BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN: LÝ LUẬN HIẾN PHÁP
Câu hỏi: Anh (chị) hãy phân tích chức năng giám sát của HĐND theo pháp
luật hiện hành. Trình bày quan điểm cá nhân của anh/chị về hiệu quả hoạt động
giám sát của HĐND ở Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Đức Chiến
Lớp: Luật K1VB2 Bắc Giang
Mã SV: VB2BG1003
Bắc Giang, tháng 10/2019
Trả lời
Để thực hiện được mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, một trong những nhiệm vụ quan trọng
được đặt ra đó là kiện tồn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước từ
Trung ương đến địa phương trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại
Điều 113: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Có thể nói HĐND vừa là cơng cụ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình vừa là cầu nối giữa nhân dân với các cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, hoạt động
của HĐND có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa từ đó hoàn thành
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân địa phương, quyết định những chủ
trương, biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng
thời, HĐND thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của HĐND cùng cấp đối với các hoạt động của Thường trực
HĐND, Ủy ban nhân dân (UBND), Toà án nhân dân (TAND), Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND), cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và Ban của HĐND cấp mình; giám sát
quyết định của UBND cùng cấp và nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp. Hoạt động
giám sát (HĐGS) của HĐND hướng tới mục đích bảo đảm các đối tượng chịu sự giám
sát phải thực hiện đúng, đầy đủ Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND trong mọi
hoạt động, những hành vi trái pháp luật sẽ được phát hiện và xử lý nghiêm minh; những
vấn đề chưa phù hợp trong chính sách và pháp luật cũng được tìm ra và khắc phục. Do
đó, chức năng giám sát của HĐND chính là một trong số các cơ chế quan trọng đảm bảo
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân
dân; thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND chính là điều kiện quan trọng để nâng
cao chất lượng hoạt động của HĐND cũng như bộ máy nhà nước.
Chức năng giám sát của HĐND được chính thức ghi nhận lần đầu trong Luật
Tổ chức HĐND và UBND năm 1983, tuy nhiên trong văn bản này chưa đưa ra được
định nghĩa về thuật ngữ "giám sát" mà chỉ đưa ra được nội dung giám sát và đối tượng
chịu sự giám sát của HĐND. Luật Tổ chức HĐND và UBND các năm 1989, năm
1994 và năm 2003 cũng tiếp tục kế thừa và làm rõ hơn các vấn đề về nội dung, đối
tượng và hình thức tiến hành giám sát của HĐND nhưng vẫn chưa đưa ra khái niệm
cụ thể về HĐGS. Khi Luật Giám sát Quốc hội năm 2003 ra đời có đưa ra khái niệm
giám sát như sau:
Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội - HĐND năm 2015 đã đưa ra khái niệm về HĐGS như sau:
“Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
2
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu,
kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”.
1. Nội dung giám sát của HĐND theo luật định
* Nội dung giám sát của HĐND được quy định tại Điều 5, Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội – Hội đồng nhân dân năm 2015:
Thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân
dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu
Hội đồng nhân dân được quy định như sau:
- Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; giám sát
hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và Ban của Hội
đồng nhân dân cấp mình; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
- Thường trực Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp
luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và Hội
đồng nhân dân cấp dưới; giám sát quyết định của Ủy ban nhân dân cùng cấp, nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; giúp Hội đồng nhân dân thực hiện
quyền giám sát theo sự phân công của Hội đồng nhân dân;
- Ban của Hội đồng nhân dân giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động
của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự cùng
cấp; giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân
cùng cấp thuộc lĩnh vực Ban phụ trách; giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc
lĩnh vực Ban phụ trách;
- Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp, luật, văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên ở địa phương và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cùng cấp hoặc về vấn đề do Hội đồng nhân dân, Thường
trực Hội đồng nhân dân phân công;
- Đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thành
viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật;
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân ở địa phương.
Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ban của Hội đồng nhân dân tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác ở địa phương.
* Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh, huyện, xã, cụ thể:
Điều 19, khoản 8, quy định: “Giám sát việc thuân theo Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương, việc thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh; giám sát hoạt động
của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, Ban của HĐND cấp
mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và văn bản của
HĐND cấp huyện”.
3
Điều 26, khoản 4 quy định: “Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND huyện; giám sát hoạt động của
Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, ban của HĐND cấp mình;
giám sát văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và văn bản của HĐND
cấp xã”.
Điều 33, khoản 5 quy định: “Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của HĐND xã; giám sát hoạt động của
Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình; giám sát văn
bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp”.
2. Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân
Để thực hiện vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí và nguyện vọng của nhân dân, HĐND được trao quyền thực hiện chức năng
quyết định và chức năng giám sát. Trong đó, chức năng giám sát của HĐND có vai trị
hết sức quan trọng trong việc bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước diễn ra theo đúng
mong muốn, ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Thứ nhất, HĐGS bảo đảm cho nhân dân được tham gia vào quá trình quản lý và
điều hành đất nước. Thơng qua các hình thức giám sát, nhân dân địa phương có điều
kiện trực tiếp hoặc giám tiếp thể hiện quan điểm, ý kiến của mình về các vấn đề có tác
động tới sự phát triển của xã hội và địa phương, tác động đến đời sống an sinh của
quần chúng nhân dân. Qua đó, tạo dựng khơng khí dân chủ trong việc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước, tăng cường tham gia của nhân dân vào việc thực hiện các
nhiệm vụ của chính quyền và đồng thời phát huy được sức mạnh quần chúng, trí tuệ
tập thể trong quá trình quản lý nhà nước ở địa phương.
Thứ hai, HĐGS góp phần bảo đảm và nâng cao chất lượng các nghị quyết của
HĐND. HĐGS là một kênh thông tin rất quan trọng để HĐND nắm được các yêu cầu
của tình hình thực tiễn, các mong muốn nguyện vọng của cử tri để từ đó đưa ra được các
quyết sách phù hợp. Từ HĐGS, HĐND cũng nhận được các phản hồi từ quá trình thực
hiện pháp luật, thực hiện nghị quyết của HĐND, đánh giá sự phù hợp, tính đúng đắn và
hiệu quả của các văn bản này. Qua đó, kịp thời phát hiện và tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, sửa đổi bổ sung cho phù hợp. Như vậy, HĐGS giúp cho HĐND có căn cứ để
đưa ra được các quyết sách đúng đắn, đảm bảo các Nghị quyết được ban hành bám sát
thực tiễn, có tính khả thi, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cử tri và các quy định của
pháp luật hiện hành.
Thứ ba, HĐGS của HĐND là cơ sở đảm bảo hiệu lực hiệu quả cho hoạt động
quản lý nhà nước. Giám sát chính là cơng cụ hữu hiệu để kiểm sốt việc thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền địa phương đặc biệt là UBND, TAND và
VKSND từ đó ngăn ngừa các hành vi sai lệch, lạm quyền gây tác động tiêu cực lên
đời sống xã hội. Cơ chế giám sát buộc các cơ quan quản lý nhà nước phải nâng cao ý
thức trách nhiệm, tôn trọng nhân dân, tôn trọng pháp luật trong việc đưa ra các quyết
sách, các chủ trương quản lý và phát triển kinh tế xã hội từ đó góp phần bảo vệ lợi ích
chung của cộng đồng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Bên cạnh đó,
HĐGS của HĐND góp phần không nhỏ trong việc phát hiện những sai phạm trong hoạt
động quản lý nhà nước của các cá nhân, các tổ chức khi thi hành cơng vụ từ đó đưa ra các
giải pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời ngăn
chặn được các hành vi tiêu cực trong quản lý nhà nước như quan liêu, tham nhũng....
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND có vai trị rất lớn trong cơng tác giáo dục, phòng
4
ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi sai phạm từ phía các cơ quan nhà nước và qua đó
bảo đảm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở.
Tóm lại, HĐGS của HĐND có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nhân
dân được tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; đảm bảo pháp luật được thực
hiện thống nhất và nghiêm minh, từ đó tác động tích cực đến việc xây dựng và hồn
thiện mơ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Quan điểm cá nhân về hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND ở Việt
Nam hiện nay
Để đảm bảo hiệu lực giám sát, hoạt động giám sát phải đảm bảo chất lượng,
tức là qua quá trình giám sát, chủ thể giám sát phải đưa ra những kết luận chính
xác, những kiến nghị phù hợp mà đối tượng giám sát tâm phục, khẩu phục, tiếp thu
để khắc phục, tổ chức thực hiện sau giám sát nhằm thực hiện tốt vấn đề đang được
giám sát. Như vậy hoạt động giám sát có chất lượng là điều kiện bảo đảm hiệu lực
giám sát, tuy nhiên để đảm bảo hiệu lực giám sát cần có sự chấp hành nghiêm túc
của các đối tượng giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn của đối tượng
giám sát rút ra từ hoạt động giám sát, đồng thời cần có các biện pháp xử lý đối với
các đối tượng giám sát không chấp hành nghiêm các kết luận, đề xuất đó. Khi chất
lượng và hiệu lực giám sát được đảm bảo thì giám sát mới có hiệu quả. Như vậy
giữa chất lượng giám sát, hiệu lực giám sát và hiệu quả giám sát có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, giám sát của HĐND phải đảm bảo chất lượng thì mới đảm bảo
hiệu lực, có hiệu lực thì mới đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh việc đảm bảo
về mặt hiệu lực, khi đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát cần phải tính tốn những
chi phí đầu tư cho hoạt động giám sát (như nhân lực, thời gian, vật chất...) và
những chi phí này cần phải ở mức tối ưu. Như vậy, hiệu quả giám sát của HĐND là
hiệu lực thi hành các kiến nghị của hoạt động giám sát, đem lại kết quả phù hợp
với mục đích giám sát, với những chi phí hợp lý về nhân lực, thời gian, vật chất ...
cho hoạt động giám sát, góp phần tác động đến đời sống kinh tế- xã hội, quốc
phịng- an ninh, cơng tác quản lý nhà nước ở địa phương.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định “Giám
sát của Quốc hội, HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước...
