Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế tục thành công cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng chiến tranh cách
mạng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
là sản phẩm đích thực về học thuyết của Đảng cộng sản Việt
Nam và Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, học thuyết chiến
tranh toàn dân, toàn diện trên đất nớc ta nhằm đập tan bạo
lực phản cách mạng cua chđ nghÜa ®Õ qc thĨ hiƯn ngun
väng tha thiÕt về một nền hoà bình, độc lập tự do của cả
dân tộc.
Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ xâm lợc đà khẳng định sự ra đời tính cách mạng và
tính khoa học cuả một phơng thức tiến hành chiến tranh
nhân dân, một nền nghệ thuật quân sự của chiến tranh toàn
dân và chiến tranh toàn diện ở nớc ta. Bằng sự lÃnh đạo tài
tình của Đảng đà lÃnh đạo quân và dân ta vận dụng những
hình thức va phơng thức đấu tranh cách mạng một cách hợp lí;
nâng cao phơng thức đó lên một trình ®é nghƯ tht míi phï
hỵp víi quy lt cđa chiÕn tranh cách mạng. Chính nền khoa học
và nghệ thuật quân sự cách mạng tuy còn non trẻ nhng dới sự
lÃnh đạo dẫn dắt của Đảng ta vẫn luôn luôn tràn đầy một sức
sống mÃnh liệt, cũng chính sức mạnh tiềm tàng ấy đà khơi dậy
sự đồng lòng của quân và dân ta, làm phá sản học thuyết
chiến tranh xâm lợc, các sản phẩm t duy quân sự tinh tuý nhất
của nớc Pháp và đế quốc Mĩ trong so sánh lực lợng rất không
cân sức ban đầu.
1
Với ý nghĩa đó, tôi xin phép đợc chọn vấn đề: Nghệ
thuật quân sự
những nét đặc sắc từ khi có
Đảng lÃnh đạo làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề
tài
2.1 mục đích
Trên cơ sở làm rõ vấn đề nghệ thuật quân sự Việt Nam
chỉ ra sự tài tinh trong phơng pháp lÃnh đạo cách mạng của
Đảng ta trong khang chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ. Những nét dặc sắc trong nghệ thuật quân sự từ khi có
Đảng lÃnh đạo
2.2 Nhiệm vụ
Để đạt đợc mục đích trên đề tài phải thực hiện đợc
những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm nghệ thuật quân sự
- Làm rõ cơ sỡ lí luận của nghệ thuật Viêt Nam
- Chỉ rõ sự tài tình trong phơng pháp lÃnh đạo cách mạng
của Đảng.
- Chỉ rõ những nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự
từ khi co Đảng lÃnh đạo
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Vấn đề nghiên cứu: nghệ thuật quân sự _ những nét
dặc sắc từ khi có Đảng lÃnh đạo.
- Đối tợng nghiên cứu: Sự lÃnh đạo của Đảng
- thời gian: trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mĩ
4. Cơ sở lí luận và phơng pháp nghiên cứu
của đề tµi
2
- Cơ sở lí luận: Đề tàiđợc thực hiện trên cơ sở các
nguyên lí của chủ nghĩa Mác_lênin, t tởng Hồ Chí Minh và
những quan điển của Đảng cộng sản Viêt Nam.
- Phơng pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phơng
pháp lịch sử va lôgic, phân tich và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, cụ thể hoá và trừa tợng hoá, đồng thời sử dụng phơng
pháp luận khoa học dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, duy
vật biện chứng va những quan điểm lịch sử cụ thể.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mỡ đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội
dung của đề tài đợc chia làm hai chơng:
Chơng I: Cơ sở lí luận nghệ thuạt quân sự Viêt Nam
Chơng II: nghệ thuật quân s Việt Nam_ nhng nét đặc
sắc từ khi có Đảng lÃnh đạo
Nội Dung
Chơng I: Cơ sở lí luận của nghệ thuật quân
sự việt nam
1.1 khái niệm nghệ thuật quân sự viêt nam
Nghệ thuật quân sự lí luận, thực tiễn chuẩn bị và thực
hành chiến tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang gồm chiến lợc
quấn sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật
_ chiến lơc quân sự là lí luận, thực tiễn chuẩn bị cho
đất nớc, lực lợng vũ trang nhằm ngăn chặn và sẵn sàng tiến
hành chiến tranh, lập kế hoạch chuẩn bi và tiến hành chiên
tranh. Chiến lợc quân sự la bộ phận hợp thành và là bộ phận
quan trọng nhất, có tác dụng chủ đạo trong nghệ thuât quân
sự.
3
_ chiến dịch là tổng thể các trận đấu( trong đó có
những trận đánh then chốt) có tác động liên quan chặt chẽ,
diễn ra trong một không gian, thời gian nhất định, dới quyền
chỉ huy thống nhất của một bộ phận để nhằm hoàn thành
những nhiệm vụ do chiến lợc vạch ra.
_ chiến thuật là lí luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực
hành trận chiến đấu của phân đội, binh đội, binh đoàn lực lợng vũ trang, bộ phận hợp thành của nghệ thuật quân sự Việt
Nam.
_ ba bộ phạn của nghệ thuật quân sự thống nhất , liên
quan chặt chẽ, tác động bổ sung cho nhau. Trong đó chiến lợc
quân sự đóng vai trò quyết định chủ đạo, chi phối nghệ
thuật chiến dịch và chiến thuật trở thành phơng tiện thực
hiện những nhiệm vụ do chiến lợc vạch ra nhng có tac động trở
lại đối với chiến lợc quân sự.
1.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật quân sự
1.2.1. Lí luận chủ nghĩa Mác_lênin về t tởng
quân sự
chủ nghĩa Mác_lênin với hệ thống luận điểm nguồn gốc,
bản chất xà hội của chiến tranh: về phân loại chién tranh và
quan đội dụa theo bản chất chính trị_xà hội của nó, về vai trò
của chiến tranh trong lịch sử loài ngời, các quy luật phát sinh,
quá trình và kết cục của chiến tranh; bản chất xà hội và chức
năng của quân đội, công cụ chủ yếu để tiến hành chiến
4
tranh.lần đầu tiên trong lịch sử của khoa học xà hội, chủ nghĩa
Mác_Lênin đà cung cấp cho loài ngời cơ sở lí luận khoa học đẻ
nhận thúc dúng nguồn gốc, bản chất của chiến tranh và của
quân đội là sản phảm của xà hội có giai cấp đối kháng, bản
chất khinh tÕ_x· héi cđa giai cÊp ®· sư dơng nã.
