Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài thu hoạch diễn án dân sự hồ sơ 07 ly hôn Nguyệt Hảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.46 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
🙣🙣🙣

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
MÔN: KỸ NĂNG THAM GIA GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

HỒ SƠ SỐ: LS.DS.07
TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

1


BỚ CỤC BÀI THU HOẠCH
1. Tóm tắt nội dung tranh chấp
2. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi

kiện
2.1.

Phần trình bày của nguyên đơn

2.2.

Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

3. Câu hỏi dự kiến tại Tòa án
3.1.

Kế hoạch hỏi nguyên đơn


3.2.

Kế hoạch hỏi bị đơn

3.3.

Kế hoạch hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

4. Bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

2


1.
a.

TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hảo, sinh năm 1978
HKTT: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.
Trú tại: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, Tp. Hải Dương.

b.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt, sinh năm 1976
HKTT và chỗ ở hiện tại: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.

c.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-


Bà Nguyễn Thị Thoa, sinh năm 1944

-

Ông Nguyễn Văn Cang, sinh năm 1933
Cùng trú tại: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương.
Nội dung vụ án:

Ngày 26 tháng 03 năm 1999, Bà Nguyễn Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt kết
hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hơn tại UBND xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương. Trong quá trình chung sống bà Nguyễn Thị Hảo và ơng Nguyễn
Văn Nguyệt đã có với nhau 02 (hai) người con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày
04/01/2000) và Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/6/2007).
Từ năm 2002 (02 năm sau khi kết hôn) đến thời điểm cuối năm 2014, ông Nguyệt
và bà Hảo liên tục có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn từ phía bà Hảo cho
rằng do ông Nguyệt hay đi chơi, về đánh chửi vợ con, khả năng hàn gắn là khơng thể. Về
phía Ơng Nguyệt cho rằng nguyên nhân là do bà Hảo hay ghen, thường bỏ về nhà bố mẹ
vợ mỗi khi có cãi nhau với Ông Nguyệt.
Ngày 02 tháng 01 năm 2016, bà Hảo khởi kiện ly hôn với chồng là ông Nguyệt, nội
dung yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề như sau:
(i)

Về quan hệ hôn nhân: Cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, hai vợ chồng sống ly
thân hơn 01 năm. Vì vậy, bà Hảo đề nghị Tịa án giải quyết cho ly hôn với ông Nguyệt.

(ii)

Về con chung: bà Hảo đề nghị được nuôi 02 cháu và không yêu cầu ông Nguyệt phải cấp
dưỡng.


(iii)

Về tài sản chung: các bên tranh chấp tài sản chung như sau:
● Vấn đề đối với đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2, Bà Hảo đề

nghị được chia ½ diện tích đất trên.
● Về tài sản trên đất có nhà và một số cơng trình phụ, bà Hảo không đề nghị chia

tài sản trên đất, xin được lấy phần khơng có tài sản trên đất.
● Về thửa đất ruộng ao khoán tọa lạc tại địa chỉ: Bãi Nam, Khu dân cư số 02

Thượng Trệt, xã Thượng Đạt, Tp. Hải Dương với diện tích là 1965 m 2 để sử
3


dụng vào mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Bà Hảo có đề nghị được th
khốn lại một nửa diện tích đất trên, các tài sản trên đất thuộc về đất th khốn
của bên nào thì bên đó được sử dụng.
(iv)

Về nợ chung: Nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh
Hải Dương số tiền là 20.000.000 đồng và lãi suất phát sinh. Bà Hảo đồng ý chịu một nửa
số tiền nợ chung.

Đối với các yêu cầu trên của nguyên đơn, bị đơn – anh Nguyệt có những ý kiến như sau:
(i)

Về quan hệ hôn nhân: Đồng ý với yêu cầu xin ly hơn của chị Hảo.


(ii)

Về con chung: Ơng Nguyệt đề nghị được nuôi cả hai cháu, không yêu cầu bà Hảo
phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Riêng cháu Nguyễn Đức Anh xin được ở với
ông Nguyệt.

(iii)

Về tài sản chung:
● Vấn đề đối với đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2, ơng

Nguyễn Văn Nguyệt không đồng ý là tài sản chung mà cho rằng đó là tài sản
của bố mẹ.
● Về tài sản trên đất có nhà và một số cơng trình phụ, ơng Nguyệt thống nhất giá

trị về các tài sản trên đất với bà Hảo và xin được chia đôi tài sản này.
● Về thửa đất ruộng ao khoán của UBND xã Thượng Đạt, ông Nguyệt không

đồng ý đề nghị chia đôi một nửa diện tích đất này với bà Hảo.
(iv)

2.

