lợi, dân tộc Việt Nam đều rất coi trọng nghệ thuật tiến công
và thực hiện tiến công rất tài giỏi.
Cách tiến công của chúng ta là tích cực chuẩn bị, tiến cơng liên tục, tiến
cơng từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ. Đạt được mục tiêu tiến công là tiêu
diệt nhiều sinh lực địch, làm thay đổi so sánh lực lượng ta và địch trên chiến
trường, thay đổi cục diện chiến tranh và ta dành thắng lợi. Tư tưởng tích cực chủ
động tiến công là chủ động giành quyền đánh giặc trên các mặt trận của dân tộc,
kiên quyết tiến công bằng sức mạnh tổng hợp tồn dân, khơng thụ động phịng
ngự đó là yếu tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh và là nét đặc sắc trong
nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Với thế cơ động tiến cơng từ mọi
phía, hãm địch vào thế bị động lúng túng, nắm được thời cơ chuyển sang phản
công, tiến công và giành thắng lợi. Từ thời nhà Trần vào thế kỉ thứ XIII, trước
10
thế mạnh của qn Ngun - Mơng, tư tưởng tích cực chủ động tiến công được
thể hiện bằng việc không chấp nhận yêu sách của Chúa Nguyên, mà động viên
nhân dân cả nước chuẩn bị vũ khí kháng chiến, xây dựng quyết tâm đánh giặc
cao cho quân dân cả nước. Với ý chí “sát thát” thề giết giặc Nguyên - Mông.
Khi quân Nguyên Mông vào xâm lược nước ta, nhà Trần đã phát huy sức mạnh
toàn dân, thế trận làng nước, chặn giặc phía trước, đánh giặc phía sau, triệt phá
đường tiếp tế lương thực, cô lập địch, tập trung lực lượng, kết hợp chặt chẽ giữa
tiến công và rút lui, phản công chiến lược và kết quả cả 3 lần đều đánh bại cuộc
tiến công xâm lược của giặc Nguyên Mông.
Đầu thế kỉ XV trước sự xâm lăng của giặc Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi
đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với lòng yêu nước thương dân,
ý chí căm thù giặc của nghĩa quân Lam Sơn “Không đội trời chung với giặc, thề
không cùng sống chung với chúng” đã chuyển thành quyết tâm đánh giặc rất
kiên cường của quân sĩ dù phải “Nằm gai nếm mật vẫn bền gan chiến đấu”.
Thời kỳ đầu khởi nghĩa, nghĩa qn gặp mn vàn khó khăn “Sớm tối khơng
được hai bữa áo mặc, đơng hè chỉ được có một manh, qn lính chỉ độ vài
nghìn, khí giới thì thật tay không”. Nhiều lần bị kẻ địch vây hãm, Lê Lợi đã tổ
chức cuộc tiến công phá thế bao vây phong tỏa của kẻ thù. Đến năm 938 chỉ
bằng một trận Ngô Quyền đã đánh tan đội thuỷ quân xâm lược của Lưu Hoằng
Thao trên sông Bạch Đằng, kết thúc thời kỳ mất nước kéo dài hàng ngàn năm.
Thời nhà Lý, do có nhiều chính sách, cải cách tiến bộ để xây dựng đất
nước, củng cố quốc phòng như: “khuyến nông”, “ngụ binh ư nông” (gửi quân ở
dân)...đã tạo nên sức mạnh, giành quyền chủ động đánh bại mọi âm mưu thủ
đoạn mua chuộc lôi kéo, đe doạ, xâm lấn biên giới của kẻ thù. Trước nguy cơ bị
quân Tống xâm lược, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của nhà Lý là: “Giành quyền
chủ động đánh trước để phá thế mạnh của giặc”. Lý Thường Kiệt nói “Ngồi yên
chờ giặc không bằng đem quân ra chặn trước mũi nhọn của chúng”, bằng hành
động thiết thực của mình, đích thân vua Lý Thái Tông cầm quân xuống phương
Nam đánh giặc Chăm Pa, đã phá được thế liên kết gọng kìm của kẻ thù từ hai
11
đầu đất nước, tạo điều kiện tập trung lực lượng đánh giặc phương Bắc. Cuối
năm 1075 đầu năm 1076 Lý Thường Kiệt đã mở cuộc tiến công chủ động đánh
sang thành Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu phá thế chuẩn bị tiến cơng xâm
lược của qn Tống. Sau đó chủ động lui về xây dựng phịng tuyến Sơng Cầu
(sơng Như Nguyệt) thành thế “hoành trận” để đánh giặc. Tư tưởng chỉ đạo đánh
giặc của quân và dân nhà Lý là kết hợp chặt chẽ giữa phịng ngự và phản cơng,
xây dựng lực lượng phát triển mở rộng thế trận, chủ động tiến công địch, quy
mô ngày càng lớn cả bằng quân sự, chính trị, binh vận kết hợp đánh tiêu diệt
địch.
Khởi nghĩa Tây Sơn thế kỉ XVIII do ba anh em nhà Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã được nhân dân đồng lòng ủng hộ.
Lực lượng nghĩa quân ngày càng phát triển mạnh, vốn tư tưởng tích cực
chủ động tiến cơng nghĩa qn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Quảng Nam
đến Bình Thuận, đánh tan Chúa Nguyễn ở đằng trong, Chúa Trịnh ở đằng ngoài.