Häc thuyết do Mác va Ănghen sáng lập, dơc lênin phát
triẻn và làm phong phú thêm trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
và cách mạng vô sản trở thành nền tảng thế giới quan và phơng
phap luận dể các đảng cộng sản và công nhân Dựa vào đó
vạch ra hoc thuyết quân sự,
xây dựng nền nghệ thuật quân sự tiên tiến , xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, đấu tranh giành chính
quyền và bảo vệ chủ nghĩa xà hội. Học thuyết còn là vũ khí
của các lực lợng cách mạng và tiến bộ trong đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc và giải phóng dan tộc trong thời đại chúng
ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam đà vận
dụng học thuyết này kết hợp hài hoà với truyền thống quân sự
viêt nam va tinh hoa quân sự của thế giói vào thực tiễn Việt
Nam, đề ra những luận điểm cơ bản về khởi nghĩa vũ trang
và chiến tranh cách mạng ở việt nam trong thời đại mới. Ngày
nay, trong sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xà hội
của nhân dân thế giới, học
thuyết Mác_Lênin về nghệ thuật quân sự vẫn là công cụ đáng
tin cậy của các đảng cộng sản, công nhân, các nhà nớc xà hội
chủ nghĩa, toàn bộ phong trào cộng sản công nhân quốc tế và
phong trào giải phong dân tộc.
5
1.2.2 T tëng qu©n sù Hå ChÝ Minh
T tëng Hå Chí Minh là cách nhìn, nhận định,ý tởng, và
lý luận học thuyết của ngời về xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lợng vũ trang nhân, về vấn ®Ị cã tÝnh quy
lt cđa khëi nghÜa vị rang vµ chiến tranh cách mạng, về
chính trị và quân sự tong thời đại mới.
Trong t tng quõn s H Chớ Minh, Nghệ thuật quân sự chiếm một vị
trí rất quan trọng. Người đã viết nhiều tác phẩm có giá trị về Nghệ thuật quân
sự, đặc biệt tư tưởng ấy thể hiện rất sáng tạo trong thực tiễn chỉ đạo khởi nghĩa
vũ trang và chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu, kế
thừa và phát triển truyền thống quân sự của cha ông, tiếp thu tinh hoa quân sự
của nhân loại, nhất là tư tưởng quân sự ưu việt của Lê-nin, kinh nghiệm chiến
tranh cách mạng của Trung Quốc, Liên Xô, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.
Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh là vừa đánh vừa xây dựng lực lượng,
càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, là dám đánh và biết đánh. Dám
đánh là điều kiện hàng đầu, nhưng biết đánh, biết thắng mới là yếu tố quan trọng
làm nên thắng lợi. Muốn đánh thắng, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải đánh giá
đúng địch, ta. Sinh thời, Người thường nhắc câu nói nổi tiếng của Tôn Tử: "Tri
bỉ tri kỷ, bách chiến bất bại" (biết địch biết ta, trăm trận không thua). Người nói:
Nếu thiếu nghiên cứu tìm hiểu khả năng của ta và của địch một cách tỉ mỉ để đề
ra mục đích, cách đánh thích hợp thì mắc nhiều khuyết điểm. Hồ Chí Minh đánh
giá so sánh lực lượng địch, ta trên quan điểm chiến tranh nhân dân, theo phương
pháp khoa học biện chứng, không dừng lại ở hiện tượng mà nhìn sâu vào bản
chất, nhìn tồn diện, khơng đánh giá địch, ta một cách tĩnh mà đặt nó trong q
trình đang vận động. Chính vì vậy, trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp,
so sánh địch ta có chênh lệch lớn nên có người cho là "châu chấu đá voi".
Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: "Ta nhất định thắng, địch nhất
6
định thua". Người phân tích: Địch như mặt trời vào lúc hồng hơn, hống hách
lắm nhưng đã gần tắt nghỉ, lực lượng ta ngày càng mạnh thêm như suối mới
chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến khơng có thối", "Thế địch như lửa, thế ta
như nước, nước nhất định thắng lửa". Hồ Chí Minh tiên đốn: "Nay tuy châu
chấu đá voi nhưng mai voi sẽ lòi ruột ra". Quy luật chung của chiến tranh là
mạnh được yếu thua. Ta muốn thắng địch phải mạnh hơn địch. Sức mạnh đó
được tạo ra trong quá trình chiến tranh để thực hiện càng đánh càng mạnh, càng
mạnh càng thắng và cuối cùng giành thắng lợi hồn tồn. Q trình đó theo Hồ
Chí Minh là quá trình vận dụng các nhân tố lực, thế, thời, mưu. Bác Hồ nói:
"Phải nghiên cứu cách đánh giặc để có một lối đánh rất tài giỏi thì trăm trận
trăm thắng".
Muốn tạo lực, theo Hồ Chí Minh là phải dựa vào dân, "có dân là có tất
cả". Muốn dựa vào dân thì dân phải được tổ chức chặt chẽ, được giác ngộ lòng
yêu nước, phải chăm lo bồi dưỡng sức dân mới có cơ sở tạo ra lực mới. Đi đơi
với tạo lực, Hồ Chí Minh rất coi trọng tạo thế. Nét độc đáo trong nghệ thuật
quân sự Hồ Chí Minh về tạo thế là phải xây dựng "thế trận lịng dân". Theo
Người đó là thế trận vững chắc nhất, quyết định nhất. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Phải dựa chắc vào dân thì kẻ địch khơng thể nào tiêu diệt được ta". Thế có quan
hệ với lực. Ở vào một thế tốt thì lực được nhân lên gấp bội. Người đưa ví dụ:
1kg nếu ở vào thế tốt có thể nâng 100kg lên được. Thế trong từng trận đánh, thế
từng chiến dịch, thế của từng chiến trường và thế trận của cả nước. Đi đôi tạo
lực, tạo thế, Hồ Chí Minh cịn rất coi trọng tạo thời cơ. Thời cơ là thời thế, là
thời điểm có lợi nhất để tiến công đối phương. Người yêu cầu phải nắm vững
thời cơ, tận dụng thời cơ và biết tạo ra thời cơ bởi: "Lạc nước hai xe đành bỏ
phí, gặp thời một tốt cũng thành công" (Bài thơ Học đánh cờ).