Về nợ chung: ông Nguyệt không yêu cầu bà Hảo trả số nợ chung.

YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN VÀ CHỨNG CỨ CHỨNG MINH
CHO YÊU CẦU KHỞI KIỆN
2.1

Phần trình bày của nguyên đơn

Yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương giải quyết cho những yêu cầu sau
đây:
- Yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt.
- Yêu cầu được nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày 04/1/2000) và

cháu Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/6/2007) và không yêu cầu anh Nguyệt cấp
dưỡng.
- Yêu cầu chia tài sản chung là đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m2

đất tại xã Thượng Đạt, TP. Hải Dương. Tôi yêu cầu chia đôi đất bằng hiện vật. Chị
Hảo nhận 108 m2.
2.2

Các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
4




01 (một) bản sao giấy chứng nhận đăng kí kết hôn.



01 (một) bản sao giấy khai sinh của cháu Nguyễn Đức Anh.



01 (một) bản sao giấy khai sinh của cháu Nguyễn Thị Nhi.




01 (một) bản sao hộ khẩu.



01 (một) đơn đề nghị của cháu Nhi.



01 (một) đơn đề nghị của cháu Anh.



01 (một) Biên bản lấy lời khai của bà Thoa.



01 (một) biên bản xác minh của cán bộ địa chính xã.



06 (sáu) biên bản Hịa giải cơ sở.

3.
3.1.

CÂU HỎI DỰ KIẾN TẠI PHIÊN TÒA
Kế hoạch hỏi nguyên đơn
Bà làm việc tại Công ty may được bao lâu rồi? Hiện nay bà cịn làm tại Cơng ty đó
khơng? Ngồi thu nhập đó, bà cịn thu nhập nào khác khơng?


1.

2.

Ơng Nguyệt có đóng góp gì phụ bà để chăm lo gia đình và các cháu hay khơng?

3.

Bà Hảo cho biết, ơng Nguyệt có chơi lơ đề, cờ bạc, rượu chè khơng?

4.

Bà ghen tng chồng bà có căn cứ nào khơng?

5.

Từ trước đến nay, ơng Nguyệt có chửi bới, đánh đập bà không?

Mâu thuẫn giữa 2 vợ chồng diễn ra từ khi nào? Khi mâu thuẫn xảy ra, ơng Nguyệt
có đuổi bà ra khỏi nhà không?

6.

7.

Tại sao bà thường xuyên bỏ về nhà mẹ đẻ khi hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn?

Theo như trong lời khai thì bà nói hai vợ chồng thực tế đã sống li thân từ cuối năm
2014, xin bà giải thích điều đó có nghĩa là như thế nào?


8.

9.

Bà có cịn tình cảm với ơng Nguyệt khơng?

Ngồi lý do ơng Nguyệt chửi bới ra cịn lý do nào khác khiến bà u cầu Tịa án
cho ly hơn với ơng Nguyệt khơng?

10.

Bà có căn cứ nào cho rằng ông Nguyệt đánh, hành hạ cháu Đức Anh nếu như cháu
Đức Anh gặp chị không? Nếu như chị gặp cháu Anh thì Ơng Nguyệt sẽ có hành xử như
thế nào với 2 mẹ con?

11.

Bà có lường trước những khó khăn nếu sau khi được ly hơn một mình phải gánh
vác nuôi 2 con nhỏ, nuôi dạy chăm lo cho con ăn học trở thành người có ích cho xã hội?
Bà có điều kiện gì để đảm bảo rằng khi 2 cháu ở với chị sẽ có đầy đủ điều kiện để phát
triển về mặt thể chất, năng lực và được học hành?

12.

5


Bà xác định là thửa đất số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, đất tại xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương có nguồn gốc từ đâu?


13.

14.

Chi phí làm nhà, cải tạo nhà đất trên thửa số 496 là của ai bỏ ra?

Bà và ơng Nguyệt có làm đơn đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa đất số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, đất tại xã Thượng Đạt, thành phố
Hải Dương khơng?

15.

3.2.

16.

Cịn về thửa đất với diện tích 1965 m2 thì chị có mong muốn và u cầu gì?

17.

Về khoản nợ vay NH Agribank 20 triệu đồng, hướng giải quyết của chị như nào?