Hiệu quả giám sát của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả giám sát tại kỳ họp
HĐND, giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu
HĐND và các đại biểu HĐND.
Có nhiều yếu tố có vai trị quan trọng đảm bảo hiệu quả giám sát của
HĐND, trong đó trước tiên là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt
động giám sát của HĐND. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã
hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo nhà nước bằng việc đề ra chủ trương, chính sách, đường lối chính
trị để nhà nước thể chế hóa thành pháp luật. Hoạt động của HĐND - cơ quan
quyền lực nhà nước tại địa phương nói chung, hoạt động giám sát của HĐND nói
riêng đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là nguyên tắc chung của hoạt động quản lý nhà nước cũng như
của hoạt động của cơ quan dân cử, trong đó có hoạt động giám sát của HĐND các
cấp. Chính vì vậy sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động giám
sát của HĐND là yếu tố đầu tiên tác động đến hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND.
5
Thứ hai, các quy định của Hiến pháp, pháp luật về hoạt động giám sát của
HĐND. Đây chính là cơ sở pháp lý cho HĐND thực hiện chức năng, thẩm quyền
giám sát và là yếu tố quan trọng có tác động rất lớn đến hiệu quả giám sát của
HĐND. Căn cứ vào các quy định về trách nhiệm, quyền hạn, thủ tục, trình tự giám
sát... được pháp luật quy định, từng chủ thể giám sát của HĐND mới thực hiện
được chức năng giám sát của mình. Nếu như Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 đã cụ thể hơn về hoạt động giám sát của HĐND so với các luật trước đó thì
với Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, luật riêng về hoạt động giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước cho thấy càng quy định cụ thể, chi tiết về thẩm
quyền, hình thức, trình tự giám sát thì hoạt động giám sát càng có điều kiện để đạt
được hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, cơ cấu, tổ chức bộ máy của HĐND. Yếu tố này có vai trị đặc biệt
quan trọng, quyết định kết quả hoạt động của HĐND, trong đó có hoạt động giám
sát. Trước đây HĐND là cơ quan hoạt động không thường xuyên, bên cạnh đó đại
biểu HĐND chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm nên hoạt động của HĐND nói chung
và hoạt động giám sát của HĐND nói riêng cịn hạn chế. Với những thay đổi trong
quy định của pháp luật theo hướng chú trọng nâng cao vai trò hoạt động HĐND,
đặc biệt từ khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có hiệu lực, tổ
chức bộ máy của HĐND được tăng cường, cụ thể Thường trực HĐND tăng về số
lượng (cấp tỉnh gồm Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng các Ban và Chánh
Văn phòng HĐND; cấp huyện gồm Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng các
Ban của HĐND); lực lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách tăng (cấp tỉnh
gồm 02 Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; mỗi Ban của HĐND gồm 02 Phó Trưởng Ban
hoạt động chuyên trách; Chánh Văn phòng HĐND là đại biểu HĐND hoạt động
chun trách; ngồi ra Chủ tịch HĐND có thể hoạt động chuyên trách); HĐND cấp
xã được thành lập 02 Ban; cấp tỉnh, cấp huyện tổ đại biểu HĐND chính thức được
quy định là một chủ thể giám sát. Cơ cấu, tổ chức bộ máy đó là điều kiện để hoạt
động giám sát của HĐND được chuyên nghiệp và ngày càng hiệu lực, hiệu quả.
Thứ tư, nhận thức và trách nhiệm của đối tượng giám sát về hoạt động giám
sát. Đối tượng giám sát của HĐND rất rộng và trong thực tế, cơ bản đối tượng
giám sát đều không mong muốn được giám sát, rất ngại bị giám sát vì quá trình
giám sát sẽ khiến cho cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chuẩn bị báo cáo, tài liệu liên
quan, phải tham gia làm việc với chủ thể giám sát và đặc biệt là tâm lý lo ngại khi
giám sát, chủ thể giám sát sẽ phát hiện ra những hạn chế, việc làm chưa đúng pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát, sẽ bị xử lý, kiến nghị xử lý.