Nghe tin bọn Nguyễn Ánh, Lê Chiêu Thống “Cọng rắn cắn gà nhà”, “rước voi
về giày mộ tổ” mở đường cho gần 3 vạn quân Xiêm và gần 30 vạn quân Mãn
Thanh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ đã tổ chức cuộc hành binh thần tốc,
tập trung lực lượng mạnh, đánh bất ngờ, với sự hiệp đồng giữa quân thuỷ, kỵ
binh, pháo binh và voi chiến đã đánh tan quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút
tiêu diệt quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi - Đống Đa, giữ vững nền độc lập dân tộc,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Những lần đánh thắng quân xâm lược đó là những lần biểu hiện cho nghệ
thuật tiến công rất tài giỏi của cha ông ta, là nét đặc sắc về tư tưởng, chủ động
và kiên quyết tiến công, nghệ thuật tiến cơng cịn gắn liền với tinh thần tích cực
chủ động tiến công của một dân tộc nhỏ đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn
hơn mình rất nhiều lần. Ở phạm trù chiến lược, nghệ thuật quân sự Việt Nam
khơng có phịng ngự mà chỉ có tiến cơng, coi tiến cơng là tư tưởng chỉ đạo, cũng
có nghĩa coi phòng ngự là tạm thời, là sách lược, là biện pháp cần thiết để tạo
thế, tạo thời có lợi cho phản cơng. Nhưng khơng vì thế mà dân tộc ta coi nhẹ
12
phịng ngự vì thành luỹ và tổ chức phịng ngự cũng là biện pháp, phương tiện tạo
ra thế trận và thời cơ giống như các yếu tố khác để phát huy sức mạnh của mình,
đạt tới mục đích tiến cơng và phản công. Trong lịch sử dân tộc, ông cha ta cũng
có lần phịng ngự chiến lược, như Lý Thường Kiệt tổ chức phịng ngự ở Sơng
Cầu, chặn đứng đạo quân xâm lược nhà Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy.
Bằng cách đó đã chặn đứng các cuộc tiến cơng quyết liệt của địch để tạo thời cơ,
sau đó chuyển sang phản công và tiến công đánh bại quân giặc.
Trong nghệ thuật quân sự dân tộc Việt Nam, phòng ngự luôn gắn
liền với tiến công và phản công. Vừa chặn địch ở chính diện, vừa đánh vào
bên sườn phía sau, kết hợp phản công và tiến công ngay khi đang cịn
phịng ngự, tìm cách bộc lộ sơ hở để ta chuyển sang tiến cơng hoặc phản
cơng, đó là cách phịng ngự thế cơng.
Thứ hai, kế sách đánh giặc
Chiến tranh là một quá trình đấu tranh vũ trang rất quyết liệt giữa hai bên
tham chiến để dành ưu thế mà thắng. Sự đọ sức quyết liệt ấy đòi hỏi phải có lực
lượng, song nó cịn gắn liền với sự đấu tranh rất gay go quyết liệt về trí tuệ của
các bên tham chiến, bên nào thông minh hơn sẽ thắng. Càng đọ sức quyết liệt và
gay go thì càng biểu hiện quy luật chung của chiến tranh “Mạnh được yếu
thua”, mạnh yếu tuỳ thuộc vào số lượng, chất lượng mọi người tham chiến,
tranh bị vật chất kỹ thuật và nguồn lực bảo đảm các mặt cho cuộc chiến tranh
đó, và còn phụ thuộc rất lớn vào tài nghệ chỉ đạo, chỉ huy của người cầm quyền
cùng năng lực sáng tạo trong vận dụng nghệ thuật của người tham chiến trên
chiến trường. Vì vậy ai có sức mạnh hơn, thơng minh hơn và sáng tạo hơn thì
ngưới đó sẽ chiến thắng.
Do đó kế sách đánh giặc ở đây là mưu kế, là sách lược đánh giặc của dân
tộc. Kế sách phải mềm dẻo, khéo léo kết hợp chặt chẽ giữa tiến cơng và phịng
ngự, qn sự với binh vận, ngoại giao tạo ra thế mạnh của ta phá thế mạnh của
địch, trong đó tiến cơng qn sự ln giữ vai trị quyết định. Kế sách đó được
13
vận dụng linh hoạt sáng tạo cho từng cuộc chiến tranh. Vì vậy mưu kế và kế
sách giữ vai trị hết sức quan trọng trong nghệ thuật đánh giặc.
Mưu kế trong chiến tranh tạo ra thế trận và thời cơ có lợi mà đánh thắng
địch, đó là yếu tố thế và thời trong chiến tranh do mưu kế tạo nên. Trong lịch sử
đấu tranh của dân tộc, nhân dân ta luôn phải đương đầu với những kẻ thù lớn
mạnh hơn mình rất nhiều lần, chúng vừa đơng lại có tiềm lực kinh tế, quân sự to
lớn hơn. Nhân dân ta đánh giặc trong điều kiện nhỏ đánh lớn, ít địch nhiều, yếu
chống mạnh và thường bị quân thù bao vây về mọi phía.