Kế hoạch hỏi bị đơn
1. Ông cho biết mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ khi nào?
2. Ơng cho biết ơng có từng bao giờ đánh Bà Hảo không? Tại sao?
3. Sau khi bà Hảo bỏ nhà đi, ơng có tìm cách liên hệ với bà Hảo khơng?
4. Anh có cho bà Hảo gặp cháu Nguyễn Đức Anh không?
5. Theo biên bản xác minh 09/03/2016 của ông Đỗ Văn Tự - cán bộ tư pháp xã


Thượng Đạt ghi nhận có phải khi cháu Anh gặp mẹ ruột là chị Nguyệt về bị hành
hạ, ơng có ý kiến gì về lời ghi nhận này khơng?
6. Anh cho rằng thủ tục cấp GCN QSDĐ là không đúng theo quy định pháp luật thì tại

sao anh lại khơng làm đơn khiếu nại tại thời điểm lúc bấy giờ?
7. Theo như Biên bản số 24/BB-UBND ngày 08/6/2016 mà UBND xã Thượng Đạt

cung cấp cho Tịa án, ơng và bà Hảo có làm đơn đề nghị được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa đất số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2, đất tại xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương khơng?
8. Chi phí xây nhà, cải tạo đất do ai bỏ ra?
9. Ông cho biết hiện tại ơng làm gì? Thu nhập của ơng là bao nhiêu? Có ổn định

khơng? Có đảm bảo đầy đủ cuộc sống tốt cho cháu Đức Anh không?
10. Cháu Đức Anh năm nay bao nhiêu tuổi? Ý kiến của cháu Đức Anh muốn ở với ai

sau khi ông ly hôn với Bà Hảo?
11. Trong thời gian chung sống, ai là trụ cột tạo nguồn thu nhập cho gia đình?
12. Ơng có đóng góp cho gia đình và chăm sóc ni dạy các con ơng hay khơng?
3.3.

Kế hoạch hỏi người có quyền và nghĩa vụ liên quan
1. Bà Nguyễn Thị Thoa: Vào thời điểm UBND cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng anh

Nguyệt – chị Hảo, bà có biết khơng? Bà có biết anh Nguyệt và chị Hảo đứng tên
trên GCN không? Lúc đó, bà có ý kiến phản đối gì khơng?

6



2. Đại diện UBND thành phố Hải Dương: Ơng/bà có ý kiến gì đối với yêu cầu hủy

Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên ông Nguyễn Văn Nguyệt và bà Nguyễn Thị
Hảo?
3. Đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn Việt Nam: Ơng/bà có ý

kiến gì về thỏa thuận trả nợ của nguyên đơn và bị đơn?

3

7


4.

BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị đại diện VKS và các luật sư đồng nghiệp.

Tôi, luật sư ………, thuộc Công ty ……………., đến từ Đồn luật sư TP. Hồ Chí
Minh. Hơm nay tơi tham dự phiên tịa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nguyên đơn là bà Hoàng Thị Hảo trong vụ án vụ án dân sự thụ lý số
20/2016/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2016 về việc "ly hôn, nuôi con, chia tài
sản".
Sau khi nghiên cứu tồn bộ hồ sơ có liên quan, thơng qua theo dõi diễn biến phần
xét hỏi tại phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin đưa ra một số quan điểm bảo vệ như sau:
Về phần trình bày về quá trình hơn nhân của ơng Nguyệt và Bà Hảo, bên ngun
đơn xin phép khơng trình bày lại một lần nữa. Theo đó, tơi xin được trình bày các ý kiến
và quan điểm bảo vệ cho nguyên đơn như sau:
Thứ nhất, u cầu xin ly hơn của Bà Hảo là hồn tồn có căn cứ pháp luật theo
quy định Điều 55 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 và các bằng chứng, lời khai của các

