Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Thuyết lệch pha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.58 KB, 15 trang )

THUYẾT LỆCH PHA
PETER BARRY(*)
Giới thiệu
Thuyết lệch pha (queer theory) nổi lên
như một lĩnh vực riêng biệt chỉ bắt đầu vào
khoảng thập niên 1990 bởi vì chưa có cơng
trình lý thuyết văn học nào đề cập đến nó
cả, chẳng hạn, nó vẫn chưa xuất hiện trong
Lý thuyết văn học: Một dẫn nhập (1983)
của Terry Eagleton, hoặc trong phiên bản
đầu tiên của cuốn Hướng dẫn cho bạn đọc
về lý thuyết văn học đương đại (1985) của
Raman Selden. Giống như nghiên cứu
nữ giới cách đây hai mươi năm, ý nghĩa
và việc chấp nhận lĩnh vực mới này ngày
càng tăng, điều này được minh chứng qua
sự hiện diện của các chương mục “thuyết
lệch pha” trong rất nhiều danh mục học
thuật của các hiệu sách và nhà xuất bản
quan trọng, và qua việc thành lập các khóa
học đại học liên quan, với tuyển tập giáo
trình đầu tiên Tuyển tập nghiên cứu đồng
tính luyến ái nam và nữ được xuất bản năm
1993. Hệ thống thuật ngữ của lĩnh vực này
có tính lỏng lẻo, hay biến chuyển, được
thúc đẩy bởi một tham vọng muốn bao quát
nhiều nhất có thể. Hiện nay (cuối thập kỉ
thứ hai của thế kỉ XXI này) các thuật ngữ
được sử dụng nhiều nhất là các tên gọi tắt
(bằng chữ cái đầu) như LGBT, L biểu thị
cho Lesbien (Đồng tính luyến ái nữ), Gay


(Đồng tính luyến ái nam), Bisexual (Lưỡng
tính), và Transgender (Người chuyển giới),
hay LGBTQ (thêm chữ Q), Q biểu thị cho
“Queer” (lệch pha) hay “Questioning”
(đang trong giai đoạn tìm hiểu về bản thân).
Thường sẽ có một danh từ theo sau, chẳng
hạn như “cộng đồng” hoặc “nghiên cứu”
GS. - Khoa Anh ngữ và Viết sáng tạo, Trường Đại
học Aberystwyth, xứ Wales (Vương quốc Anh).
(*)

hoặc “thuyết”. Nghiên cứu LGBT (LGBT
studies) cho thấy rõ một phạm vi rộng lớn,
tiềm năng của các vấn đề có liên quan (ví
dụ như: đạo đức, y học, luật quốc tế, quyền
dân sự, lịch sử xã hội, và lịch sử tôn giáo),
trong khi thuyết LGBT (LGBT theory) lại
nhấn mạnh đến các vấn đề văn học, văn hóa
và triết học. Tuy nhiên, trọng tâm chính của
lĩnh vực này là về các vấn đề liên quan đến
thiên hướng tình dục1 (sexual orientation)
và bản dạng giới (gender identity). Ở Anh,
sự hiện diện học thuật có tính tiên phong
trong nghiên cứu lệch pha là Trung tâm
Bất đồng quan điểm về giới tính (The
Centre for Sexual Dissidence) (còn được
gọi là ‘SexDiss’) trực thuộc khoa Anh ngữ,
Đại học Sussex, được Alan Sinfield và
Jonathan Doll Morph thành lập năm 1990,
Thiên hướng tình dục đơi khi được gọi là “Xu

hướng tình dục” hay “khuynh hướng tình dục”, chỉ
sự bị hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc về mặt tình
dục bởi người khác giới tính hoặc người cùng giới
tính với mình hoặc cả hai một cách lâu dài. Thơng
thường, một người sẽ xác định được xu hướng tính
dục (Sexual orientation) của mình ở giai đoạn dậy
thì, khi bắt đầu có những cảm xúc yêu đương hướng
đến một người khác. Hiện nay chúng ta có những
thiên hướng tình dục phổ biến như sau: Homosexual
(Đồng tính luyến ái); Heterosexual (Dị tính luyến
ái); Bisexual (Song tính luyến ái; Lưỡng tính);
Asexual (Vơ tính luyến ái); Monosexual (Đơn tính
luyến ái); Polysexual (Đa tính luyến ái); Pansexual
hoặc Omnisexual (Tồn tính luyến ái); Pomosexual
(Là từ mới chỉ những người khơng xác định thiên
hướng tình dục của mình (chẳng hạn như đồng tính
hay dị tính) và khơng gán mình vào một loại thiên
hướng tình dục nào, khái niệm này khác với vơ tính
chỉ những người khơng bị hấp dẫn tình dục bởi bất
kỳ ai); Questioning (đang trong q trình tìm hiểu
về bản dạng giới); Bi-curious (Tị mị song tính);
Zoosexual (Dị lồi luyến ái)… (ND).
1