Theo Hồ Chí Minh, phải biết tận dụng thời gian, vì thời gian là lực lượng,
thời gian là sức mạnh, Hồ Chí Minh dùng kế "Trường kỳ kháng chiến", "Vừa
kháng chiến vừa kiến quốc" để có thời gian chuẩn bị mọi mặt và chuyển dần từ
thế yếu lên thế mạnh. Người nói: giặc Pháp có "vỏ quýt dày", ta phải có thời
7
gian để mài "móng tay nhọn". Bác Hồ nói: Thắng lợi và trường kỳ đi đôi với
nhau "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!". Muốn ăn quả tốt phải trồng
cây to. Trường kỳ kháng chiến, theo Hồ Chí Minh không đối lập với tư tưởng
chiến lược tiến công. Nghệ thuật qn sự Hồ Chí Minh là phải ln ln tiến
cơng, chủ động giành thế tiến cơng. Có tiến cơng mới làm cho địch suy yếu,
càng bộc lộ những mặt yếu cơ bản của chúng, làm cho ta mạnh dần lên, phát huy
những mặt mạnh ưu thế của ta. Cho nên phải "Kiên quyết không ngừng thế tiến
công".
Cùng với tạo lực, tạo thế, tranh thời, nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh cịn
nhấn mạnh phải biết lập mưu. Trong qn sự, mưu là toàn bộ chủ trương, ý đồ,
quyết tâm chiến đấu, kế hoạch chiến lược, chiến dịch; mưu còn là tài thao lược
của các tướng lĩnh, là tinh thần mưu trí sáng tạo, linh hoạt của cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy trong lúc lâm trận, mưu còn là thuật nghi binh đánh lừa địch, tạo ra động
thái thực thực, hư hư trong chiến tranh. Theo Hồ Chí Minh dựng mưu thế trong
lúc địch mạnh hơn ta phải dùng sức mạnh của tồn dân, dùng mưu trí của tồn
dân, "đánh giặc bằng mưu, thắng giặc bằng thế". Mưu trong nghệ thuật quân sự
Hồ Chí Minh là phải sử dụng tất cả các yếu tố: lực, thế, thời, mưu để tạo ra cách
đánh thích hợp, hiệu quả.
Tư duy quân sự Hồ Chí Minh hàm chứa sâu sắc tư tưởng quân sự truyền
thống của dân tộc ta: Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng cao
thắng số lượng đông. Biết đánh bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, bằng mọi thứ
vũ khí có trong tay; khơng chỉ đánh vào qn đội địch có vũ khí mà cịn đánh
vào lịng người, kết hợp tác chiến với binh địch vận. "Công tâm là thứ nhất,
cơng thành là thứ hai". Người nói: Địch vận là "tìm cách làm sao phá được địch
mà ta khơng phải đánh". Nghệ thuật qn sự Hồ Chí Minh còn là đánh lui từng
bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn. "Đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào" (Thơ "Xuân 1968"), chủ đổ, tớ ắt phải đổ theo; là nghệ
thuật khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Dưới ánh sáng tư tưởng
quân sự, Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh và của Đảng, quân và dân ta đã sáng
8
tạo ra chiến tranh nhân dân vĩ đại, đánh thắng mọi kẻ thù hung bạo, một phát
minh lớn có ý nghĩa thời đại góp vào kho tàng lý luận và thực tiễn quân sự ưu
việt của cách mạng thế giới.
1.2.3 Truyền thống, kinh nghiệm, nghệ thuật đánh
giặc của tổ tiên
Nghiờn cứu về chiến tranh và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong lịch sử
chống ngoại xâm từ thế kỷ III trước cơng ngun đến thế kỷ XVIII, có thể phân
các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh thành hai loại, đó là các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh giải phóng, và các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nghệ thuật quân
sự trong giai đoạn này vì thế cũng bao gồm cả nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang,
nghệ thuật quân sự của chiến tranh giải phóng và nghệ thuật quân sự của chiến
tranh giữ nước. Sự hình thành và phát triển liên tục kế tiếp nhau và đan xen nhau
của các loại hình đó đã đưa đến sự hình thành và phát triển mạnh mẽ, đặc sắc
của một nền nghệ thuật quân sự Việt Nam mà chúng ta đã thừa kế, vận
dụng.“Nền độc lập của nước ta gắn liền với những chiến công oanh liệt của cha
ông ta chống lại nhiều đạo quân xâm lược rất mạnh…”
Các cuộc chiến tranh trong lịch sử của dân tộc ta diễn ra trong những hồn
cảnh khác nhau, nhưng những chiến cơng hiển hách của Tổ tiên ta đều có những
biểu hiện tương đối thống nhất của một nền nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh độc
đáo, ưu việt.“Chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ định lịch sử và tinh hoa của
một dân tộc; ngược lại nó cịn phát triển những tinh hoa đó đến một trình độ
mới trong điều kiện lịch sử mới. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, dân tộc ta
đã từng bao phen anh dũng đứng dậy chống nạn ngoại xâm, giữ gìn độc lập
cho đất nước. Trong các cuộc đấu tranh vũ trang đó, dân tộc ta đã có những
sáng tạo kiệt xuất về tài thao lược.”(1)
Trước nạn ngoại xâm, dân tộc ta khơng có con đường nào khác là con
đường đứng lên cầm vũ khí chống quân thù. Nhưng quân xâm lược là một kẻ
địch có lực lượng quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Để đánh bại một kẻ địch
9
như vậy, Tổ tiên ta đã biết tìm sức mạnh trong khối đồn kết tồn dân. Cịn phải
sáng tạo ra cách đánh như thế nào để đánh thắng địch.
Đất nước ta không rộng, người nước ta không đông, địch là một nước lớn,
người nhiều của nhiều. Cho nên để giữ gìn đất nước, yêu cầu của dân tộc ta là
phải đánh quyết liệt, phải thắng oanh liệt, phải lập nên những chiến công vang
dội, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm tan rã ý chí xâm lược của chúng.
Do điều kiện lịch sử trước đây, nền nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Tổ
tiên ta khơng thốt khỏi sự ràng buộc và hạn chế ý thức hệ phong kiến, nhưng từ
đời này qua đời khác, nó cũng đã được xây dựng tương đối tồn diện.
Đặc điểm nền nghệ thuật đó là:
* Nghệ thuật đó khơng những chỉ đạo lực lượng vũ trang, mà còn chỉ đạo
nhân dân vũ trang kết hợp với lực lượng vũ trang.
