PHẦN I - PHẦN MỞ ĐẦU
I- Lý do chọn đề tài
Xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội, đưa các nước xã hội chủ nghĩa hoà nhập
vào “thế giới tự do” tư bản chủ nghĩa, đó là mục tiêu khơng bao giờ thay đổi mà
chủ nghĩa đế quốc luôn luôn theo đuổi. Sau nhiều lần can thiệp bằng vũ trang và
xâm lược đều thất bại, các nước đế quốc đã nhận thấy rằng không thể dùng vũ
lực để ngăn chặn, đẩy lùi và tiêu diệt chủ nghĩa xã hội được. Vì vậy, khi mà chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên thế giới dần dần ở vào thế cân bằng nhất
định, chủ nghĩa đế quốc phương Tây đã thay đổi chiến lược. Chúng ngày càng
chú ý hơn đến những hoạt động chống phá, lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa
bằng những thủ đoạn phi vũ trang mà được gọi là chiến lược “diễn biến hồ
bình”.
Trong thời gian gần đây sau khi hồn tất xong q trình “diễn biến hồ
bình” ở Đơng Âu và Liên Xơ các nước đế quốc đã mơ tưởng tới một chiến thắng
hoàn toàn mà khơng cần chiến tranh, xố bỏ được chế độ chủ nghĩa trên thế giới.
Sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc đã coi Việt Nam là một
trọng điểm của chiến lược “diễn biến hoà bình”. Chính vì vậy chúng ta khơng
thể coi thường những âm mưu và thủ đoạn hết sức thâm độc và nguy hiểm của
chủ nghĩa đế quốc. Chúng ta phải tìm hiểu bản chất và âm mưu của kẻ địch để từ
đó vạch ra chiến lược để ngăn ngừa, đẩy lùi và tiến tới đánh bại hoàn toàn chiến
lược “diễn biến hồ bình” của chúng, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đã xây dựng.
II- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những âm mưu và thủ đoạn của chiến
lược “diễn biên hồ bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng để
chống phá chủ nghĩa xã hội.
1
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Lý thuyết được bắt nguồn tự khảo sát,
phân tích những tư liệu thực tế ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, tình hình “diễn
biến hồ bình” trên thế giới ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay (trong đó có
Việt Nam và Lào).
III- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nêu được khái niệm cơ bản của “diễn biến hồ bình” và “bạo loạn
lật đổ”; vạch rõ được âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hồ bình”
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng để chống phá chủ nghĩa xã
hội; liên hệ với thực tiễn của chiến lược “diễn biến hồ bình” mà bọn chúng
đang âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam
IV- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử – logic.
- Phương pháp khảo sát và phân tích về mặt thực tiễn.
- Các phương pháp liên ngành.
-Tham khảo thông tin trên các phương tiện đại chúng cập nhật.
2
PHẦN II - NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
I- Cơ sở lý luận
1. Cơ sở lý luận hình thành chiến lược “diễn biến hồ bình”
Chiến lược “diễn biến hồ bình” là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc,
nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, phản ánh tính chất phức tạp, quyết liệt của
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. “Diễn biến hồ
bình” là cuộc tấn công “mềm”, “ngầm”, sử dụng biện pháp phi quân sự là chủ
yếu, thông qua cái gọi là “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”… kiểu Mỹ để “tấn
công” vào chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hố,
lối sống và tơn giáo… nhằm làm xuất hiện ngay trong lòng các nước xã hội chủ
nghĩa những nhân tố đối lập vơi Đảng Cộng sản, đối lập với chủ nghĩa xã hội (tư
hữu hoá về kinh tế, đa nguyên về chính trị và lối sống phương Tây). Từ đó làm
suy yếu Đảng Cộng sản, làm cho cách mạng mất dần bản sắc của mình, tự diễn
biến, chuyển hoá khi thời cơ xuất hiện sẽ gậy sức ép về kinh tế, chính trị, tư
tưởng và có thể cả về qn sự để xố bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lái
chủ nghĩa xã hội theo con đường tư bản chủ nghĩa, chịu sự chi phối của Mỹ và
các nước phương Tây.
Chiến lược “diễn biến hồ bình” ra đời vào thời kì chiến tranh lạnh trong
bối cảnh quốc tế đang có nhiều biến động phức tạp. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay go và quyết liệt. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế liên tục điều chỉnh chiến lược, thay đổi
biện pháp đối phó với các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào tiến bộ xã hội.
Trong quá trình đó, chiến lược “diễn biến hồ bình” đã ra đời và phát triển cùng
với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và
các thê lực phản động quốc tế.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước trong vòng
vây của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên thế giới, phong trào
3
giải phóng dân tộc và phong trào cơng nhân phát triển mạnh mẽ. Đây là những
dịng thác cách mạng hình thành thế chiến cơng tồn diện vào chủ nghĩa đế quốc
và thực dân. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay
gắt, quyết liệt, biểu hiện tập trung ở cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa.
Với tình hình bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết
tìm kiếm giải pháp chiến lược nhằm ngăn chặn “làn sóng cộng sản” từ Đơng Âu
và Liên Xơ. Đầu năm 1946, khi cịn là đại diện lâm thời của Mỹ tại Liên Xô,
G.Ken-nan đã kiến nghị với Nhà Trắng, nhân tố cơ bản nhất trong chính sách
ngoại giao của Mỹ đối với Liên Xơ là phải kiềm chế khuynh hướng “bành
trướng”, phải thực thi chính sách “ngăn chặn” lâu dài, kiên nhẫn nhưng kiên
quyết và luôn cảnh giác. Ken-nan cho rằng “kiềm chế giải phóng là hai mặt của
một đồng tiền, là hai phần của một vấn đề tương đối lớn”, đồng thời khuyến cáo
với Nhà Trắng, phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong
lịng chế độ Xơ-Viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm “mềm hoá từng bước”
để cuối cùng tan rã. Với ý tưởng này, Ken-nan trở thành lý luận gia đầu tiên của
chiến lược “ngăn chặn” và chiến lược “diễn biến hồ bình”.
2. Thời kỳ hồn thiện
Trên cơ sở lý luận đó của Ken-nan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Truman cơng bố chính thức thực hiện chiến lược “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản.
Chiến lược “ngăn chặn” sử dụng biện pháp quân sự là chủ yếu (chiến tranh xâm
lược, chiến tranh cục bộ, chiến tranh đặc biệt, chạy đua vũ trang,…), kết hợp với
các thủ đoạn và biện pháp khác, trong đó có “diễn biến hồ bình” là một thủ
đoạn nhằm “chặn đứng” sự phát triển của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện số 68 của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ xác định mục tiêu của chiến
lược “ngăn chặn’ là dùng mọi thủ đoạn để chặn đứng sự khuếch trương của Liên
Xô trong điều kiện không phát động chiến tranh, phải gieo hạt giống thức tỉnh,
huỷ diệt chế độ Xô-viết nhằm tạo ra sự thay đổi tận gốc đối với xã hội Liên-Xô.