Từ đó mà nghệ thuật đánh giặc của cha ơng ta kể từ xưa đến nay đều vì
thế mà nghĩ đến mưu kế, tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, dành chủ động, đánh bất
ngờ để thắng địch. Trên sơng Bạch Đằng, Ngơ Quyền đã dùng mưu trí cắm cọc
nhọn bịt sắt chơn xuống lịng sơng có qn mai phục tạo ra sức mạnh tổng hợp
làm thế mạnh của ta dụ quân địch vào thế trận, rồi đánh quặt lại chúng lúc thuỷ
triều rút nước xuống để tiêu diệt địch. Đây là nghệ thuật tạo, nắm thời cơ. Sự
thông minh, sáng tạo trong chiến tranh là biểu hiện trước hết ở mưu kế hay và
khéo léo. Mưu hay kế sâu không chỉ biểu hiện ở phạm trù chiến lược mà còn
biểu hiện rất rõ ở phạm trù chiến dịch, chiến đấu trong nghệ thuật quân sự của
dân tộc ta. Có mưu hay kế khéo thì các trận đánh lớn, nhỏ cũng như tác chiến
đều cho phép ta với lực lượng ít hơn, có thể đánh thắng được một đối thủ có lực
lượng đơng và vũ khí trang bị kỹ thuật mạnh hơn. Mưu hay kế khéo có thể buộc
địch đánh theo cách đánh của ta, biến địch từ tiến cơng thành bị tiến cơng, q
trình giao chiến buộc địch bộc lộ ra những sơ hở để ta chủ động và bất ngờ đánh
thắng.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống thế kỉ X, do chăm lo xây dựng
đất nước, củng cố quốc phòng, Triều Lý đã nắm được ý đồ chiến tranh của giặc
Tống. Chúng bí mật chuẩn bị lực lượng mạnh, triển khai sát gần biên giới nước
ta, để bất ngờ mở cuộc tiến công xâm lược đánh chiếm kinh đô Thăng Long của
nước Đại Việt. Tương kế tựu kế, nhà Lý đã sử dụng mưu kế “Tiên phát chế
nhân”, chủ động chế người, không để người chế mình. Đích thân Lý Thường
14
Kiệt đã thống lĩnh quân đội, mở cuộc tiến công đánh sang đất Tống, phá tan các
căn cứ xuất phát tiến công của giặc ở Ung - Khâm - Liêm Châu làm đảo lộn kế
hoạch xâm lược của nhà Tống, tạo điều kiện để cả nước chuẩn bị kháng chiến.
Trước thế giặc Nguyên - Mông đang mạnh, mưu lược đánh gặc của quân
dân thời Trần là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, nơi hiểm yếu của kẻ thù.
“Nguyên binh nhuệ khí đang hứng kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Quân
dân thời Trần vừa chặn đánh vừa rút lui từng bước, kết hợp với tổ chức cho toàn
dân lập kế“thanh dã” (làm vườn không nhà trống) với đánh phá nhỏ lẻ ở phía
trước, bên sườn phía sau. Quân dân ta đã đẩy quân Nguyên vào thế cùng lực kiệt
tiến thối lưỡng nan. Lúc đó ta mới tập trung lực lượng, chuyển sang phản công
kiên quyết, tiến công liên tục, lập nên chiến thắng vang dội ở Đông Bộ Đầu,
Hàm Tử, Chương Dương...ba lần đem quân xâm lược Đại Việt, đạo kị binh thiện
chiến Nguyên - Mông đã từng chinh phục khắp lục địa Âu- Á đã bị đánh bại.
Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thời kỳ đầu khởi nghĩa, so sánh lực
lượng ta yếu hơn địch, nhưng tổ tiên ta đã sử dụng nhiều kế sách đánh giặc rất
mềm dẻo và vô cùng khôn khéo. Nghĩa quân Lam Sơn thì dùng kế “Bên ngồi
giả thác hồ thân” để “bên trong lo rèn chiến cục”. Nghĩa quân lại dùng mưu:
“Hồ hỗn với Chúa Trịnh ở đằng ngồi, để tập trung lực lượng đối phó với
Chúa Nguyễn ở đằng trong”. Nhờ có nghệ thật khơn khéo đó mà ta đã tránh
được sự đánh phá rất quyết liệt của kẻ thù, đưa phong trào khởi nghĩa phát triển
mạnh mẽ trong cơng cuộc giải phóng dân tộc. Có mưu hay kế khéo không
những tiêu diệt được nhiều địch phá huỷ được nhiều phương tiện chiến tranh,
lấy được tranh bị vũ khí phương tiện của địch để dùng cho ta, làm cho ta càng
đánh càng mạnh, mà một vấn đề quan trọng hơn nữa là ta đã đánh bại được
những chủ trương biện pháp, thủ đoạn, tác chiến quan trọng của địch, làm cho
địch qn đơng mà khơng dám dùng, cịn lực lượng tinh nhuệ mà không dám sử
dụng để thi thố tài năng vào đúng nơi và đúng lúc.
Mưu đồ của địch từ đó mà đi tới chỗ dần dần suy sụp, càng đánh càng bị
thua đau đớn, thiệt hại của chúng càng lớn hơn, tác động tinh thần đối với chúng
15
còn nguy hại nhân lên gấp bội, dẫn đến ý chí tinh thần của chúng bị lung lay, âm
mưu xâm lược bị nứt rạn, mâu thuẫn tăng lên cuối cùng bị tan vỡ. Mưu kế trước
hết là lừa địch, tìm cách điều địch để phá thế địch mà tiêu diệt địch.