Nghệ thuật do không chỉ dựa vào quân đội, mà dựa vào dân chúng và quân
đội để giành chiến thắng. Toàn dân đánh giặc, điều đó đã được nhiều cuộc chiến
tranh chống xâm lược trong lịch sử ta chứng minh. Nhân dân không những cất
giấu lương thực, thực hành "thanh giã” gây cho địch nhiều khó khăn về tiếp tế
lương thực, mà cịn trực tiếp giết giặc. Ở nước ta, "giặc đến nhà, đàn bà cũng
đánh”, thiếu niên, phụ lão cũng đánh, những điều đó đã có từ ngàn xưa.
Nêu lên điểm đó, nhà quân sự vĩ đại Trần Quốc Tuấn có nói: "Cả nước
góp sức chiến đấu nên giặc phải bó tay". Theo nhà sử học thế kỷ thứ XIX
Phan Huy Chú thì "đời Trần nhân dân ai cũng là binh, nên mới phá được
giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh ".
Với lực lượng vũ trang của cả nước, lực lượng vũ trang các địa phương
kết hợp với thổ binh, hương binh, dân binh và dân chúng, sức mạnh của toàn
dân, toàn quân được phát huy đến độ cao để diệt giặc.
* Trong điều kiện ta là một nước đất không rộng, người không đông, phải
đánh thắng những quân đội xâm lược lớn mạnh, dân tộc ta đã tạo nên một nghệ
thuật mà Tổ tiên ta gọi là "lấy ít đánh nhiều, lấy yếu trị mạnh, lấy đoản chống
10
trường".
Trong nhiều cuộc chiến tranh, quân và dân ta đã đánh địch cả ở trước mặt và sau
lưng, đánh địch tại chỗ, không những tiêu diệt sinh lực địch mà còn làm tan rã
quân xâm lược về tổ chức và về tinh thần, khơng những đánh tập trung mà cịn
đánh phân tán, dùng nhiều cách đánh, đánh những đòn oanh liệt làm cho địch
gãy xương sống, nát xương sườn. Tổ tiên ta coi trọng việc dùng lực lượng một
cách hợp lý, nhằm đạt hiệu lực cao, như Nguyễn Trãi nói: "sức dùng có nửa,
cơng được gấp đơi". Khơng những biết giành thắng lợi qn sự quyết định mà
cịn có biện pháp để củng cố những thắng lợi đó.
Câu ca dao từ ngàn xưa:
"Nực cười, châu chấu đá xe Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”.
Có thể nói lên phần nào đặc điểm này.
* Nghệ thuật đó xây dựng trên cơ sở một tinh thần yêu nước rất cao, một
tinh thần quật cường bất khuất, tự lập tự cường rất mạnh, trên cơ sở tính chất
chính nghĩa của cuộc chiến tranh, nên có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tích
cực chủ động rất cao. Nền nghệ thuật đó biết phát huy những chỗ mạnh mọi mặt
của mình nhất là chỗ mạnh về tính chất chính nghĩa, về ý chí bất khuất kiên
cường của dân tộc, về chất lượng mọi mặt của quân đội, để đánh quân địch vào
chỗ chúng yếu, lúc chúng yếu. Nhiều nhà quân sự nổi tiếng thời xưa thường
nhấn mạnh cách đánh chủ động linh hoạt, nhử người đến, chứ không để người
nhử, cách đánh vu hồi, bao vây chặt chẽ để tiêu diệt gọn, tiến cơng liên tục, dồn
địch vào thế bị động chịu địn, khơng có cách nào thốt khỏi bị tiêu diệt.
* Nghệ thuật đó rất sáng tạo, độc đáo, rất xuất sắc, tinh vi, rất mưu trí và
linh hoạt:
“Ơng cha ta ngày trước có nhiều sáng tạo về cách đánh giặc, khơng có
sáng tạo đó, khơng thể giữ được nước, khơng thể giành lược tự do ”
11
“Anh dũng và thông minh là hai yếu tố tạo nên súc mạnh của dân tộc
ta trong chiến đấu chông ngoại xâm”
Tổ tiên ta biết dựa trên yếu tố chính nghĩa, trên tinh thần yêu nước nồng
nàn và chiến đấu anh dũng của quân và dân, phát huy mọi cái mạnh của ta trong
điều kiện ta chiến đấu trên đất nước mình, đánh bại những đạo quân xâm lược từ
xa đến, mà sáng tạo ra cách đánh của ta, buộc địch phục tùng ý chí của ta, buộc
địch đánh theo cách đánh có lợi cho ta, khơng cho địch đánh theo cách đánh sở
trường của chúng.
Nguyễn Huệ nói: "Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ
không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít".
Trong chỉ đạo chiến tranh, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh: “Phải xem xét
tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà ứng biến cho
đúng”
Ngô Thời Nhiệm, một tướng giỏi của Nguyễn Huệ, cho rằng là một người
tướng giỏi phải biết "lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới
hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ".
Sức sáng tạo của dân tộc ta thể hiện ở chỗ, khơng phải chỉ có qn đội
đánh giặc, mà là cả nhân dân và quân đội cùng đánh. Ta yếu mà ta đánh thắng đó
cũng là sáng tạo. Sự nỗ lực chủ quan phi thường của toàn dân tộc, sức sống
mãnh liệt của nền nghệ thuật đó cũng nói lên sức sáng tạo này.
Nền nghệ thuật đó dựa trên cơ sở đánh giá địch ta một cách bình tĩnh, hiểu
địch, hiểu ta một cách sâu sắc.
Trần Quốc Tuấn cho rằng: "Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió như
lửa, thì thế giặc có thể dễ chống cự được".
Nguyễn Trái nói: "Tri kỷ tri bỉ, năng nhược năng cường”. Nghĩa là biết
người biết ta, có thế yếu, có thế mạnh.
Tổ tiên ta đã khơng nao núng vì sức mạnh tạm thời của địch, không bị uy
hiếp vũ bão bên ngoài của chúng. Những nhà quân sự thời xưa của ta hiểu rõ ta
12
khơng phải chỉ có yếu, mà cịn có mạnh, hơn nữa có những chỗ mạnh rất cơ bản;
cịn địch, khơng phải chỉ có mạnh, mà cịn có yếu, những chỗ yếu trí mạng tất
yếu; đồng thời cũng thấy rõ những chỗ và lúc địch yếu, ta mạnh để có những
chủ trương chiến lược thích hợp.