4
Để đạt được mục tiêu đó chính quyền Tru-man phát động cuộc chiến tranh
lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý, chạy đua
vũ trang, cấm vận kinh tế, lập vành đai bao quanh Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa, trực tiếp can thiệp vào nội bộ nhiều nước (có cả can thiệp vũ trang).
Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tru-man đề nghị Quốc hội Mỹ viện trợ cho Hy Lạp
và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu USD và cử nhân viên quân sự, dân sự đến duy trì nền
thống trị để các nước này khơng “ngả vào lịng cộng sản”. Đồng thời, tháng 11
năm 1947, Mỹ đưa ra kế hoạch Mác-san viện trợ 14 tỷ USD, giúp các nước Tây
Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, ép các nước này loại bỏ những Bộ trưởng là
cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và cài cắm gián điệp vào các đảng cộng
sản, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng “dân chủ” để gây chia rẽ, phá hoại tư
tưởng từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất của kế hoạch này nhằm
“ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản và buộc các nước Tây Âu ngả theo Mỹ, chịu sự
chi phối của Mỹ.
Đối với Trung Quốc, trong một bức thư gửi Tổng thông Tru-man, Ngoại
trưởng Mỹ Ac-ke-sơn khuyến cáo “những người theo chủ nghĩa cá nhân ở Trung
Quốc (phần tử theo chủ nghĩa dân chủ cũ, thân Mỹ) có thể tạo ra sự biến đổi từ
bên trong, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm sụp đổ chính
quyền nhân dân…”.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Ngoại trưởng F.Đa-lét xác
định, cần phải “giải phóng” họ ra khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải bằng
một cuộc chiến tranh mà bằng “biện pháp hồ bình”, phi chiến tranh. Theo Đalét, “sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội không phải là vĩnh cửu và không thể thay
đổi được”, trong khi các nước Tây Âu phục hồi và phát triển kinh tế, chỉ cầ “hé
tấm màn sắt” nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa sẽ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản vì
thấy cuộc sống tự do, tốt đẹp và sung túc ở phương Tây.
Đồng thời, Mỹ câu kết với 14 quốc gia phương Tây như Anh, Pháp, Đức,
Nhật,… bí mật thành lập “Uỷ ban thống nhất quản lý thị trường xuất khẩu” để
gây khó khăn cho việc bn bán Đơng – Tây, phá hoại thương trường thế giới,
5
thực chất là để thực hiện bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa.
Theo thống kê thì từ năm 1949 – 1965 có tới hơn 100 lần tàu buôn đi tới Trung
Quốc bị chặn lại và bị cơng kích, nhiều tàu thuyền do Trung Quốc th và
thuyền viên Trung Quốc thậm chí bị giam vơ lý dài ngày ở đất khách quê người.
Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Ai-xen-hao tuyên bố, Mỹ sẽ “giành
thắng lợi bằng hồ bình” chính thức coi “diễn biến hồ bình” là một chiến lược
để lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1955, Ai-xen-hao tuyên bố mục tiêu
của chiến lược “diễn biến hồ bình” là đọc lời cáo chung cho chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản bên thềm thế kỉ XXI.
Tiếp tục tư tưởng của những người tiền nhiệm, Ken-nơ-đi, Giôn-sơn rất
chú trọng bồi dưỡng những hạt giống tự do sau bức màn thép cộng sản, và cho
rằng biện pháp “diễn biến hồ bình” tuy chậm chạp nhưng rất đáng tin cậy.
Trước khi lên nắm quyền tổng thống Ken-nơ-đi đã từng tun bố: “Giải
phóng hoặc diễn biến hồ bình đương nhiên là rất tốt… nhưng Quốc vụ khanh
vẫn chưa đưa ra được những bước đi cụ thể cùng những bước đi quan trọng” và
cho rằng “cần phải coi trọng những bước đi cụ thể”, như: gia tăng tiếp xúc, trao
đổi văn hoá, khoa học, giáo dục… để phá vỡ khoảng cách với phương Tây đã có
từ lâu mà Liên Xô áp đặt cho nhân dân Ba lan; tăng cường quan hệ bằng cách
lợi dụng các loại mậu dịch hữu hình và vơ hình… khuyến khích những người
cùng huyết thống về thăm Ba Lan; nghiên cứu thêm khả năng viện trợ ký thuật
cho Ba Lan… thực chất là để xâm nhập, kích động chống phá nội bộ các nước
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Ba Lan; đồng thời kêu gọi: “Phải hành động ngay,
phải từng bước thận trọng bồi dưỡng hạt giống tự do từ bất kỳ kẽ hở nào được
xuất hiện trên bức màn thép”.
Theo Ken-nơ-đi: “Chính phủ Mỹ sẽ phải chủ động hơn nữa, sử dụng một
loạt công cụ linh hoạt hơn, bằng viện trợ kinh tế, mở rộng buôn bán, tăng số
người du lịch, mở rộng giao lưu giữa sinh viên và giáo viên, mở rộng sự nghiệp
báo chí, vốn kỹ thuật và tăng cường tiếp xúc trong nhân dân, thúc đẩy sự biến
đổi hồ bình đằng sau tấm màn sắt”. Sau khi đắc cử, tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi
6
đã nói về tình hình trong nước: “Nước Mỹ giống như con đạ bàng trên Quốc huy
hình lá chắn của tổng thống, chân phải của nó cắp cành ơliu cịn chân kia cắp
mũi tên, phải coi trọng cả hai chân như nhau” và giải thích “trong đối kháng với
Liên Xơ, một mặt phải giữ thái độ cứng rắn, nhưng mặt khác cũng phải thử xem
liệu chúng ta có thể tìm thấy một số cung cách trao đổi ý kiến nào đó được
khơng”. Thực hiện ý tưởng trên, trong suốt nhiệm kỳ của mình, Ken-nơ-đi đã
thực hiện chính sách “đi hai chân”, một mặt tiếp tục thực hiện các chính sách
cứng rắn như bao vây, cấm vận, chống đối nhưng mặt khác lại vạch ra kế hoạch
“hồ bình” với Liên Xơ; đề xướng “liên minh vì tiến bộ” chi 20 tỉ USD viện trợ
khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Mỹ – Latinh, thành lập
“đội hồ bình” ở châu Phi, điều chỉnh chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” thành
chiến lược “phản ứng linh hoạt”, đồng thời tiến hành “chiến tranh đặc biệt”,
“chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Theo Ken-nơ-đi, dưới ngọn cờ hồ bình có thể
giành được mọi thứ trên bàn đàm phán với Liên Xô và làm gay gắt thêm mâu
thuẫn Xô-Trung để từ đó tăng cường kiềm chế Trung Quốc.