Trần Hưng Đạo nói “Đời xưa người giỏi dùng binh ý muốn như thế mà
khơng là như thế, nay thì ý muốn không như thế cho nên làm như thế, khiến họ
lại ngờ là ý muốn như thế. Đó là phép tinh vi để phá quân, bắt tướng. Cái làm
chỉ là cái bóng, làm mà khơng nghĩ thế chỉ là cái bóng trong cái bóng mà thơi như hai cái gương trao đổi nhau, thực là huyền ảo mà không huyền ảo”.
Trong chiến tranh, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều mưu kế để lừa
địch, đưa chúng vào “địa tử” để tiêu diệt, lập nên chiến trắng vang dội. Đúng
như nghĩa quân đã tổng kết: “Trải biến nhiều thì mưu kế sâu, tích việc xa thành
cơng kỳ”. Cịn Nguyễn Huệ thì lại dùng kế “Chịu nhịn để tránh sức mạnh ban
đầu của chúng”. Quân dân ta đã lừa địch vào thế chủ quan ít đề phịng, sau đó
mới bí mật cơ động tập trung lực lượng nhanh, đánh bất ngờ, đồng loạt tiến công
mạnh trên nhiều hướng bằng một trận tuyến chiến lược, quân dân ta đã dành
được thắng lợi kết thúc chiến tranh.
Ngoài ra mặt trận ngoại giao cũng gĩư vai trò hết sức to lớn. Thời Trần
đánh thắng giặc Nguyên - Mông đã mở mặt trận tiến công ngoại giao, buộc chúa
Nguyên phải công nhận xâm phạm quốc cảnh “Đại việt” để ta thả 5 vạn tù binh
về nước.
Nghĩa quân Lam Sơn, Tây Sơn dùng kế sách “hồ hỗn” tránh sức mạnh
ban đầu của giặc để xây dựng lực lượng phát triển thế trận, sau đó mới mở các
cuộc tiến công ngày càng lớn. Trong đánh giặc, nghĩa quân Lam Sơn đã kết hợp
tiêu diệt đạo quân viện binh nhà Minh ở Chi Lăng - Xương Giang với tổ chức
“hội thề Đông Quan” buộc Vương Thông phải công nhận thất bại cam kết rút
quân về nước. Nghĩ kế lâu dài, Lê Lợi - Nguyễn Trãi còn cấp cho hàng binh giặc
cả lương ăn cùng phương tiện đi đường để nhà Minh từ bỏ ý đồ xâm lược. Nghĩa
quân Tây Sơn sau khi đánh tan gần 30 vạn quân Thanh ở Bắc Hà, Quang Trung
16
đã mở ngay mặt trận ngoại giao, thiết lập mối bang giao với nhà Thanh để hạn
chế chiến tranh xây dựng đất nước.
Từ đó cho thấy tư tưởng chỉ đạo đánh giặc của nhân dân ta phải dành, giữ
vững quyền chủ động, liên tục tiến công địch. Nhưng tuỳ theo điều kiện của
từng cuộc chiến tranh, so sánh lực lượng ta và địch, để tìm ra cách đánh thích
hợp tiêu diệt chúng. Kế sách đánh giặc của nhân dân ta rất mềm dẻo, khôn khéo,
kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao...tạo ra thế
mạnh của ta, phá thế mạnh của địch, đánh bại chúng, trong đó tiến cơng qn sự
ln giữ vai trị quyết định.
3.2. Đoàn kết toàn dân đánh giặc.
Đây là nghệ thuật về tổ chức, sử dụng lực lượng, động viên tinh thần, phát
huy sức mạnh, cách đánh giặc theo sở trường của từng người, từng lực lượng,
mỗi bản làng, thơn xóm...trên cả nước tạo thành sức mạnh toàn dân là binh cả
nước đánh giặc.
Toàn dân là binh, cả nước đánh giặc là nghệ thuật đánh giặc truyền thống
độc đáo, sáng tạo của dân tộc ta, là chiến thuật chiến tranh nhân dân tồn dân
đánh giặc, nó được thể hiện trong cả khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc.
Thắng lợi của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược trong lịch sử đều do biết
tiến hành chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân là binh, cả nước
đánh giặc mà nội dung thực chất là nghệ thuật quân sự dựa vào dân, lấy dân làm
gốc để tiến hành chiến tranh. Nó mang tính truyền thống của nghệ thuật qn sự
Việt Nam, nó đã trở thành nguyên lý sâu sắc nhất để tiến hành giành thắng lợi
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng suốt hàng ngàn năm lịch sử.
- Cơ sở phát động toàn dân đánh giặc.
17
Các cuộc chiến tranh mà nhân dân ta tiến hành đều là chiến tranh yêu
nước chính nghĩa để bảo vệ Tổ quốc
hoặc giải phóng dân tộc, đây là nguồn
sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy
toàn đân hăng hái tham gia, nhà nhà
hưởng ứng, người người đứng lên
đánh giặc cứu nước. Dân tộc ta có
truyền thống đồn kết, u nước,
thương nịi, ý chí đấu tranh kiên
cường bất khuất, tinh thần quyết đánh quyết thắng quân xâm lược để bảo vệ độc
lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.
Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết đứng lên chống giặc ngoại xâm, biết dựa
vào sức lực của chính mình, tạo ra sức mạnh đồn kết và kiên trì đấu tranh lâu
dài, cuối cùng dành được thắng lợi, mở đầu cho trang sử chống ngoại xâm rất vẻ
vang của dân tộc. Lực lượng chủ yếu ấy là những người dân của các bộ tộc, bộ
lạc được huy động ra đi làm dân binh để chiến đấu. Với trang bị vũ khí lúc ấy
vừa bằng tre, gỗ, vừa bằng sắt, đồng, đá. Tre, gỗ, đá dùng làm gậy gộc, mũi tên,
lao và đá ném; sắt đồng làm ra giáo, mác, rìu, lao...
Những trang bị ấy thường ngày là những phương tiện lao động sản xuất,
săn bắn thú rừng để sinh sống, đồng thời cũng là vũ khí chiến đấu chống giặc
khi cần thiết. Sức mạnh đó là sức mạnh dựa vào sự đoàn kết của các bộ tộc
chống ngoại xâm để bảo vệ dân tộc, bảo vệ giống nòi.
Các nhà nước phong kiến Đại Việt đã có tư tưởng “trọng dân”, “an dân”,
được thể chế thành tư tưởng, phương châm chỉ đạo, chính sách xây dựng đất
nước củng cố quốc phịng. Thời trần có tư tưởng “chúng chí thành thành” (ý chí
dân tộc mạnh hơn mọi thành luỹ) Lê Lợi - Nguyễn Trãi viết “Phúc chu thuỷ, tín
dân do linh” (nâng thuyền lật thuyền mới biết sức dân). với phương châm xây
dựng đất nước củng cố quốc phòng “dân giàu nước mạnh, quốc phú binh
cường”. Nhà nước có nhiều chính sách cải cách tiến bộ để xây dựng quân đội,
18
tăng cường sức mạnh quốc phòng như: “ngụ binh ư nơng” (gửi binh ở dân) qn
lính thay phiên nhau về sản xuất, thực hiện “tĩnh vi nông, động vi binh” phương
hướng xây dựng quân đội “binh lính cốt tinh nhuệ, không cốt nhiều”, tổ chức
lực lượng vũ trang nhiều thứ quân để thực hiện “trăm họ là binh, toàn dân đánh
giặc”. Do có bước phát triển tiến bộ về tư tưởng, tổ chức xây dựng đất nước,
củng cố quốc phòng, các nhà nước phong kiến Đại Việt đã gắn chặt dân với
nước, nước với dân, tạo cơ sở vững chắc cho nghệ thuật đánh giặc “toàn dân vi
binh, cử quốc nghênh địch” thời chiến đã có bước phát triển quan trọng, ảnh
hưởng lớn đến quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, dân tộc Việt Nam với khí phách anh hùng ngày
càng nảy nở và phát triển, đã kiên quyết liên tục đứng lên chống ngoại xâm, sẵn
sàng chịu đựng mọi gian khổ, bảo vệ quyền sống của mình trên mảnh đất quê
hương.
3.2.1.Nội dung nghệ thuật phát huy sức mạnh toàn dân là binh, cả
nước đánh giặc.
Thứ nhất, tổ chức động viên lực lượng
Là tổ chức động viên toàn dân, mọi nhà, mọi người đều đánh giặc, “trăm
họ là binh, cả nước đánh giặc” tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Với
truyền thống yêu nước nồng nàn, tự lập tự cường, anh dũng bất khuất gắn liền với
ngọn cờ đại nghĩa chiến đấu vì độc lập, thống nhất đất nước “nhân dân ta đã sớm
có ý thức gắn quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân, gắn
bó nước với nhà, làng với nước trong mối quan hệ keo sơn bền chặt”, “nước mất
nhà tan”, câu nói đó đã có từ lâu đời cho nên mỗi khi có giặc xâm lược thì mọi
người đều đồng lòng đứng dậy chống giặc để giữ nước, giữ nhà. “Cả nước chung
sức đánh giặc đó là truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam”.
19
Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, các nhà nước phong kiến Đại
Việt đã tổ chức sử dụng lực lượng vũ trang cùng nhân dân biên giới, đánh bại
mọi âm mưu thủ đoạn mua chuộc
lơi kéo, kích động...của kẻ thù, giữ
vững biên cương của Tổ quốc, các
địa phương cịn tích cực tổ chức
lực lượng, động viên nhân dân chủ
động xây đồn luỹ, chuẩn bị vũ khí
sẵn sàng đánh giặc.
Thời nhà Lý đã động viên
hàng trăm vạn dân tham gia lập
nên thế “hồnh trận” để đánh giặc
ở sơng Cầu (sơng Như Nguyệt). Trong tác chiến qn đội triều đình cùng dân
binh do Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh giặc ở phía sau làm cho tướng giặc là
Quách Quỳ sợ hãi ra lệnh án binh bất động. Khi quân ta chuyển sang phản cơng,
qn triều đình đánh giặc ở phía trước, dân binh đánh ở phía sau làm cho quân
Tống hoảng loạn. Do cũng chuẩn bị tốt lực lượng, thế trận nên quân dân địa
phương vùng Lạng Sơn, Cao Bằng cùng quân đội triều đình sang đất Tống để
phá thế tiến công chuẩn bị trước của giặc. Sự tham gia đơng đảo của quần chúng
nhân dân với khí thế tiến công ngày càng mạnh đã trở thành nhân tố rất quan
trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và bảo tồn dân tộc.