Nhìn bao qt cả cuộc chiến tranh, Tổ tiên ta khơng sợ địch, tin tưởng
mình có thể đánh bại địch. Trong việc xử trí tình huống chiến lược cụ thể thì
khơng khinh địch, đánh giá đúng mức sức mạnh ban đầu của quân xâm lược: lúc
quân địch cịn mạnh thì ta hành động rất thận trọng, nhưng khi địch đã trở thành
yếu lại hành động rất táo bạo. Trước thanh thế lớn lao của quân Thanh tiến vào
xâm lược nước ta, lời phân tích của Ngơ Thời Nhiệm sau đây nêu rõ được phần
nào điều đã nói trên: “Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một
nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau làm nước
trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút lui,
không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng
như ngọc bích, của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì”,
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn tình thế khách quan, biết địch biết ta một cách
đúng đắn, Tổ tiên ta đã phát huy đến mức độ cao nỗ lực chủ quan, phát huy đến
độ cao trí tuệ của mình, tìm ra trăm phương nghìn kế, khắc phục mn vàn khó
khăn gian khổ và đã lập nên những chiến cơng kỳ lạ. Đó cũng chính là điều kiện
làm cho tính sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh đạt đến trình độ rất
cao, câu nói của Nguyễn Trãi có thể nêu rõ điều đó:
“Có lẽ nhiều tai nạn chính là cái gốc để dựng nước, mà sự băn khoăn
lo lắng cũng là cái nền đề mở ra nghiệp thánh. Trải biến cố nhiều thì trí lự
sâu. Lo cơng việc xa thì thành cơng kỳ. Đế vương nổi lên, ai cũng thế này”.
Yếu có thể đánh mạnh, ít đánh nhiều là do tinh thần dũng cảm, dám đánh
và sau đó là biết đánh: đánh mai phục, lừa địch vào sâu, tồn dân đều đánh, v.v.
Có thể nêu lên một số nội dung chính của nền nghệ thuật đó thành 3 vấn
đề lớn như sau:
13
A. Chỉ đạo quân sự.
B. Địch vận.
C. Đấu tranh vũ trang và đấu tranh ngoại giao.
Xét thực tiễn diễn biến của nhiều cuộc chiến tranh thắng lợi có thể thấy rõ
Tổ tiên ta không bao giờ đi chệch khỏi mục đích qn sự cuối cùng là tiến cơng
tiêu diệt địch trên đất nước ta. Nhưng Tổ tiên ta cũng không hề tách mục đích
cần đạt đó với điều kiện khách quan là lúc đầu lực lượng quân sự địch mạnh, ta
yếu.
Trước quân địch lớn mạnh, các nhà quân sự ta đã biết tránh quyết chiến
trong điều kiện khơng có lợi khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu nhằm bảo toàn lực
lượng tranh thủ thời gian, tạo nên thế có lợi cho ta, làm địch suy yếu, bồi dưỡng
lực lượng ta, rồi từng bước tiêu diệt quân địch mà giành thắng lợi trong chiến
tranh.
Trong chiến tranh tự vệ, trước thế tiến cơng mạnh mẽ của qn địch có ưu
thế về số lượng. Tổ tiên ta đã tránh khơng dốc tồn bộ lực lượng để hòng phân
thắng bại, giành thắng lợi nhanh chóng ngay buổi đầu, mà đã biết thực hành rút
lui chiến lược, có gan rút bỏ kinh đơ, cho địch vào sâu mà tiêu hao địch. Trong
chiến tranh chống quân Nguyên lần thứ nhất, trước ý định của vua Trần quyết
chiến với địch trong điều kiện khơng có lợi ở gần biên giới, tướng Lê Phủ Trân
đã can rằng: “Làm như vậy thì chỉ như những người dốc hết túi tiền để đánh
nốt tiếng bạc mà thôi", và khuyên "hãy nên lánh đi”. Trong chiến tranh chống
quân Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã chủ trương “Nguyên binh khí
nhuệ đương hưng, kịp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Do đó quyết định
rút khỏi Vạn Kiếp, rút khỏi kinh thành. Nhận xét về chủ trương rút bỏ Thăng
Long của Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Huệ đã đánh giá "Chịu
nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, đành hãy chỉnh đốn đội ngũ, rút
về giữ chỗ hiểm yếu, trong thì khiên cho lịng qn kích thích, ngồi thì khiến
cho lịng giặc kiêu căng…”
14
Nhưng rút lui chiến lược của Tổ tiên ta có những nét độc đáo. Đất nước ta
không rộng, chiều sâu khơng lớn, nếu cứ rút mãi thì sẽ khơng cịn đất để mà rút,
phải tự hãm mình vào thế bị động nghiêm trọng. Trong chiến tranh chống quân
Nguyên lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn đã chặn đứng địch ở phía nam, trong khi ở
phía bắc thì chỉ huy chủ lực rút lui từng bước. Trong cuộc chiến tranh này cũng
như nhiều cuộc chiến tranh tự vệ khác, khi chủ lực rút lui, quân địa phương vẫn
ở lại phối hợp với thổ binh, dân binh, hương binh đánh địch tại chỗ, thực hiện
rút phía trước nhưng đánh mạnh phía sau lưng địch. Tóm lại, trong q trình rút
lui vẫn tiến cơng tích cực. Trong lịch sử dân tộc, cũng có những nhà cầm quân
không biết tiếp thu nghệ thuật đúng đắn đó của dân tộc, nên đã bị thất bại; trong
chiến tranh chống quân Minh dưới thời Hồ, trận quyết chiến thất bại ở Đa Bang,
rồi chỉ rút chạy dài mà khơng tích cực tiến cơng địch, đã đưa cuộc kháng chiến
chính nghĩa của dân tộc ta đến thất bại.
Thừa nhận sự cần thiết rút lui chiến lược, biết cách rút lui đúng đắn và có
lợi, các nhà quân sự ta cịn thơng thạo trong việc tạo nên điều kiện để chuyển
sang quật trả lại địch những đòn quyết liệt, biết vận dụng một cách sáng tạo
nguyên tắc quân sự cổ điển "Dĩ dật đãi lao" tức là lấy nhàn chờ mệt, lấy mạnh
chờ yếu, lấy sung sức chờ hao mòn. Trong q trình phịng ngự, rút lui, khơng
những đã liên tục tiêu hao địch, buộc địch phải chịu ảnh hưởng khơng lợi của
khí hậu và địa hình nước ta, hãm chúng vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm
trọng, mà cịn biết buộc địch rải quân ra (như Trần Quốc Tuấn) hoặc làm cho
địch sơ hở phạm sai lầm (như Nguyễn Huệ) tức là tạo nên một thế chiến lược
khiến cho địch từ mạnh trở thành yếu, tự bộc lộ nhược điểm, để diệt đội quân
xâm lược lớn mạnh.