Thời kì chính quyền Nich-xơn, R.Pho, Mỹ suy yếu, đặc biệt là sau chiến
tranh Việt Nam, Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, mất
ưu thế quân sự, bị Liên Xô đuổi kịp và vượt một số mặt về kinh tế, hội chứng
Việt Nam tác động sâu sắc đến nhiều mặt đời sống Mỹ. Trong khi đó, phong trào
giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình này, Mỹ cho rằng: “Diễn
biến hồ bình” khơng thể nơn nóng, khơng thể hồn thành trong mấy chục năm
mà phải trong nhiều thế hệ và chủ trương khuyến khích “tự diễn biến” trong nội
bộ các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho thơng tin phương Tây “như dịng thác xói
mịn và tan rã chế độ cộng sản”. Trong cuốn sách “1999 – Chiến thắng không
cần chiến tranh” Nich-xơn cho rằng “Làm dịu quan hệ Đông – Tây sẽ làm cho
phương Đông xuất hiện sự phân hố lớn hơn. Tình hình căng thẳng sẽ càng củng
cố thêm độc tài. Làm dịu bớt căng thẳng sẽ làm cho chế độ độc tài yếu đi.
Khơng ai phủ nhận chính sách hồ dịu những năm 70 của chúng ta đã thúc đẩy
sự trỗi dậy mạnh mẽ và dẫn tới sự ra đời của phong trạo Cơng đồn đồn kết ở
7
Ba Lan”. Nich-xơn còn khẳng định: “Mở chiến trường tư tưởng, tuyên truyền tự
do, dân chủ và quan niệm giá trị theo kiểu Mỹ phải nắm lấy vấn đề nhân quyền,
nắm vững cuộc đấu tranh về hình thái ý thức, phải mở rộng sự giao lưu với các
nước xã hội chủ nghia để nó chịu ảnh hưởng và chịu tác động của phương Tây.
Làm như vậy, thậm chí ngay cả những nhân vật lỗi lạc của Đảng Cộng sản cũng
khó mà chống đỡ nổi. Đến lúc đó nó sẽ gieo hạt giống tư tưởng, những hạt giống
này sẽ kết thành nụ hoa của diễn biến hồ bình”.
Thời kỳ chính quyền Ri-gân, Mỹ khôi phục kinh tế, quân sự và vị thế
quốc tế, tăng cường sức mạnh trên một số mặt. Các nước tư bản khác cũng vượt
qua khủng hoảng, sản xuất bắt đầu phát triển. Trong khi đó duy trì quá lâu cơ
chế quản lý quan liêu bao cấp và dốc sức chay theo chương trình SDI (chương
tranh trên các vì sao) của Mỹ, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khó
khăn về kinh tế, phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới để tháo gỡ. Một số nước
nóng vội, chủ quan, khơng tơn trọng quy luật khách quan trong cải tổ, cải cách,
đổi mới, làm cho tình hình trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Ngoài ra do sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tao ra xu thế quốc tế
hố nền kinh tế thế giới. Trước tình hình và thời cơ đó, Mỹ từng bước điều chỉnh
chiến lược nhằm xác lập vai trò của Mỹ trên thế giới, chiến lược “diễn biến hồ
bình” tiếp tục được hồn thiện.
Khi điều chỉnh chiến lược, Mỹ ngầm đánh vào bên trong các nước xã hội
chủ nghĩa, đồng thời nghi binh chiến lược, tích cực tuyên truyền chạy đua vũ
trang, thu hút Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa vào cái gọi là “chương
trình SDI”, kéo quân đội Liên Xơ ra ngồi, chạy theo đối phó với “nguy cơ một
cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu”, loại được công cụ sắc bén của
Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là loại được lực lượng KGB ra khỏi cuộc
“chiến tranh ngầm” đang diễn ra gay gắt ngay trong lòng chế độ xã hội chủ
nghĩa. Lợi dụng các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ, cải cách, mở cửa để “mở rộng
dân chủ” tháng 10 năm 1982 Mỹ đã mở hội nghị chuyên đề “dân chủ hoá các
quốc gia cộng sản”, đồng thời vạch dự án “dân chủ toàn cầu” nhằm ủng hộ sự
8
xuất hiện của lực lượng “dân chủ” ở các nước cộng sản, tìm cách đả kích hệ tư
tưởng Mac-xit, đề cao “dân chủ”, “tự do” phương Tây, thúc đẩy sự hoà nhập
kinh tế thế giới để lái cải cách đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ này Mỹ chú ý hơn đối với các “nhân tố bên trong” của các
nước xã hội chủ nghĩa. Theo Ngoại trưởng Mỹ “nhân tố quan trọng của công
cuộc dân chủ hoá trong quốc gia cộng sản phải là thế lực bên trong của nó. Để
tạo ra một đột phá khẩu cần nuôi dưỡng lực lượng dân chủ, bất đồng chính kiến
trong các nước xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời Mỹ cho rằng “thời cơ diễn biến hồ
bình ở Đơng Âu đã chín muồi, Liên Xơ cũng đang tiềm tàng khả năng diễn biến
hồ bình”. Sau chuyến khảo sát các nước xã hội chủ nghĩa năm 1983, cựu Tổng
thống Nich-xơn nhận định rằng: “Những người cộng sản đã hoàn toàn mất đi
lòng tin. Ngày nay, phần lớn họ đã trở thành những người tham lam và quan
liêu. ý nghĩa và niềm tin của Đảng Cộng sản bị sụp đổ… Một thế hệ những
người Đông Âu đang trỗi dậy không phải là các nhà tư tưởng mà là các nhà thực
tiễn cho diễn biến hồ bình”.
Sau khi nhận chức Tổng thống Mỹ G.Bush (năm 1989) đưa ra chiến lược
“vượt trên ngăn chặn” đối với Liên Xô và Đông Âu nhằm đưa cuộc đấu tranh
vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa bị
xô đẩy tới chỗ sụp đổ. Thời kỳ này, Mỹ đặc biệt chú ý đến việc sử dụng lực
lượng phản động bên trong để chống phá, làm suy yếu các nước xã hội chủ
nghĩa; phân biệt đối xử với các nước, tăng cường viện trợ kinh tế, hỗ trợ lực
lượng “dân chủ”, khuyến khích “thị trường tự do” ở Liên Xơ và các nước Đông
Âu nhằm hướng lái các nước này đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội;
ngầm viện trợ lực lượng phản động ở một số nước thuộc “thế giới thứ ba” và
gây sức ép, buộc chính quyền các nước này phải ngả theo Mỹ. Đến đây thì chiến
lược “diễn biến hồ bình” từ ý tưởng thực sự đã trở thành một chiến lược chống
cộng hoàn chỉnh, là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu phản
cách mạng của Mỹ và các thế lực phản động. Với chiến lược này, Mỹ và các thế
9
lực phản động đã thu được kết quả, tạo ra sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Sau khi tạo ra sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu
và Liên Xô, Mỹ (B. Clin-tơn) đã tiến hành chiến lược “can dự”, thực hiện “dính
líu” vào các nước, “khuếch trương” thanh thế của Mỹ để thúc đẩy “dân chủ”,
mở rộng kinh tế thị trường tự do trên phạm vi thế giới, trọng điểm là khi vực
thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, nhằm củng cố thiết lập thể chế tư bản chủ nghĩa
ở khu vực này, đồng thời tăng cường “diễn biến hồ bình” đối với các nước xã
hội chủ nghĩa cịn lại.