đương sự tại phiên tịa hơm nay cho thấy hai bên đã tiến hành hòa giải nhưng khơng
thành, tình trạng của vợ chồng trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích
hơn nhân khơng đạt được.
Tại biên bản xác minh ngày 09/3/2016 với ông Bích cán bộ địa chính xã và biên
bản lời khai của ơng Qút ngày 21/3/2016, bà Nguyệt chịu khó làm ăn, vun vén gia đình,
tham gia cày cấy cùng chồng, làm kinh tế thêm cho gia đình. Và qua các biên bản lấy lời
khai, biên bản Hòa giải, lời khai tại Tịa ngày hơm nay của ơng Nguyệt và Bà Hảo đã cho
thấy cuộc sống hôn nhân giữa ông Nguyệt và bà Hảo thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do
không hợp về lối sống, quan điểm bất đồng dẫn đến cãi nhau và hồn tồn khơng thể hàn
gắn được, ơng Nguyệt thường xuyên chửi bới Bà Hảo, buộc Bà Hảo phải bỏ về nhà mẹ đẻ.
Cuối 2014, Bà Hảo dọn ra ở riêng và từ đó đến thời điểm hiện tại cả hai đã ly thân với
nhau.
Kính thưa Hội đồng xét xử, qua những bằng chứng xác thực nêu trên đủ để chứng
minh rằng tình trạng hơn nhân của vợ chồng bà Hảo thật sự trầm trọng, thực chất là họ đã
khơng cịn sống với nhau từ năm 2014 đến nay, chính vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xét
cho thân chủ tôi được ly hôn theo như mong muốn.
Thứ hai, Bà Hảo nếu ly hôn với ông Nguyệt thì Bà Hảo là người có quyền ni
dưỡng cháu Đức Anh và Nhi là hợp tình, hợp lý, đúng nguyện vọng thỏa đáng của hai
cháu, cũng như bảo đảm được lợi ích cho sự phát triển của cháu Đức Anh và Cháu Nhi.
Cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04 tháng 01 năm 2001 (15 tuổi) và cháu Nguyễn
Đức Anh sinh ngày 13 tháng 6 năm 2007 (8 tuổi 6 tháng) là con chung trong thời kỳ hôn
nhân của Bà Hảo và ơng Nguyệt. Hiện tại thì cháu Nhi đang sống với Bà Hảo, cháu Đức
Anh đang sống cùng với ông Nguyệt. Theo hồ sơ vụ án bản lấy lời khai của cháu Đức Anh
ngày 05/7/2016 và cháu Nhi ngày 20/01/2016, thì cháu hai cháu đều có nguyện vọng
8


muốn được ở cùng với Bà Hảo. Như vậy, nguyện vọng của hai cháu là muốn được ở cùng
người mẹ, để ni nấng chăm sóc cho cháu, như vậy thiết nghĩ Tòa cần xem xét kĩ điều
này bởi sự mong muốn, nguyện vọng của con trẻ chính là căn cứ có giá trị hơn cả khi xem

xét chọn ra người thích hợp yêu thương quan tâm cho cháu. Bởi hơn ai hết con trẻ là
người cảm nhận rõ nét nhất so sánh đúng nhất tình thương của cha mẹ. Ngồi ra, với thu
nhập cố định hàng tháng là 5 đến 6 triệu đồng so với với mặt bằng sinh hoạt chung tại địa
phương và hiện nay bà Hảo đang ở tại nhà bố mẹ Bà Hảo, với chỗ ở ổn định thì Bà Hảo có
thể đủ điều kiện để ni dạy hai cháu khôn lớn. Với số tiền này, trước đến nay, Bà Hảo đã
vun vén, lo cho sinh hoạt gia đình, ngồi ra cịn phụ thêm cho ơng Nguyệt trả tiền khốn
đất ruộng, chăn ni làm ăn kinh tế cho gia đình, trả nợ ngân hàng. Nay khơng vì lý do gì
mà khơng thể ni các cháu khơn lớn một cách đầy đủ và tồn diện. Bên cạnh đó, trong
gia đình, người gần gũi và thường xuyên chia sẻ tâm tư tình cảm của hai cháu là Bà Hảo.
Có thể khẳng định, Bà Hảo nuôi hai cháu là đảm bảo mọi điều tốt nhất cho cháu, bởi bà có
đầy đủ điều kiện về mặt vật chất và tinh thần để chăm sóc và quan tâm cháu một cách
hồn tồn cho đến khi các cháu trưởng thành. Đồng thời, hai cháu là anh em, đang tuổi
còn nhỏ, nếu được chung sống, quan tâm, đùm bọc giúp đỡ, yêu thương nhau thì tình cảm
anh em mới gắn kết. Do đó, Bà Hảo có nguyện vọng được ni hai con đến lúc trưởng
thành là phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị Quý Tòa xem xét, cân nhắc.
Thứ ba, về các tài sản chung để phân chia khi ly hôn.
Theo biên bản lời khai của bà Hảo và ông Nguyệt, Biên bản thỏa thuận giá trị tài
sản ngày 20/6/2016, các Biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa hơm nay, ơng Nguyệt
và bà Hảo có tài sản chung gồm:
● Về nhà ở: có 01 căn nhà ở cấp 4 được xây dựng trên thửa số 496 tờ bản đồ số 01,

bể nước, giếng, tường bao. Tổng giá trị là 4.100.000 đồng.
● Về đất đai: thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01 với 216m2 đất, trong đó có 200m2 đất ở

và 16m2 đất cây lâu năm. Giá đất ở là 3.000.000 đồng/m2; giá đất cây lâu năm là
300.000 đồng/m2.
Theo Điều 14 Luật HNGĐ 1986, thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ
hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho
chung.