Để đạt tới mục đích đó, các nhà qn sự ta thường dùng hai cách: Một là,
khi địch đã rải quân, ta đi từ thắng lợi nhỏ, vừa, đến thắng lợi lớn, tạo nên bước
ngoặt trong chiến tranh. Trong trường hợp này, Tổ tiên ta đã tỏ ra biết nắm quy
luật phát triển của địch trong chiến tranh. Trong quá trình ta phản công, quân
địch bị tiêu diệt từng bộ phận ngày càng lớn hơn, đến một mức nào đó, khi
15
nhưng đạo qn nào đó bị tiêu diệt, thì đồn quân xâm lược to lớn của địch bắt
đầu tan rã (như Lý Thường Kiệt đánh quân Tống, Trần Quốc Tuấn đánh quân
Nguyên). Khi chưa tạo ra được bước ngoặt chiến lược Tổ tiên ta biết đánh địch
một cách vừng chắc. Khi thì lấy ít thắng nhiều, khi thì lấy nhiều thắng ít, tiêu
diệt tiêu hao địch, tạo ra từng bước chuyển biến, nhưng chủ yếu vẫn là lấy ít
thắng nhiều. Nhưng sau khi bước ngoặt diễn ra, lại táo bạo lấy ít đánh nhiều, dốc
lực lượng thường khơng nhiều của mình đánh vào tồn bộ qn địch với số
lượng cịn to lớn nhưng chất lượng đã suy sụp mà giành thắng lợi quyết định cho
cuộc chiến tranh tự vệ. Hai là, địch tuy chưa rải quân nhưng có sơ hở nên ta thực
hành chia cắt địch ra từng mảng, giáng những đòn mãnh liệt vào chỗ hiểm nhất
của địch, đánh vào trung tâm đầu não của chúng khiến cho địch chống váng,
kinh hồng, rối loạn, tê liệt, (như Nguyễn Huệ đánh quân Thanh). Từ những
cuộc chiến tranh thắng lợi đó có thể thấy rằng ngay trong khi rút lui chiến lược,
các nhà quân sự ta luôn luôn nhằm vào mục đích phản cơng tiêu diệt địch, tích
cực tạo điều kiện để chuyển sang phản công chiến lược. Trong phản công chiến
lược đã sáng tạo ra cách đánh tiến công lần lượt hoặc đồng thời, tiến công từ nhỏ
đến lớn hoặc đánh một địn quyết định.
Trong chiến tranh giải phóng, Tổ tiên ta đã thực hiện chiến lược đánh lâu
dài một cách khác. Trong điều kiện dân tộc ta sống dưới sự thống trị của phong
kiến nước ngoài và bè lũ tay sai, các nhà yêu nước ngày xưa đã nắm được khá
chính xác tình hình so sánh lực lượng giữa hai bên, thấy rõ thế và lực của địch
và ta, lãnh đạo dân tộc vùng lên khởi nghĩa, thực hành liên tục tiến cơng địch
cho đến khi đánh đổ hồn toàn nền thống trị của chúng. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã
đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành chiến tranh giải phóng lâu dài.
Trong q trình đó, về chiến lược ta không ngừng tiến công địch trong nhiều
năm liền (khơng kể thời gian đình chiến) với quy mơ ngày càng to lớn cho đến
thắng lợi hồn tồn. Cịn địch thì khơng ngừng phản cơng hịng tiêu diệt lực
lượng khởi nghĩa và khôi phục nền thống trị của chúng. Chúng nhiều lần tăng
thêm quân đội từ chính quốc nhưng thế phản công chung của chúng không
16
ngừng sút kém; chúng ngày càng đi sâu vào thế phịng ngự cho đến khi chịu thất
bại hồn tồn. Trên chiến trường, quá trình giao tranh giữa ta và địch diễn ra
theo hình thái: ta tiến cơng và phản cơng đánh tan các cuộc phản công và tiến
công của địch cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Khi mới bắt đầu đứng lên tiến cơng địch, tuy thế chính trị và chiến lược
trên những mặt nào đó có lợi cho ta khơng lợi cho địch, nhưng lực lượng quân
sự địch nhiều hơn ta. Trong điều kiện đó các nhà quân sự ta đã cho biết “chờ
thời cơ để lừa khi địch mỏi mệt, giấu mũi nhọn và bít ánh sáng" buộc địch phải
đánh lâu dài, ngày càng tiêu hao, suy yếu; còn ta có thể tránh thủ thời gian xây
dựng, mở rộng lực lượng vũ trang và chỗ đứng chân của mình. Do đó mà tạo
nên thời cơ chiến lược có lợi giáng cho địch những đòn quyết định, trong những
năm sau của cuộc chiến tranh giải phóng lâu dài.
Khởi nghĩa Lam Sơn và nhiều cuộc khởi nghĩa khác của dân tộc ta trong
lịch sử đã sáng tạo ra một kinh nghiệm q báu: Trong thế chính trị và chiến
lược chung có lợi ích cho ta, khơng lợi cho địch ở một số mặt, có thể tạo thành
ưu thế cục bộ mà tiến công địch, phát triển tiến công từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ
đến toàn cục, giành thắng lợi hoàn tồn trong chiến tranh giải phóng lâu dài.
Có thể nói hình thái phát triển của những cuộc chiến tranh tự vệ và giải
phóng đã nói trên như sau:
Thời Lý: Phịng ngự chiến lược tích cực, phản cơng chiến lược.
Thời Trần: Rút lui chiến lược, phản công chiến lược.
Thời Tây Sơn: Rút lui chiến lược, phản công chiến lược.
Thời Lê: Liên tục tiến cơng chiến lược từ nhỏ đến lớn (có 2 năm đình
chiến).
Thời Hồ: Phịng ngự, rút lui.
Trong bốn cuộc chiến tranh thắng lợi trên, nhờ biết tránh quyết chiến
chiến lược trong điều kiện không lợi, tiến lên quyết chiến trong điều kiện có lợi,
Tổ tiên ta đã đưa chiến tranh lâu dài đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, trong
17
chiến tranh thời Hồ, do bị buộc phải quyết chiến với địch trong điều kiện không
lợi cho ta mà lợi cho địch, khơng biết bảo tồn chủ lực trong tình hình địch
mạnh, ta yếu, dốc sức để phân thắng bại ngay từ đầu, kết quả là chủ lực tan vỡ.
Do không nắm vững được quy luật chỉ đạo chiến tranh tự vệ theo chiến lược
đánh lâu dài của thời Lý, thời Trần, nên bị thất bại là điều tất yếu.