Chính quyền Bush (từ 2001) tiếp tục theo đuổi chiến lược “can dự” nhưng
có sự điều chỉnh nhất định. Mỹ xác định sẽ tăng cường “dính líu” vào các nước
nhưng bằng các biện pháp “cứng rắn” hơn, trong đó coi trọng “địn phủ đầu” để
thực hiện cái gọi là “chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ”. Mỹ tuyên bố: “Chủ nghĩa
quốc tế riêng của Mỹ sẽ khơng có bất kỳ sự nhân nhượng nào khiến cho Mỹ
phải rút lui khỏi thế giới, co về pháo đài của chủ nghĩa bảo hộ hoặc về một hòn
đảo biệt lập”.
3. Hiện nay
Sau khi nước Mỹ bị tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, Mỹ ra sức
lợi dụng cuộc chiến “chống khủng bố”, lấy cớ “kiểm sốt việc sản xuất, tàng trữ
vũ khí giết người hàng loạt” để tính tốn, điều chỉnh chiến lược. Đặc biệt sau khi
lôi kéo đồng minh vào cuộc chiến “chống khủng bố” và lôi kéo được một số
nước lớn ngả theo mình, Mỹ đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước cấm tên
lửa đạn đạo (ABM), đẩy nhanh việc thử nghiệm Hệ thống phòng thủ tên lửa
quốc gia (NMD), thành lập “Bộ tư lệnh Bắc Mỹ” tăng chi phí quân sự nhằm
châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang mới, tăng cường khả năng răn đe để
thực hiện ý đồ “xây dựng thế giới một siêu cường” do Mỹ đứng đầu. Mỹ trực
tiếp can thiệp cả bằng quân sự vào nhiều mặt để mở rộng sự ảnh hưởng của
mình ở khu vực Trung Đông và châu á - Thái Bình Dương, đồng thời triệt để lợi
dụng quan hệ kinh tế và vấn đề tôn giáo, dân tộc thông qua chiêu bài “dân chủ,
10
nhân quyền” để “can dự” sâu hơn nhằm “diễn biến hồ bình” đối với các nước
hoặc gây áp lực nhằm hướng lái các nước theo “quỹ đạo” của Mỹ.
Mỹ tuyên bố sẽ thông qua bảo vệ “tự do và công lý”, kiên quyết giữ vững
những địi hỏi khơng thể đàm phán về ‘nhân phẩm”, sự cai trị của pháp luật,
những giới hạn về quyền lực của nhà nước, quyền “tự do ngơn luận, cơng lý,
bình đẳng”… để xố đi những kẻ thù cũ.
Như vậy chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế theo đuổi
chiến lược “diễn biến hồ bình” tới cùng nhằm thủ tiêu các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại để xây dựng một thế giới “đơn cực” do Mỹ chi phối. Đây là ý đồ
bành trướng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lưc phản động quốc tế đe doạ tới
sự ổn định, nền hồ bình của nhân loại.
II- Cơ sở thực tiễn
1. Khái niệm “Diễn biến hồ bình”
“Diễn biến hồ bình” là một chiến lược phá hoại các nước xã hội chủ
nghĩa của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Nó được tiến hành theo
kiểu thẩm thấu dần trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hố, xã
hội… và khi cần thiết thì kết hợp với bạo loạn lật đổ làm tan rã các nước xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch sử dụng mọi âm mưu thủ
đoạn tinh vi, trắng trợn tạo những nhân tố tác động tư bên trong và bên ngồi
nhằm xố bỏ chủ nghĩa xã hội mà khơng cần chiến tranh.
Chiến lược “diễn biến hồ bình” có những đặc điểm:
- Đánh bại chủ nghĩa xã hội bằng phương pháp hồ bình, khơng cần
chiến tranh. Thực sự đó là cuộc chiên tranh khơng cần khói súng.
- Cuộc chiến tranh chủ yếu sử dụng lực lượng gián tiếp thơng qua con
người, lực lượng và phương tiện của chính đối phương, sử dụng các công cụ
ngoại giao, kinh tế, văn hoá - tư tưởng để làm thay đổi chế độ chính trị, khi cần
thiêt mới dùng sức mạnh quân sự – phương tiện để răn đe đối phương.
- Nó mang tính tồn cầu, được triển khai trên quy mơ lớn và rộng khắp,
tiến hành “gặm nhấm”, không vội vã có trọng tâm trọng điểm.
11
- Nó tạo dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng ngay trong lòng các nước xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đặc biệt chú ý tới việc mua
chuộc, lơi kéo những người có chức vụ cao trong Đảng Cộng sản và nhà nước,
những văn nghệ sĩ, tri thức có uy tín, những người có tư tưởng dao động, nhận
thức lệch lạc hoặc bất mãn với chế độ.
2. Khái niệm “Bạo loạn lật đổ”
“Bạo loạn lật đổ” là hành động bạo lực của những lực lượng phản động
nhằm lật đổ chính quyền ở cơ sở và trung ương.
Mục đích của kẻ gây bạo loạn là nhằm thay thế chế độ hiện hành bằng
một chế độ khác. Đó là hành động có tính tốn kỹ càng, có mục tiêu và kế hoạch
và các bước cụ thể. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, có thể có những người bị kích
động, lơi kéo một cách vơ thức, song kẻ cầm đầu bao giờ cũng có chủ đích lật đổ
chính quyền.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong khi sử dụng các phương
thức chống phá không bao giờ từ bỏ phương thức bạo loạn lật đổ khi cần thiết.
Những yếu tố bạo loạn lật đổ thường bao gồm:
- Bọn cầm đầu bạo loạn lật đổ liên kết với các thế lực phản động bên
ngoài. Kẻ cầm đầu khơng nhất thiết phải có mặt trong các cuộc nổi dậy nhưng
chúng nắm rất chắc chắn và chỉ huy chặt chẽ mọi hoạt động bạo loạn.