Việc nhận thức đúng về giám sát của HĐND đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là
tiền đề để đối tượng chịu sự giám sát thực hiện đúng trách nhiệm của mình, qua đó
tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tổ chức giám sát của chủ thể giám sát và nhờ
đó q trình giám sát có điều kiện để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.
Thứ năm, nhận thức, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng
giám sát của đại biểu HĐND. Con người là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của tổ chức. Trong tổ chức HĐND, đại biểu HĐND chính là chủ thể
thực hiện hoạt động giám sát, quyết định chất lượng, hiệu quả giám sát. Muốn hoạt
động giám sát được thực hiện đúng quy định của pháp luật, kết quả đạt được đúng
vai trị nó đảm đương thì trước tiên chủ thể giám sát phải nhận thức đúng về bản
6
chất, vai trò của hoạt động giám sát cũng như trách nhiệm của chủ thể giám sát mà
bản thân đang đảm nhiệm. Cùng với đó người đại biểu HĐND phải có đầy đủ tiêu
chuẩn được pháp luật quy định, có năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành
các hoạt động giám sát.
Thứ sáu, sự phối hợp của các cơ quan liên quan trong thực hiện hoạt động
giám sát của HĐND. Hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện trên phạm vi
rộng, với nhiều lĩnh vực. Để thực hiện giám sát, HĐND có thể mời Ủy ban MTTQ
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
tham gia hoạt động giám sát. Vì vậy sự phối hợp của các cơ quan này trong hoạt
động giám sát rất quan trọng. Khi phối hợp tích cực, các cơ quan này có thể bố trí
người có chun mơn, năng lực tham gia thành viên đồn giám sát, đóng góp vào
kết quả, chất lượng giám sát, từ đó mang lại hiệu lực, hiệu quả giám sát. Khi khơng
phối hợp, các cơ quan này có thể từ chối không tham gia giám sát của HĐND hoặc
bố trí cán bộ khơng có đủ năng lực tham gia hoạt động giám sát, và nhân lực tham
gia đó sẽ khơng đóng góp được gì cho hoạt động giám sát, thậm chí có thể làm ảnh
hưởng khơng tốt tới quá trình giám sát của HĐND.
Thứ bảy, các điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát của HĐND, bao
gồm nhân lực, vật lực, thời gian... để phục vụ hoạt động giám sát. Nhân lực ở đây
chính là cơng tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng HĐND và đội ngũ lãnh đạo,
chuyên viên, nhân viên của Văn phòng. Thực tế hoạt động giám sát của HĐND cho
thấy, chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND có sự đóng góp quan trọng của
Văn phòng và đội ngũ lãnh đạo, chuyên viên, nhân viên tham mưu, giúp việc
HĐND. Đối với HĐND cấp tỉnh, mặc dù số lượng đại biểu chuyên trách có tăng
nhưng mỗi Ban của HĐND chỉ có 2 đến 3 lãnh đạo Ban chuyên trách, với phạm vi,
lĩnh vực mỗi Ban phụ trách rộng, các Ủy viên còn lại hoạt động kiêm nhiệm. Đối
với HĐND cấp huyện, cấp xã số đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách rất ít, Ủy
viên các Ban, các đại biểu HĐND còn lại đều hoạt động kiêm nhiệm, thời gian
giành cho hoạt động HĐND khơng nhiều, do đó các chun viên của Văn phịng
chính là người tham mưu giúp HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND
xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức phục vụ các cuộc giám sát, đảm bảo
điều kiện để hoạt động giám sát đạt kết quả tốt; trong một số cuộc giám sát, chuyên
viên của Văn phòng cũng được bố trí tham gia thành viên của các cuộc giám sát.
Bên cạnh đó, để thực hiện hoạt động giám sát của HĐND, phải bố trí thời
gian, kinh phí, trang thiết bị để thực hiện giám sát, phương tiện đi giám sát...Để
đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát, cần tính đến hai mặt của đầu tư chi phí cho
hoạt động giám sát. Một là, phải đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND
theo yêu cầu của nội dung hoạt động. Việc đầu tư thỏa đáng sẽ có tác động tích cực
nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Ví dụ đối với đại biểu HĐND cấp tỉnh
đang công tác tại cơ quan cấp xã, khi tham gia hoạt động giám sát trên địa bàn tỉnh,
xa nơi cư trú của đại biểu, nếu khơng bố trí được phương tiện đi giám sát, ngồi
sinh hoạt phí theo quy định chung hiện nay, HĐND tỉnh nên hỗ trợ thêm kinh phí
chi xăng xe đi lại cho đại biểu đó. Hai là, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của
HĐND phải tối ưu, tức là đủ mức cần thiết, trên cơ sở tiết kiệm, chống lãng phí./.
7