Thời nhà Trần tổ chức hội nghị “Diên Hồng”, cùng nhân dân bàn cách
đánh giặc sau hội nghị cả nước dấy lên phong trào đánh giặc lập công. Tiêu biểu
là đội dân binh người Tày ở Lạng Sơn do Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chỉ
huy cùng một bộ phận quân triều đình liên tục chặn giặc trong nhiều ngày đêm.
Đội quân gia nô của Nguyễn Địa đã chém chết tên phản bội Trần Kiệm ngay
trên mình ngựa trước cửa Chi Lăng. Lực lượng dân binh ở Tây Bắc do Hà Bổng,
Hà Đặc, Hà Chương đã chặn đánh kiên quyết liên tục quân Nguyễn ở Thu Vạt,
Bạch Hạc...khi tiến công địch ở Nam Thăng Long, lực lượng dân binh, quân các
20
lộ phủ của Trần Thống, Nguyễn Khả Lạp đã phối hợp với qn triều đình đánh
giặc lập nên chiến cơng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương.
Chiến thắng Vạn Kiếp có cơng to lớn của Hồi Văn Hầu, Trần Quốc
Toản - người đã tổ chức chặn đánh quyết liệt ở sông Như Nguyệt buộc quân
Nguyên phải đi vào đúng thế trận của ta. Trận quyết chiến trên sông Bạch
Đằng được nhân dân đồng lòng, quyết tâm ra sức ủng hộ Trần Quốc Toản, đã
giàn thế trận hiểm, kết hợp với tài nghi binh lừa địch của dân binh địa
phương, ta đã bắt gọn quân giặc, bắt sống nhiều tướng giặc như Ơ Mã Nhi,
Phàn Tiếp, Trích Lê Cơ. Ba lần xâm lược Đại Việt, cả 3 lần đều thất bại dưới
quân và dân ta, làm cho kẻ thù khiếp sợ không dám xâm phạm. Thắng lợi của
dân tộc ta đã góp phần làm suy yếu thế lực của đế quốc Mông Cổ, làm thất
bại âm mưu biến nước ta thành bàn đạp để mở rộng xâm lược xuống các nước
Đông Nam Á. Đó là những cống hiến quan trọng có ý nghĩa lớn lao của dân
tộc ta đối với cuộc chiến tranh của các dân tộc Châu Á chống xâm lược và
thống trị của đế quốc Nguyên - Mông hồi thế kỉ XIII.
Khởi nghĩa Lam Sơn với mục tiêu “kéo cùng dân ra khỏi lầm than”, quân
khởi nghĩa được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ phát triển lên thành cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc. Khi đánh giặc, quân khởi nghĩa đi đến đâu cũng “chật đất
người theo”, nghĩa quân đánh giặc ở đâu nhân dân ở đó nổi dậy hưởng ứng.
Quân Lam Sơn tiến quân vào Nghệ An, Tân Bình, Thanh Hố người trẻ gia nhập
nghĩa qn, người già cũng tham gia đánh giặc, chỉ riêng Trà Lân đã có hơn
5000 thanh niên được tuyển vào quân đội. Khi tiến quân ra Bắc Bộ, cả đồng
bằng vùng lên đánh giặc, chiến thắng Tốt Động, Chúc động, Đông Quan, Chi
Lăng đều có dân binh và nhân dân trong vùng giúp sức mà sử sách còn ghi
“Hào kiệt các lộ ở kinh đô và nhân dân các lộ, phủ, huyện tấp nập kéo đến cửa
quân hết sức liều chết đánh thắng giặc ở các xứ”. Sau mười năm chiến đấu bền
bỉ, gian khổ và ngoan cường, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hồn thành vẻ vang
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc chiến thật là oanh liệt, toàn
diện và triệt để đã đập tan hồn tồn ý chí xâm lược nước ta của nhà Minh, đất
21
nước được giải phóng và nền độc lập dân tộc nhờ đó mà được bảo đảm gần 4 thế
kỉ (đầu thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XVIII) không bị nạn ngoại xâm, phong kiến
phương Bắc đe doạ.
Dưới chế độ hà khắc và ngột ngạt của họ Nguyễn, nhân dân ta từ lâu đã
tích chứa nhiều bất mãn ốn giận và căm thù. Phong trào đấu tranh của nhân dân
đàng trong có nổ ra chậm hơn đàng ngồi nhưng mỗi khi bùng nổ thì lại rất
mạnh mẽ và kiên quyết. Từ đó cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, nghĩa qn
tiến cơng vào đàng trong được nhân dân hết lịng ủng hộ đánh tan chúa Nguyễn,
tiêu diệt quân Xiêm tiến qn ra đàng ngồi tiêu diệt ln cả Chúa Trịnh, thống
nhất đất nước. Trước họa xân lược của giặc Thanh, mùa xuân năm 1789 Quang
Trung cấp tốc mở cuộc hành binh ra Bắc, chỉ dừng lại Nghệ An có 10 ngày mà
đã có hàng vạn thanh niên tình nguyện gia nhập nghĩa quân. Trong các trận
quyết chiến ở Ngọc Hồi, Khương Thượng, Thăng Long có sự giúp đỡ phối hợp
của nhân dân, nghĩa quân đã có “luỹ mộc” để cản phá hoả lực của Hứa Tế Hanh
lập thành “trận rồng lửa” (hoả long trận) quân vây kín bốn mặt thành, đánh tan
hàng vạn quân của Sầm Nghi Đống, Tổng đốc Tơn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa
khơng kịp đóng n, người không kịp mặc áo giáp vượt cầu phao nhằm hướng
Bắc mà chạy.