- Tổ chức lực lượng nịng cốt đóng vai trị hạt nhân kích động, như một
thứ kim hoả chọc vào ngịi nổ làm cho thuốc đạn bùng cháy, gây thành hành
động rộng rãi của số đông những người tham gia. Lực lượng bị kích động được
chuẩn bị trước, thường là những người bất mãn, nhẹ dạ.
- Đã là bạo loạn nhất thiết phải có sức mạnh vũ lực, có vũ khí hoặc hung
khí, có lực lượng sử dụng nó. Sử dụng ở đâu quy mô như thế nào, là tuỳ thuộc
vào diễn biến và cách đối phó của đối phương. Ngồi mục tiêu, kế hoạch, nhiệm
vụ hành động đã vạch trước, bọn bạo loạn lật đổ bao giờ cũng có các phương án
xử tri các tình huống khác nhau nảy sinh.
12
- Trong tình hình hiện nay, những đối tượng có thể gây bạo loạn lật đổ
thường là những người có thâm thù với cách mạng, với nhân dân trước sau
không chấp nhận chế độ; những kẻ là tay sai của các thế lực thù địch; những kẻ
thoái hoá biến chất đã bị cách mạng loại bỏ…
13
CHƯƠNG II
MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CHIẾN LƯỢC
“DIỄN BIẾN HỒ BÌNH”
I- Mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hồ bình”
Mục đích cuối cùng của chiến lược “diễn biến hồ bình” là xố bỏ chủ
nghĩa xã hội trên mọi phương diện: Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xu thế
và con đường phát triển, một học thuyết lý luận, một hệ tư tưởng, một phương
thức sản xuất, một hệ thống giá trị, một phong trào hiện thực và một kiểu chế độ
xã hội. Để đạt được mục đích đó chủ nghĩa đế quốc đặt ra những mục tiêu cơ
bản sau:
Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, thay thế bằng tư tưởng tư sản ở
các nước xã hội chủ nghĩa.
Những nhà lý luận của chiến lược “diễn biến hồ bình” đều cho rằng tư
tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối
phương là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hồ bình”. Muốn xố bỏ chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa đế quốc
đặt mục tiêu đầu tiên và là mục tiêu hết sức quan trọng là xóa bỏ chủ nghĩa Mác
– Lênin. Đồng thời chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh xâm nhập tư tưởng tư sản, làm
cho cuộc đảo chính hồ bình về hệ tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện “đa nguyên
chính trị”, “đa đảng đối lập” ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong chiến lược ‘diễn biến hồ bình”, chủ nghĩa đế quốc tập trung chống
Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội ở các nước xã hội chủ
nghĩa. Chúng thường tung ra các luận điệu: Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo
là “độc tài”, “bóp nghẹt dân chủ”… Vì thế, cần phải thực hiện “đa nguyên lợi
ích”, “đa nguyên chính trị”, tức là chế độ chính trị đa đảng đối lập mà thực chất
là hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhen nhóm các lực lượng phản
14
động chống đối, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, giành lại quyền thống trị xã hội
cho giai cấp tư sản phản động.
Ba là, gây mất ổn định về chính trị các nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch rất quan tâm đến việc gây mất
ổn định chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với Đảng Cộng sản cầm
quyền và chính quyền nhà nước, chúng tác động để làm suy yếu, đổi màu tổ
chức và cán bộ, từ đó dẫn đến chệch hướng về đường lối, chính sách. Chúng tác
động vào những cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện tu dưỡng, từng bước tha hoá
họ thành những người cộng sản “đỏ vỏ xanh lịng” để có thể dùng “cộng sản lật
đổ cộng sản”. Chúng bỏ nhiều công sức và tiền bạc để lơi kéo “những người có
chính kiến bất đồng”, chống chủ nghĩa xã hội, chống sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản trong các nước xã hội chủ nghĩa, dùng họ làm nội ứng cho “diễn biến
hồ bình” về chính trị. Với quần chúng nhân dân thì chúng kích động những vấn
đề “dân chủ”, “dân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, tạo ra tâm trạng khơng tha
thiết gắn bó với chủ nghĩa xã hội, gây mâu thuẫn nội bộ, làm mất sự đồng thuận
xã hội và khi có thời cơ sẽ lơi kéo quần chúng vào những cuộc bạo loạn chính
trị.
Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng của nền kinh tế, tiến tới chi phối khống
chế nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa.
Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội rất quan tâm đến phá hoại nền kinh tế các
nước xã hội chủ nghĩa thông qua chiến lược “diễn biến hồ bình”.Mục tiêu của
chúng là làm suy yếu tiềm lực kinh tế, xâm nhập, chi phối, lũng đoạn kinh tế –
tài chính, chuyển hố nền kinh tế chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Khi nền kinh tế
đã bị chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ chuyển hố xã hội và
sớm muộn chính trị cũng bị chuyển hoá theo.
Năm là, chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo giá
trị phương Tây.
Đặc trưng văn hoá, đạo đức, lối sống cũng là một tiêu chí phân biệt hai
chế độ xã hội đối lập nhau. Trong chiến lược “diễn biến hồ bình”, chủ nghĩa đế
15
quốc đặt một mục tiêu không kém phần quan trọng là xoá bỏ nền văn hoá, đạo
đức, lối sống xã hội chủ nghĩa, thay vào đó là văn hố, đạo đức, lối sống tư sản.
Từ đó làm tha hố con người, tha hố cả một xã hội.
Sáu là, “phi chính trị hố” để “vơ hiệu hóa” qn đội và cơng an.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch biết rằng quân đội và công an
là công cụ bạo lực sắc bén để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa phải “vơ hiệu hố” được lực lượng này.
Chúng cũng biết rằng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của quân đội và
công an bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Muốn “vơ hiệu hố” thì
phải “phi chính trị hố” qn đội và công an, trước hết và quyết định là phải xoá
bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chúng hy vọng rằng khi các lực lượng phản
động được chủ nghĩa đế quốc chỉ đạo, tiếp tay đứng lên lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa, quân đội và công an sẽ “đứng trung lập”, “án binh bất động”, mặc cho
chủ nghĩa xã hội sụp đổ.
Chiến lược “diễn biến hoà bình” là một chiến lược mang bản chất chống
cộng, được triển khai trên diện rộng, mang tính tồn cầu rất nguy hiểm. Tính
phản động của nó thể hiện ở mục đích xố bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một hình thái kinh tế xã hội tiên tiến nhất và xu thế vận động của tiến bộ
xã hội, tiến bộ lịch sử.