Thuyết lệch pha...
với chương trình Thạc sĩ “Bất đồng quan
điểm về giới” có tính bước ngoặt. Cơng
trình này của Sinfield được xuất bản riêng
trên số chuyên san của tạp chí Thực hành

Văn bản (Quyển 30, Số tháng 6/2016).
Hiện nay (2017) cả Trung tâm và Chương
trình Thạc sĩ này đều có tính đa ngành rõ
nét, thơng qua nghiên cứu truyền thơng đa
phương tiện, nghiên cứu văn hóa, và xã hội
học, cũng như toàn bộ lĩnh vực nghiên cứu
lệch pha. Cũng vào năm 1990, Greg Woods
được bổ nhiệm vị trí giảng viên tại Đại học
Nottingham Trent, giảng dạy các khóa học
bao gồm “Văn hóa đồng tính luyến ái nữ
và nam đương đại”, “Văn học đồng tính
luyến ái nam thời hậu chiến”, và “Làm lệch
pha cái hiện đại” (Queering the Modern).
Năm 1998, ông được bổ nhiệm chức danh
Giáo sư về Văn hóa đồng tính luyến ái nữ
và nam đương đại, chức danh đầu tiên ở
Anh Quốc, và từ năm 2014 ông là Giáo sư
danh dự về Nghiên cứu đồng tính luyến ái
nam và nữ. Ở Mĩ, một khóa học về văn học
đồng tính luyến ái nam và nữ được giảng
dạy tại UCLA vào năm 1976, và năm 1990
một văn bản có tính nền tảng được cơng bố,
đó là Nhận thức luận về buồng kín của Eve
Kosofsky Sedgwick (1950-2009), cùng
năm đó, Judith Butler xuất bản cuốn sách
có tính đột phá của bà: Rắc rối về giới: nữ
quyền luận và sự phá vỡ bản dạng giới. Vì
vậy, có thể coi năm 1990 là năm nền tảng
quan trọng của lĩnh vực này; tuy nhiên đây
không phải là điểm khởi đầu của nó ngay

cả trong phạm vi các trường đại học mà là
sự khởi đầu của một chuyên ngành nổi bật
hiện nay.
Một so sánh bước đầu với phê bình nữ
quyền có thể hữu ích để xác định bản chất
của lĩnh vực này. Rõ ràng là không phải mọi
phê bình văn học được nữ giới viết đều là
nữ quyền, và không phải mọi cuốn sách liên

67
quan đến các nhà văn nữ đều là nữ quyền;
sáng tác nữ quyền không nhất thiết phải
được viết bởi tác giả nữ, và phê bình nữ
quyền khơng chỉ dành riêng cho độc giả nữ.
Tương tự vậy, các cuốn sách được viết bởi
tác giả đồng tính nam, hoặc các nhà phê bình
đồng tính nam không nhất thiết phải là một
phần của nghiên cứu đồng tính nữ và đồng
tính nam, cũng khơng nên cho rằng, những
cuốn sách thuộc lĩnh vực này chỉ dành cho
cộng đồng độc giả đồng tính nam hoặc chỉ
liên quan đến tình dục đồng giới nam.
Vậy thì, mục đích của phê bình đồng
tính nữ và đồng tính nam là gì? Cơng trình
Tuyển tập nghiên cứu đồng tính luyến ái
nam và nữ cho chúng ta thấy “đóng góp
của nghiên cứu đồng tính luyến ái nữ/
nam về vấn đề giới tính (sex) và dục tính
(sexuality) cũng tương đương với những
đóng góp về vấn đề giới (gender) của các