Trong các cuộc chiến tranh này, ngoài lực lượng quân sự thì dân chúng
cũng tham gia trực tiếp chống giặc bằng nhiều hình thức rất phong phú, ra sức
hỗ trợ về mọi mặt để đánh thắng kẻ thù. Đối với đất nước ta, trước nạn xâm lược
thường xuyên đe dọa của kẻ thù, các vị lãnh tụ luôn biết dựa vào dân, coi việc
chăm lo súc mạnh của nhân dân làm nền tảng cho việc giữ nước và giải phóng
đất nước. Hình thức chiến tranh nhân dân sớm xuất hiện, không những kế thừa
được phong trào đấu tranh có tính chất quần chúng rộng rãi với truyền thống anh
hùng bất khuất đã có từ xa xưa, mà cịn phát triển lên một trình độ mới rất cao,
lập nên những kỳ tích vang dội với những chiến cơng hiển hách. Hình thức tổ
chức lực lượng quân sự lúc này bao gồm ba thứ quân (quân cấm của triều đình,
quân các lộ các địa phương và dân binh) ngày càng hoàn thiện, gồm bộ binh,
22
thuỷ quân và các loại hình binh chủng khác. Tổ tiên ta đánh thắng địch không
chỉ ở miền rừng núi, trung du mà ở cả đồng bằng, trên sông nước và ngoài cửa
biển. Đánh thắng giặc Tống, Nguyên, Minh, Xiêm, Thanh đã chứng minh sức
mạnh toàn dân trong nghệ thuật đánh giặc “toàn dân là binh cả nước đánh
giặc”, điều đó được nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn khẳng định “Sở dĩ
nước ta thắng được giặc ngoại xâm qua nhiều thời đại là do ta biết đồng lòng
đánh giặc, cả nước chung sức…”, ngược lại thời Hồ dựng nước và giữ nước
theo tư tưởng “ích kỉ phi gia”, “để trong nước lịng dân ốn hận”. vì thế dù cho
Hồ Quý Ly có xây thành cao, đắp được luỹ dày thì khi chiến tranh xảy ra mà
“dân khơng theo” cũng dẫn đến thất bại thảm hại, làm cho đất nước bị đô hộ kéo
dài hàng ngàn năm.
Thứ hai, Với sức mạnh“toàn dân là binh, cả nước đánh giặc” đã hình thành
nên thế trận đánh giặc độc đáo, sáng tạo ra nhiều cách đánh đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình đánh giặc, quân và dân nước Đại Việt đã khéo léo vận
dụng kết hợp chặt chẽ giữa mưu, kế, thế, thời, lực để tạo ra sức mạnh của ta đánh
phá, làm suy yếu hạn chế thế mạnh của địch trên phạm vi chiến lược và chiến
đấu tiêu diệt chúng. Thế trận của ta là kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương
(thế của các lộ, các vương hầu xưa kia, thế bộ đội địa phương và quân du kích)
với thế trận chiến tranh bằng hoạt động tác chiến của quân chủ lực (du quân của
triều đình) là thế trận chiến lược của các lực lượng vũ trang kết hợp với các lực
lượng chính trị triển khai trên các địa bàn xung yếu và kết hợp chặt chẽ với nhau
hãm địch vào thế khơng có lợi.
Thời nhà Lý do tạo được thế bất ngờ chủ động đánh trước phá được thành
lũy của giặc ở hai đầu đất nước đã làm đảo lộn kế hoạch xâm lược của kẻ thù.
Trong trận tiến công thành Ung Châu, tướng giặc Tô Giám thúc quân phòng thủ
chống trả quyết liệt. Quân ta đã sử dụng cách đánh vừa vây hãm vừa công thành,
trong đột phá ta sử dụng hoả công, thang mây (vân thê) để nhập thành, đào hầm
qua chân thành, dùng bao đất xếp thành bậc cao đưa quân vào thành đánh phá.
Khi lui về phòng thủ đất nước, quân dân tổ chức thành hai tuyến chặn giặc.