Đối với nhà ở và tài sản gắn liền đã được ông Nguyệt và bà Hảo thống nhất và xác
định là do hai vợ chồng cùng xây dựng, tạo lập sau khi kết hôn, hai vợ chồng cùng chung
sống tại căn nhà nêu trên. Do đó, căn cứ theo Điều 14 Luật HNGĐ 1986, nhà ở và tài sản
gắn liền là tài sản chung, cơng sức đóng góp của vợ chồng.
Đối với thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01, với diện tích 216m2 đất, trong đó có 200m2
đất ở và 16m2 đất cây lâu năm. Theo Biên bản số 24/BB-UBND của UBND xã Thượng
Đạt về việc xét duyệt nguồn gốc sử dụng đất ngày 08/6/2016 trên có nguồn gốc như sau:
Đất có nguồn gốc do bà Thoa và ông Cang (bố mẹ ông Nguyệt) mua đất với giá 1.500.000
9


đồng/suất năm 1991. Năm 1999, bà Hảo và ông Nguyệt kết hơn, sau đó được ơng Cang,
bà Thoa và các anh chị em trong gia đình thống nhất đồng ý cho ra ở riêng, làm nhà trên
đất đó. Năm 2005, UBND huyện Nam Sách đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho vợ chồng anh chị. Mặc dù, bà Thoa, ơng Cang, các anh em trong gia đình (ơng Chiến,
ông Quyết, ông Cương) biết giấy chứng nhận được cấp cho hai vợ chồng ông Nguyệt, bà
Hảo nhưng không phản đối (vì theo lời khai của các anh em ơng Nguyệt, ơng Nguyệt và
bà Hảo có sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay tiền tại ngân hàng
cho anh em trong gia đình, nên các anh em đều biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp cho cả hai vợ chồng). Vì đất có nguồn gốc của cha mẹ ông Nguyệt, được cha mẹ
ông Nguyệt cho ở và xây dựng nhà ở ổn định, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và các thành viên trong gia đình biết nhưng khơng phản đối nên điều đó thể hiện
ý chí của gia đình bà Thoa và ông Cang là đã cho ông Nguyệt và bà Hảo diện tích đất nêu
trên. Do đó, việc bà Thoa và ông Nguyệt khai rằng UBND huyện Nam Sách tự ý kê khai
giấy tờ đất cho hộ gia đình ơng Nguyệt và bà Hảo, bà Thoa khơng biết là khơng có cơ sở
chấp nhận. Như vậy, có căn cứ xác định lời khai của bà Hảo về việc gia đình bà Thoa đã
cho ơng bà diện tích đất trên, là có cơ sở.
Vì vậy, căn cứ Điều 42 Luật HNGĐ 1986, thì tài sản chung của vợ chồng được chia
đơi, nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình
và cơng sức đóng góp của mỗi bên; khi chia tài sản, phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và

của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp. Do
đó, việc chia tài sản chung của vợ chồng sẽ được xem xét dựa trên cơng sức đóng góp của
mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản và nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử
dụng tài sản đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết chia đôi tài sản chung là căn
nhà, đất và tài sản gắn liền trên đất cho cả hai bên, có xem xét dành phần ưu tiên nhiều
hơn vì lợi ích của người vợ và các con chưa thành niên.
Với những căn cứ như trên, kính đề nghị HĐXX chấp nhận:
1.

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà Hảo;

2.

Giao 2 cháu Đức Anh và cháu Nhi cho Bà Hảo trực tiếp nuôi dưỡng;

3.

Cân nhắc quyết định phân chia nhà và đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại địa chỉ xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương là tài sản chung của Bà
Hảo và ông Nguyệt, dành phần ưu tiên nhiều hơn vì lợi ích của người vợ và các con
chưa thành niên.

Trên đây là phần trình bày bản luận cứ của tơi, kính mong Hội đồng xét xử xem xét và giải
quyết theo quy định pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ tôi cũng như
các đương sự tham gia phiên tòa.
Xin cám ơn ý lắng nghe Hội đồng xét xử.

10




×