Chiến lược “diễn biến hồ bình” mang bản chất giai cấp. Thực chất của
“diễn biến hoà bình” và chống “diễn biến hồ bình” là sự tập trung cao độ đấu
tranh giai cấp gay go, quyết liệt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản được biểu
hiện trong đối kháng giữa hai hệ thống chính trị thế giới xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa. Chừng nào cịn tồn tại hai hình thái kinh tế – xã hội đối lập nhau,
chừng nào còn đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thì cịn
tồn tại “diễn biến hồ bình” là một chiến lược chống Cộng của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế.
Phương châm chủ yếu trong “diễn biến hồ bình” là thực hiện cuộc tiến
công “mềm”, “ngầm”, “sâu” thông qua các thủ đoạn phi vũ trang, kết hợp với
16
các thủ đoạn, biện pháp chiến lược khác. Nếu thời kì chiến tranh lạnh phương
châm chủ yếu là chạy đua vũ trang, chiến tranh xâm lược, “diễn biến hồ bình”
chỉ là một trong những thủ đoạn, biện pháp kết hợp, được tiến hành “ngầm”
trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, thì từ những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập
kỉ 90 thế kỉ XX vị trí của nó được nâng lên tầm chiến lược hồn chỉnh, trong đó
qn sự vẫn quan trọng nhưng chủ yêu giữ chức năng hỗ trợ cho các hoạt động
phi quân sự.
Thủ đoạn chủ yếu của “diễn biến hồ bình” là tận dụng và thúc đẩy những
nhân tố phản động chống đối ngay bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy các
nước xã hội chủ nghĩa vào tình trạng khó khăn, phức tạp, khủng hoảng tồn
diện, qua đó tìm cách chuyển hố từng bước theo con đường tư bản chủ nghĩa,
hoặc sử dụng lực lượng chống đối để thực hiện bạo loạn phản cách mạng, lật đổ
chính quyền cách mạng.
Biện pháp “diễn biến hồ bình” là vận dụng tình thế và thời cơ để thực
hiện cuộc tiến cơng “ngầm” một cách tổng hợp, tồn diện, trên tất cả các mặt:
kinh tế chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hoá tư tưởng, quân sự, ngoại giao…
trong đó tiến cơng về chính trị tư tưởng là then chốt, biện pháp kinh tế là mũi
nhọn, quân sự giữ vị trí răn đe, gây áp lực để hỗ trợ cho các biên pháp khác.
Tuy chiến lược “diễn biến hồ bình” đặt biện pháp hồ bình, phi chiến
tranh lên vị trí ưu tiên nhưng chủ nghĩa đế quốc vẫn thường xun duy trì sức
mạnh qn sự, cơng khai răn đe và sẵn sàng sử dụng đòn quân sự để hỗ trợ cho
biện pháp “diễn biến hồ bình” khi cần thiết.
II- Nội dung chủ yếu của chiến lược “Diễn biến hồ bình”
Khi thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động quốc tế đã tấn công các nước xã hội chủ nghĩa trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung ở một số nội dung chủ
yếu như sau:
a. Trên lĩnh vực tư tưởng lý luận
17
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế luôn coi chống phá
về tư tưởng lý luận đối với các nước xã hội chủ nghĩa là mặt trận quan trọng.
Mục tiêu chống phá chính của chúng là phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin
và các tư tưởng cách mạng khác, phê phán, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Những luận điểm chúng thường gieo rắc là: Chủ nghĩa Mác – Lênin là một
“giáo lý phi khoa học”; những nguyên lý cơ bản của Các Mác, Ăngghen, Lênin
đều là sự áp đặt chứ không phải là tất yếu của lịch sử; Cách mạng Tháng Mười
là sự “đẻ non”, chủ nghĩa xã hội chỉ là “quái thai của lịch sử”, là “sự phát triển
ngoài nền văn minh của nhân loại”… nên “chắc chắn sẽ bị diệt vong”. Mặt khác,
chúng tán dưong, cường điệu hố sự giàu có, văn minh, nền dân chủ, tự do của
xã hội tư bản, che đậy những khuyết tật, những xấu xa của xã hội này. Từ đó để
gây hoang mang, lung lạc tinh thần những người nhẹ dạ cả tin, phá hoại tư
tưởng, tinh thần nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, hòng phủ nhận chủ nghĩa xã
hội cả học thuyết và hiện thực, củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của chủ
nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới.
Chúng tuyên truyền, cổ động cho những luận thuyết tư tưởng tư sản mới,
xố nhồ sự khác biệt bản chất giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; chúng
ca tụng “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, nền “chính trị đa nguyên” để mê hoặc quần
chúng, thực hiện chuyển hố về tư tưởng.
b. Trên lĩnh vực chính trị
Đảng Cộng sản là đối tượng tiến công quyết liệt nhất của chiến lược “diễn
biến hồ bình”. Bộ máy tun truyền của chủ nghĩa đế quốc đã triệt để lợi dụng
những khó khăn, vướng mắc, sai lầm, thiếu sót của các đảng cộng sản trong q
trình thực hiện vai trị lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa để đả kích, bơi nhọ,
gây mâu thuẫn trong nội bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng… nhằm từng bước
làm phân liệt, tan rã hệ thống tổ chức Đảng. Chúng tìm cách hỗ trợ, kích động
các phân tử đối lập gây áp lực đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, chấp nhận bầu cử
tự do theo cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập.
18
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tập trung mọi biện pháp nhằm
xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm suy yếu nhà nước xã hội chủ nghĩa,
gây mất ổn định chính trị, xây dựng, cài cắm lực lượng phản động, tiến tới tổ
chức bạo loạn chính trị, lật đổ chính quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa hoặc tạo
ra “tự diễn biến”, chuyển hoá từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản. Chúng
thường gây sức ép từ nhiều phía, nhiều mặt, đòi các nước xã hội chủ nghĩa thực
hiện “chế độ đa đảng”, thực hiện “dân chủ”, “nhân quyền” để phá vỡ nền
chun chính vơ sản; quyền lược nhà nước là đối tượng quan trọng của chiến
lược “diễn biến hồ bình”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tìm cách
tiếp tay cho lực lượng phản động trong nước đòi chia sẻ quyền lực, từng bước
thiết lập dần thiết chế tư sản, tiến tới thâu tóm quyền lực nhà nước từ đảng cộng
sản. Chúng kích động, móc nối, mua chuộc những người có chính kiến bất đồng
xây dựng lực lượng chống đối trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, dựng lên
các “phe phái” trong nội bộ Đảng Cộng sản, để dùng “cộng sản lật cộng sản”;
chúng cũng chú trọng bắt mối, mua chuộc thế hệ trẻ, con em cán bộ cao cấp của
Đảng và Nhà nước bằng các mồi nhử du học, liên doanh, liên kết kinh tế béo bở,
làm biến chất họ, để nếu không dùng “cộng sản lật cộng sản” được thì sẽ dùng
“cộng sản con lật cộng sản cha” sau này. Trong những điều kiện, thời cơ nhất
định, chúng dùng bạo lực chính trị, thơng qua bầu cử để giành chính quyền, lật
đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chúng cũng ra sức chuẩn bị lực lượng chống đối, chuẩn bị các địa bàn,
nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo phức tạp, vùng biên giới, các
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hố để mưu toan thực hiện những cuộc bạo loạn
chính trị.
c. Chống phá về kinh tế làm suy yếu các nước xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thường sử dụng đòn
chống phá về kinh tế để làm suy yếu các nước xã hội chủ nghĩa và hỗ trợ cho
các hoạt động chống phá khác. Chúng thường chủ động dùng ưu thế về kinh tế
để ngăn chặn, phá hoại sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời
19
tuyên truyền về sự hấp dẫn của nền kinh tế phương Tây để lơi kéo, chuyển hố.