Đáng chú ý là các nhà quân sự của ta nghiên cứu, tham khảo Tôn Tử,
nhưng không theo quan điểm "thắng nhanh" của Tôn Tử. Binh pháp Tôn Tử cho
rằng "việc dùng binh, chỉ nghe nói có tốc quyết vụng về, chứ khơng thấy có
lâu dài, khơn khéo; chiến tranh lâu dài mà có lợi cho quốc gia là việc khơng
thế có". Biết đánh lâu dài, điều đó chứng tỏ tinh thần độc lập sáng tạo của Tổ
tiên ta.
Chính sách "Ngụ binh ư nông" (nghĩa là đặt binh ở nông thôn) được thi
hành ở nước ta từ khá sớm, nhất là từ thời kỳ Lý, Trần trở đi. Chính sách đó
nhằm bảo đảm có số qn tập trung của triều đình đến mức cần thiết và hợp lý,
giảm một phần nào đóng góp của nhân dân và tiêu dùng của nhà nước, bảo đảm
có sức sản xuất để đánh lâu dài. Điều quan trọng hơn nữa là với chính sách đó,
ngồi việc bảo đảm có qn đội tập trung, cịn tổ chức nên những đội dân binh
(hương binh, thổ binh) bảo vệ các thôn, ấp, đánh địch tại chỗ. Thời Lê lại phát
triển đến chính sách "vừa đánh giặc vừa cày ruộng" nhằm bảo đảm xây dựng
"chỗ đứng chân” để từ đó tiến lên giải phóng tồn bộ đất nước. Đó là những điều
kiện rất quan trọng để có thể đánh lâu dài.
Đánh lâu dài rõ ràng là một kinh nghiệm q báu của dân tộc ta. Khi thì
đánh địn phủ đầu trước, khiến địch phải tiến quân trong thế bị động, rồi chặn
đứng địch trên tuyến thuận lợi đã chuẩn bị sẵn, chuyển sang quật trả địch (Lý).
Khi thì cho địch vào thật sâu, buộc địch rải quân, rồi chọn thời gian, địa điểm
tốt, đánh địch từng trận đến khi tiêu diệt tồn bộ (Trần). Khi thì lập chỗ đứng
chân quần nhau lâu dài với địch, rồi tiến lên đánh bại hồn tồn qn địch (Lê).
Khi thì chủ động rút, nhân sơ hở của địch, điều động chủ lựe từ xa tới, chiến
18
thắng địch trong một trận thần tốc (Tây Sơn)…Hình thức nhiều hình nhiều vẻ,
nhưng nội dung là một: tránh quyết chiến với địch trong điều kiện không lợi,
làm cho địch từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh phải chuyển sang đánh lâu
dài, đợi cho địch từ mạnh trở thành yếu, lực cịn nhiều nhưng thế đã yếu, số
lượng cịn đơng nhưng chất lượng đã kém; cịn ta thì giữ gìn và bồi dưỡng được
lực lượng, tiến lên đánh cho địch một đòn hoặc nhiều đòn quyết chiến chiến
lược liên tiếp, tiêu diệt phần lớn hay toàn bộ quân địch, giành thắng lợi to lớn.
Điều đáng chú ý là, trong quá trình đánh lâu dài như vậy, các nhà quân sự ta đã
biết chớp thời cơ có lợi chuyển sang giáng cho địch những đòn mãnh liệt, giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trong các cuộc chiến tranh
chống xâm lược của dân tộc ta, tư tưởng, đường lối chung về chiến lược là đánh
lâu dài, vì quân xâm lược thường mạnh hơn quân ta lúc đầu. Nhưng căn cứ vào
các điều kiện chủ quan, khách quan khác nhau về các mặt của cuộc chiến tranh
mà tình hình lâu dài có khác nhau. Cũng có cuộc chiến tranh, giành thắng lợi
trong một thời gian tương đối ngắn.
19
Chơng II
Nghệ thuật quân sự Việt Nam_những nét
đặc sắc từ khi có Đảng lÃnh đạo
2.1 Nghệ thuật quân sự của đảng trong chiến tranh
nhân dân,kháng chiến chống xâm lợc
2.1.1 nghệ thuật quân sự của Đảng trong chiến tranh
nhân dân
- Phỏt động toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của
Đảng
Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ đã tỏ rõ thiện
chí, cố gắng làm những việc có thể nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhưng với dã tâm
cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng
cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn
công chiếm đóng thành phố Hải Phịng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng.
Ngày 16-12-1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đơng Dương đã họp tại Hải
Phịng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16.
Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở
các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà
Nội, địi kiểm sốt an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt
Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế khơng thể nhân nhượng thêm với
chúng được nữa, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân dân sẽ
trở lại cuộc đời nô lệ.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả
năng hồ hỗn khơng cịn. Địch đã cơng khai tun bố chúng sẽ hành động sáng
ngày 20 - 12 nếu Chính phủ ta khước từ những điểm nêu trong tối hậu thư của
chúng. Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm
20
phát động toàn dân kháng chiến và chủ động mở cuộc tổng giao chiến lịch sử
trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội vào
ngày 20-12-1946 như chúng đã nêu lên trong tối hậu thư gửi cho Chính phủ ta
trong những ngày 18, 19. Mệnh lệnh đã được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 1912-1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Nhân dân cả nước đã đứng lên theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch:
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
húng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ. ...
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,
khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống
thực dân Pháp cứu nước. ...
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ
gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh,
thắng lợi nhất định về dân tộc ta"
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước,
là lời hịch cứu quốc, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh
hùng bất khuất, kiên cường của nhân dân ta; làm cho cả nước sục sôi đứng lên
chiến đấu với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", vì độc lập tự do thiêng
liêng của Tổ quốc.
21
Ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra bản Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Bản Chỉ thị đã nêu rõ: Mục
đích của kháng chiến là "đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành
thống nhất và độc lập"; "tính chất: Trường kỳ kháng chiến, tồn diện kháng
chiến"; các chính sách của cuộc kháng chiến là đoàn kết toàn dân, xây dựng
thực lực về mọi mặt, đoàn kết quốc tế (cả với nhân dân Pháp) để chống bọn thực
dân Pháp phản động. Bản Chỉ thị cịn dự đốn về các giai đoạn phát triển của
cuộc kháng chiến, về chương trình kháng chiến, về cơ quan lãnh đạo kháng
chiến, về tuyên truyền trong kháng chiến ...