23
Tuyến trước do quân các lộ, phủ cùng dân binh địa phương bố trí lực lượng dọc
các tuyến đường bộ và đường sông mà địch tiến công, dựa vào thế hiểm trở của
núi rừng, sông suối, đèo ải để chặn đánh giặc. Tuyến sau dựa vào thế núi, thế
sông ta xây dựng chiến luỹ dài hàng trăm dặm, cao mấy thước; ở Nam sơng Như
Nguyệt, phía trước đóng cọc tre dày đặc với nhiều hầm chơng. Lực lượng bố trí
có quân bộ, quân thủy cùng với dân binh tại chỗ có cả thế phịng và thế cơng tạo
nên thế trận vững chắc, có cả chính diện, chiều sâu và trọng điểm phát huy sức
mạnh, sở trường của các lực lượng, chặn giặc ở phía trước, tiến đánh giặc ở phía
sau, hãm địch vào thế bất lợi để ta chuyển sang phản công. Trong tiến công,
quân ta lại dùng kế “dương Đơng kích Tây”, tổ chức những trận tập kích bất ngờ
làm cho quân Tống không kịp chống đỡ tổn thất rất nhiều. Kết hợp với địn tiến
cơng ngoại giao, dân tộc ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của giặc
Tống. Thắng lợi huy hoàng của cuộc kháng chiến trước hết là kết quả của một
bước phát triển vượt bậc của dân tộc ta mọi mặt về tinh thần, vật chất và tổ chức.
Sau hơn một thế kỉ giành được độc lập (thế kỉ X), do sự lớn mạnh đó quân dân
thời Lý đã tiến hành cuộc kháng chiến với tinh thần chủ động, tư thế đạp lên đầu
kẻ thù, khí phách hiên ngang và ý thức sâu sắc về quyền bất khả xâm phạm của
dân tộc, làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
Thời Trần, quân dân ta đã lợi dụng địa hình, địa vật phát huy sức mạnh
quân thuỷ bộ, quân các lộ, phủ cùng nhiều lực lượng dân binh tại chỗ chặn đánh
địch từng bước. Quân ta còn chủ động rút lui chiến lược phối hợp đánh phá
mạnh mẽ ở phía trước bên sườn, phía sau bằng đòn quân sự, binh vận triệt phá
quân lương để tiêu hao hạn chế thế mạnh ban đầu của giặc. Qn dân thời Trần
cịn lập kế nghi binh, bí mật cơ động lực lượng làm cho kị binh Nguyên - Mông
càng truy đuổi càng không đánh được đối phương mà lực lượng ngày càng tiêu
hao mệt mỏi. Quân dân ta đánh tan được ý đồ đánh lớn, tiến công hợp vây từ
nhiều hướng mũi của kẻ thù, bảo vệ được lực lượng, lập được thế trận nhân dân.
thời Trần đã hãm được giặc Nguyên vào thế “Bị treo lơ lửng” làm cho chúng
sức cùng lực kiệt (xưa kia quân kị binh Mơng Cổ rất cơ động, giỏi đánh ngồi
24
thành luỹ, trên đồng nội đã phát huy được cao độ sở trường của chúng trên nhiều
chiến trường từ Á sang Âu”. Nhưng trước những cách đánh sáng tạo, mưu mẹo
của quân ta, sự gắn bó giữa quân chủ lực triều đình với qn địa phương trong
thế trận liên hồn, quân Mông Cổ đã không phát huy được cách đánh sở trường
như chúng muốn; Nguyên Sử đã thừa nhận trên đất nước Đại Việt “Quân và
ngựa Nguyên - Mông đã không thể thi thố được tài năng nào”. Tướng giặc là
Thốt Hoan phải lệnh cho Toa Đơ đóng qn lại ở Trường Yên để kiếm lương
thực. Lập được thế trận, tạo được thời cơ; quân dân thời Trần chuyển sang phản
công trên cả 3 hướng chiến lược, tiêu diệt cả hai tập đồn qn của Thốt Hoan
và Toa Đơ. Để tiêu diệt cụm quân Thoát Hoan ở Thăng Long nhà Trần đã phối
hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính binh của Trần Quang Khải với lực lượng kị
binh của Trần Quốc Tuấn cùng lực lượng dân binh tại chỗ tạo nên sức mạnh
đánh tan quân giặc ở A Lỗ, Giám Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương giải
phóng Thăng Long, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn chạy về nước. Đó
thực sự là cách đánh “Phàm chiến đấu lấy đạo chính để hợp, lấy đạo kỳ để
thắng, chính kỳ biến hố khơn cùng vậy”. Trong vịng 30 năm (1258 - 1288) dân
tộc ta đã 3 lần đương đầu với những đạo quân xâm lược khét tiếng của đế quốc
Mông Cổ đang chiến thắng khắp trên thế giới. Mỗi lần xâm lược, quy mô và
mức độ của chiến tranh lực càng lớn, ác liệt hơn, nhưng mỗi lần kháng chiến,
dân tộc ta lại càng kiên cường, sáng tạo, chiến thắng lại càng vẻ vang hơn.
Khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa quân đã phát huy thế mạnh của chiến tranh
giải phóng dân tộc, sức mạnh của toàn dân, vận dụng cách đánh vây hãm thành,
đánh quân cứu viện. Với tư tưởng “Giặc đơng ta ít, lấy ít đánh đơng, chỉ ở nơi
đất hiểm mới được công” ta thực hiện “nhử người đến chứ không để người nhử
đến” trong trận Chúc Động, Tốt Động.
Sau chiến thắng Ninh Kiều, nghĩa quân Lam Sơn được tăng cường cả về
số lượng cũng như chất lượng và trang bị vũ khí. Trên cơ sở đó nghĩa qn tiếp
tục vây hãm thành Đông Quan và các thành luỹ nằm sâu bên trong hậu phương
của ta (như thành Nghệ An, Diễn Châu, Tây Đơ, Cổ Lộng, Chí Linh...) cịn
25