Đặc biệt, chúng thơng qua viện trợ kinh tế để lôi kéo các nước và lợi dụng
những khó khăn về kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa để dùng vật chất mua
chuộc, lơi kéo những người có chức có quyền ở cơ quan kinh tế, nhất là những
cán bộ trong ngành kinh tế mũi nhọn, làm thoái hoá, biến chất cán bộ trong
ngành kinh tế, qua đó hình thành lực lượng “phương Tây hoá” trong bộ máy
trong bộ máy quản lý, điều hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; kích động, thậm
chí tổ chức quần chúng tẩy chay các chính sách kinh tế, lợi dụng công cuộc cải
tổ, cải cách, đổi mới để xâm nhập, chuyển hoá hướng lái nền kinh tế đi chệch
khỏi quỹ đạo chủ nghĩa xã hội.
Một khi nền kinh tế đã bị chuyển hoá tận gốc rễ sẽ kéo theo sự thay đổi cơ
sở hạ tầng và bản chất xã hội. Đây là cái đích của chiến lược “diễn biến hồ
bình” nhằm tới.
d. Trên lĩnh vực văn hoá, lối sống
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức truyền bá văn hoá độc
hại, du nhập lối sống thực dụng, bản năng, vị kỉ, những cặn bã của phương Tây
vào các nước xã hội chủ nghĩa, để làm chuyển hoá văn hoá, lối sống xã hội chủ
nghĩa theo các giá trị phương Tây, nhất là “giá trị Mỹ”, “lối sống Mỹ”. Chúng cổ
vũ cho tư tưởng “tự do”, “dân chủ”… kiểu Mỹ; truyền bá lối sống, văn hoá kiểu
Mỹ; đề cao chủ nghĩa cá nhân, kích thích tâm lý bạo lực đối với lớp trẻ. Đáng
chú ý là sự tác động “diễn biến hồ bình” trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, lối
sống rất dễ đi vào lòng người, nhẹ nhàng êm ái, tưởng như vơ hại, nhưng ảnh
hưởng của nó lại rất sâu sắc, lâu dài, khó gột rửa. Lối sống phương Tây dễ khơi
dậy nhu cầu bản năng hưởng thụ của con người, nên dễ lôi cuốn đam mê, nhất là
với thế hệ trẻ.
Một trong những thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động
quốc tế thường sử dụng là hỗ trợ các tổ chức phản động lưu vong tiến hành hoạt
động móc nối, liên kết với lực lượng phản động ở trong nước để “nội cơng,
ngoại kích” làm suy yếu tiến tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
20
e. Chống phá trên lĩnh vực ngoại giao
Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ngày
càng mở rộng để thực hiện “diễn biến hồ bình”. Thơng qua ngoại giao để chúng
thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động khác, thông qua ngoại giao để gây sức ép
nhiều mặt: kinh tế, chính trị, quốc phịng, an ninh… Chúng cũng khơng từ bỏ
âm mưu chèn ép, cô lập ngoại giao đối với các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ
các nước xã hội chủ nghĩa với các nước khác.
f. Chống phá trên lĩnh vực quốc phịng – an ninh
Ngồi việc chống phá về chính trị tư tưởng, kinh tế và các mặt của đời
sống xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế còn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh. Thơng qua việc
chạy đua vũ trang, tun truyền kích động địi phi chính trị hố qn đội, địi
xố bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Chúng đã kéo quân
đội các nước xã hội chủ nghĩa hướng ra ngồi, chạy theo đối phó với “nguy cơ
một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu” để loại bỏ công cụ sắc bén của
các đảng cộng sản ra khỏi cuộc “chiến tranh ngầm” (“diễn biến hoà bình”) đang
diễn ra gay gắt trong lịng chế độ xã hội chủ nghĩa. Kích động, gây mâu thuẫn
giữa lực lượng quân đội với công an và các lực lượng xã hội khác nhằm chia rẽ,
cô lập lực lượng vũ trang, gây phức tạp bên trong, làm cho tình hình an ninh
chính trị – xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trở nên phức tạp, khó giải quyết.
Như vậy, để chống lại phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế liên tục điều chỉnh phương thức,
thủ đoạn chiến lược. Trong qúa trình đó, chiến lược “diễn biến hồ bình” đã hình
thành, phát triển và trở thành bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu
chống phản cách mạng của chúng.
21
22
CHƯƠNG III
NHỮNG ÂM MƯU VÀ THỦ ĐOẠN CỦA CHIẾN LƯỢC
“DIỄN BIÊN HỒ BÌNH” VÀ “BẠO LOẠN LẬT ĐỔ” MÀ CHỦ
NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH SỬ DỤNG
ĐỂ CHỐNG PHÁ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I-Những sách lược các nước phương Tây thi hành để thực
hiện “diễn biến hồ bình”
Nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình”, các nước phương Tây
đã thi hành đủ mọi kiểu sách lược để tiên hành thẩm thấu và xâm nhập vào mọi
lĩnh vực của các nước xã hội chủ nghĩa, âm mưu làm cho các nước xã hội chủ
nghĩa dần dần thực hiện đa nguyên chinh tri, tư hữu hoá vê kinh tế và theo quan
niệm giá tri phương Tây, cuối cùng trở thành nước phụ thuộc vào các nước tư
bản phương Tây.
Những sách lược chủ yếu của chúng là:
1. Chuyển thế thủ thành thế công, can thiệp vào mọi nơi
Một số người trong chính giới phương Tây cho rằng, chủ nghĩa cộng sản
đã bị “khủng hoảng toàn thê giới”. Lý luận và chế độ của chủ nghĩa cộng sản sẽ
“bị tan vỡ từng mảnh và dần dần bi xoá bỏ”. Dựa trên cơ sở đánh giá tình hình
như vậy, chúng cho rằng thê giới phương Tây cần nắm lấy “cơ hội lịch sử”, biến
thế thủ thành thế cơng và tích cực thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” đối
với các nước xã hội chủ nghĩa. Nich-xơn đã viết trong cuốn “Hoà bình chân
chính”: “35 năm nay, trên các trận tuyến ở Tây Âu, ở châu Á và Đông – Nam Á,
ở toàn bộ thê giới thứ ba, phương Tây vẫn ở vào thế thủ. Hiện nay chúng ta cần
phải thi hành thế cơng khơng chỉ ở Trung Mỹ mà cịn trên tồn thê giới”.