Từ tháng 3 - 1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu,
Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật
để làm sáng tỏ thêm đường lối kháng chiến của Đảng. Những bài viết này được
xuất bản thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.
Tác phẩm của Trường Chinh đã xác định rõ:
Mục tiêu của cuộc kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn thực
dân phản động Pháp xâm lược nhằm giành độc lập và thống nhất.
Tính chất của cuộc kháng chiến: Kế tục sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, cuộc kháng chiến này hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở rộng
và củng cố chế độ cộng hoà dân chủ Việt Nam phát triển trên nền tảng dân chủ
mới. Cho nên cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, Trường Chinh khẳng
định "... Cuộc kháng chiến này chỉ hồn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước,
củng cố và mở rộng chế độ cộng hồ dân chủ. Nó khơng tịch thu ruộng đất của
địa chủ phong kiến chia
cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian
phản quốc để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ gia đình các chiến sĩ hy
sinh"1
22
Cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Chiến tranh nhân dân, tồn dân đánh giặc là nội dung cơ bản của đường
lối quân sự của Đảng. Đồn kết tồn dân, thực hiện qn, chính, dân nhất trí,
động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước cho chiến đấu và để chiến thắng.
Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến, đồng
thời để phát huy mặt mạnh của cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc ta, nên
chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa,
trong đó qn sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng của địch trên đất
nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, lấy lại toàn bộ đất nước.
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch chi phối, phương châm chiến
lược của ta là đánh lâu dài. Đó là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng và phát
triển lực lượng của ta, từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta,
đánh bại từng âm mưu và kế hoạch quân sự của địch, tiến lên giành thắng lợi
hồn tồn. Đồng chí Trường Chinh dự đốn về đại thể cuộc kháng chiến sẽ phát
triển qua ba giai đoạn: phịng ngự, cầm cự và tổng phản cơng; ba giai đoạn đó có
quan hệ chặt chẽ, kế tiếp và đan xen với nhau trong kháng chiến.
Để đánh lâu dài, ta phải tự lực cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh
của cả dân tộc đấu tranh vì độc lập tự do, đồng thời hết sức tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ quốc tế để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Đánh lâu dài, dựa vào sức
mình là chính là "thầy chiến lược", là "bí quyết của sự thắng lợi" của ta.
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi đã vạch ra một phương châm
"tử chiến" (quyết chiến) với thực dân phản động Pháp để giành độc lập, thống
nhất thực sự cho đất nước.
Kháng chiến nhất định thắng lợi là niềm tin, là động lực và sức mạnh
kháng chiến của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng và tác phẩm của Trường Chinh là đường lối kháng chiến của Đảng
23
ta, dẫn dắt và tổ chức nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc kháng
chiến lâu dài, gian kh anh dng v nht nh thng li.
2.2. Nét đặc sắc_trong đờng lối quân
sự
2.2.1. ng li khỏng chin chng thc dân Pháp và can thiệp Mỹ
của Đảng - giá trị lịch sử của đường lối kháng chiến.
Đường lối k/chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ được đề ra ngay
từ đâu cuộc kháng chiến và được phát triển bổ sung hồn chỉnh trong q trình
tiến hành kháng chiến. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp được thể hiện qua các văn kiện quan trọng của Đảng.
Khi cuộc kháng chiến chống pháp bùng nổ, ngày 19-12-1946, Chủ tịch HCM ra
"Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", lời kêu gọi đã tỏ rõ quyết tâm cao độ của
dt vn kháng chiến chống xâm lược, Tiếp đó ngày 22-12, tw đảng đã ra chỉ thị
"toàn dân kháng chiến".
Hai văn kiện trên đã chỉ ra những tư tưởng cơ bản đặt nền móng cho
đường lối kháng chiến. Những tư tưởng và nội dung cơ bản đó được đồng chí
Trường Chinh phát triển đầy đủ trong tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng
lợi" vào cuối năm 1947, và đã trở thành những quan điểm cơ bản về đường lối
kháng chiến của Đảng. Đường lối đó được đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
của đảng (2-1951) khẳng định là hồn tồn đúng đắn.
a) Xđ đối tượng, mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến.
Trong các văn kiện nêu trên, Đảng ta chỉ rõ đối tượng, nhiệm vụ và mục đích
của cuộc kháng chiến; "kẻ thù chính là bọn thực dân phản động pháp đang dùng
vũ khí cướp lại nước ta"
- Xác định chính xác đối tượng chủ yếu của cuộc kháng là vấn đề chiến
lược cực kỳ quan trọng, nhằm tập trung mũi nhọn để tiêu diệt chúng, đoàn kết
mọi lực lượng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ ngồi ngước để cơ lập kẻ thù.
24
- Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập, tự do, thống nhất thật sự,
hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Tính chất của cuộc kháng chiến là một cuộc chiến tranh cách mạng có
tính chất "dân tộc độc lập và dân chủ, tự do".
Quán triệt mục đích, tính chất của cuộc kháng chiến, Đảng ta đề ra đường
lối kháng chiến, chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệt Mỹ là đường
lối kháng chiến toàn dân, tồn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; là đường
lối tiến hành chiến tranh nhân dân phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta.
b) Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến
- Kháng chiến toàn dân: Trong đường lối chiến tranh nhân dân của đảng,
điều cốt lõi và cơ bản nhất là chiến lược toàn dân kháng chiến. Để đánh thắng
những đội quân xâm lược lớn của chủ nghĩa đế quốc, đảng ta đã dựa vào sức
mạnh của toàn dân, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc. Với chiến
lược toàn dân kháng chiến, đảng đã tổ chức cả nước thành một mặt trận, tạo nên
thế trận "cả nước đánh giặc". Điều kiện chủ yếu đẻ quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến là huy đọng cho được sức mạnh toàn dân. Trong "Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến", chủ tịch HCM kêu gọi: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dt. Hễ là người VN thì phải
đứng lên đánh thực dân pháp cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm
dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân pháp cứu nước".
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HCM khơng chỉ động
viên, cổ vũ cho tồn dân. Các giai cấp, các tầng lớp xh, các nhân sĩ u nước
trong khối đồn kết dt đều cùng góp sức người, sức của cho kháng chiến.
- Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cuộc kháng chiến là đánh
đuổi thực dân pháp xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự. Đảng ta sớm
xác định được mục tiêu chính trị đúng đắn. Đó là điều cơ bản nhất, là điều kiện
đi đến thực hiện toàn dân kháng chiến. Do đó, trong kháng chiên, đảng ta đã biết
25