“Chúng ta cần phải thi hành chính sách cạnh tranh giữa hai chế độ với người
Liên Xô, sự cạnh tranh này có thể thúc đẩy chế độ của họ phát sinh biến đổi hồ
bình”. “Nếu chúng ta khơng thi hành thế công, đương nhiên là chúng ta không
thể giành được phần thắng trong cuộc cạnh tranh Mỹ – Xô”. Cựu thủ tướng Anh
23
Thát-chơ, trong bài phát biểu tại Liên minh dân chủ quốc tế, đã trình bày khá lộ
liễu sách lược thế cơng của thế giới phương Tây. Bà ta nói: “Tương lai thuộc về
chính thể tự do dân chủ, đó là sự phát triển của lịch sử. Các nước cộng sản,
không có ngoại lệ, đều đang suy yếu”. “Trên tồn thê giới, tự do là chính nghĩa ở
thế cơng. Chúng ta tràn đầy tin tưởng và hành động kiên quyết”. “Hãy liên hiệp
lại vững chắc, vươn cánh tay của chúng ta ra khắp các đại lục đia và các đại
dương”.
2. Phân hoá làm tan rã, vừa mua chuộc vừa gây sức ép.
Để tiện cho việc thực thi chiến lược “diễn biến hồ bình”, các nước tư bản
phương Tây căn cứ vào yêu cầu của họ và địa vị của mỗi nước xã hội chủ nghĩa,
phân biệt tình hình khác nhau mà thi hành chính sách phân biệt đối xử. Chúng
phân biệt Liên Xô khác với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, phân biệt Liên
Xô, Đông Âu khác với Trung Quốc và các nước khác. Đồng thời họ còn phân
biệt giữa các nước Đông Âu với nhau để thuận tiện cho việc lợi dụng mâu thuẫn,
phân hoá làm tan rã và đột phá từng nước. Đối với Ba Lan và Hung-ga-ri họ thi
hành sách lược cám dỗ và lôi kéo, coi các nước phương Tây, và là “căn cứ thử
nghiệm”. Chúng phân biệt bằng cách cho Ba Lan vay 100 triệu USD và cho
Hung-ga-ri vay 25 triệu USD tín dụng và viện trợ. Đối với Ru-ma-ni, họ thi
hành sách lược cơ lập, đả kích, gây sức ép là chính, và ở đây còn biểu hiện một
thứ chủ nghĩa thực dụng điển hình. Năm 1975, Mỹ muốn “khuyến khích Ru-mani độc lập với Mat-xcơ-va”, “mở rộng vết rạn nứt trong nội bộ tập đồn Liên
Xơ” nên đã tun bố cho Ru-ma-ni hưởng chế độ tối huệ quốc. Năm 1985,
Gooc-ba-chốp lên cầm quyên đã ra sức cải tổ kinh tế và chính trị. Phương Tây
cho rằng niềm hứng thú của Liên Xô trong việc tiến hành đấu tranh chính trị với
Mỹ đã giảm đi rất nhiều, cho nên “tính độc lập” của Ru-ma-ni đã trở nên khơng
quan trọng. Vì thế, lấy lý do Ru-ma-ni không thực hiện cải cách và “xâm phạm
nhân quyên”, Mỹ tuyên bố từ ngày 30-7-1988 đình chỉ cho Ru-ma-ni hưởng chê
độ tối huệ quốc. Đối với Cộng hoà dân chủ Đức, Bun-ga-ri, Tiệp Khắc chúng thi
24
hành sách lược kết hợp giữa lôi kéo và gây sức ép, chỉ phát triển quan hệ kinh tế
mậu dịch có mức độ và khơng cho hưởng những ưu đãi về kinh tế.
3. Xác định trọng điểm, xâm nhập nhiều mặt
Nhìn tồn cục, trọng điểm của chiến lược “diễn biến hồ bình” trước đây
của phương Tây chủ yếu nhằm vào Liên Xơ và Trung Quốc. Đối với Đơng Âu,
cũng có trọng điểm mang tính chất khu vực. Trong từng nước, chúng tập trung
chú ý đi vào học sinh, thanh niên giới trí thức, đảng viên và cán bộ lãnh đạo
đảng. Chúng đặc biệt chú trọng công tác trên phương diên hình thái ý thức, đưa
vào những chuẩn mực của chế độ xã hội phương Tây nhằm tác động tới sự
chuyển biến vê quan niệm giá tri của con người. Xuân hè năm 1989, cuộc động
loạn và bạo loạn phản cách mạng ở Bắc Kinh có liên quan mật thiêt đên sự xâm
nhập nhiều mặt của phương Tây. Về điều đó, một cơ quan chính phủ của một
nước lớn đã cơng khai thừa nhận. Khi cuộc động loạn vừa mới nổ ra, cơ quan
này đã hí hửng nói rằng những người họ phái sang Trung Quốc “đã đóng vai trị
then chốt trong việc truyền bá văn minh phương Tây, văn hoá phương Tây, thúc
đẩy q trình dân chủ hố ở Trung Quốc”.
4. Thận trọng tỷ mỷ, tích luỹ từng bước.
Trong cuốn “1999- Chiến thắng khơng cần chiến tranh”, Nich-xơn nói:
“Chúng ta khơng cần một q trình trợ giúp vun trồng những thành quả nhỏ bé
được tích luỹ từng bước, điều đó tưởng chừng như vơ hiệu quả, thậm chí như
uổng cơng vơ ích. Thế nhưng đây là con đường duy nhất để các nước này cuối
cùng sẽ giành được tự do dân tộc với những mức độ nhất định”. Ông ta cịn viết:
“Muốn thực hiện những biện pháp như thế ít nhất cũng cần thời gian của mấy
thê hệ con người. Điều đó với người Mỹ là một dân tộc khơng kiên nhẫn thì
hồn tồn khơng làm cho người ta thoả mãn. Người Mỹ có thói quen muốn giải
quyết vấn đề trong khoảnh khắc, một sớm một chiều. Nhưng lịch sử rất ít khoan
nhượng với những người nơn nóng. Cũng như bất kỳ sự vật nào thực sự cần
tranh thủ, nên hồ bình chân chính cần phải có thời gian, cần phải nỗ lực hơn
nữa, trước hêt cần phải kiên nhẫn”. Ngày 13-3-1989, tờ “New York Times” đăng
25