nghiên cứu của nữ giới”, điều này được
mơ tả vài dịng trước đó với vai trị thiết
lập “tính trung tâm của giới như là một
phạm trù cơ bản của q trình phân tích
và nhận thức lịch sử” (tr.xv). Trong phê
bình đồng tính nam/nữ, xu hướng tính dục
được xem là đặc điểm có tính xác định, trở
thành “một phạm trù cơ bản của phân tích
và nhận thức”. Sau đó, giống như phê bình
nữ quyền, nó có những mục đích xã hội và
chính trị, cụ thể là “ý hướng chống đối” (tr.
xvi) xã hội, bởi vì nó “được nhận thức bởi
sự kháng cự đối với chứng ghê sợ đồng tính
luyến ái (homophobia) [sự ghê sợ và định
kiến chống lại đồng tính luyến ái] và thuyết
tình dục dị giới… [và sự kháng cự đối với]
những thực hành có tính thể chế và ý thức
hệ về đặc quyền của tình dục dị giới”.
Thuyết lệch pha và nữ quyền luận
đồng tính nữ
Tuy nhiên, thuyết lệch pha không phải
là một lý thuyết thống nhất duy nhất. Có


68
rất nhiều khác biệt về trọng tâm vấn đề
giữa thuyết đồng tính nam và nữ, và có hai
nhánh tư tưởng chính trong thuyết đồng
tính nữ. Nhánh đầu tiên đó là nữ quyền
luận đồng tính nữ (lesbian feminism). Để

có thể hiểu rõ về nhánh lí thuyết này, tốt
nhất là nên soi chiếu nó từ trong chính bối
cảnh của những nguồn gốc của riêng của
nó, trong phạm vi của nữ quyền luận. Bởi
vì nghiên cứu đồng tính nữ xuất hiện vào
thập niên 1980 như một nhánh phụ của phê
bình nữ quyền trước khi nó đạt được vị trí
độc lập về chun ngành. Thật vậy, nhìn lại
tình hình học thuật trong thập niên 1990,
nữ quyền luận đã trở nên quá thịnh hành
và được quy chuẩn hóa đến mức nghiên
cứu đồng tính nữ đã phải tự tuyên bố về
nền tảng cơ bản (radical ground) của nó
mà nền tảng này bị nữ quyền luận bỏ sót.
Dựa vào cách lý giải này, ta thấy, nữ quyền
luận khó có thể thích nghi được với sự khác
biệt về chủng tộc, văn hóa hay giới tính, và
nó có xu hướng phổ thơng hóa trải nghiệm
của phụ nữ dị tính luyến ái da trắng, thuộc
giai cấp trung lưu, sống ở thành thị. Kiểu
phê bình nữ quyền luận này bị lên án trong
tác phẩm của các nhà phê bình người Mĩ
gốc Phi, những người nhấn mạnh rằng nữ
quyền luận hàn lâm (academic feminism)
đã tái tạo các cấu trúc của bất bình đẳng phụ
quyền (patriarchal inequality) bên trong
chính bản thân nó bằng cách loại trừ tiếng
nói và trải nghiệm của phụ nữ da màu. Ví
dụ, trường hợp này được minh họa nổi bật,
chẳng hạn, trong cơng trình Chẳng phải tơi

là một người phụ nữ sao: Phụ nữ da màu và
Nữ quyền luận (Routledge, tái bản, 2015)
của bell hooks1, được xuất bản lần đầu năm
bell hooks là bút danh của Gloria Jean Watkins
(sinh ngày 25/9/1952) là nhà nữ quyền và nhà hoạt
động xã hội người Mĩ. Bút danh “bell hooks” được
lấy từ tên của cố ngoại của bà (Bell Blair Hooks),
1

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
1982. Một cáo buộc tương tự chống lại nữ
quyền luận được các nhà phê bình đồng
tính nữ đưa ra là: họ cho rằng, nữ quyền
luận đã làm ra vẻ rằng: có sự tồn tại của
một bản sắc nữ căn bản (essential female
identity) mà mọi phụ nữ đều có bất kể
chủng tộc, giai cấp, hoặc thiên hướng giới.
Bonnie Zimmerman, cùng với những người
khác, trong một tiểu luận nổi tiếng “Điều
chưa từng có: Một tổng quan về phê bình
nữ quyền luận đồng tính nữ” đã tấn cơng
vào cái được xem như là “bản chất luận”
(essentialism) về giới, nhấn mạnh cách
thức mà “tấm bình phong mang tính nhận
thức của dị tính luyến ái” (the perceptual
screen of heterosexism) đã ngăn chặn mọi
mối quan tâm về các vấn đề đồng tính nữ
trong những tác phẩm nữ quyền tiên phong
(tr.180 trong bản in lại của bài tiểu luận này
được liệt kê ở cuối chương này). Do vậy

mà, một cơng trình kinh điển về phê bình
văn học nữ quyền luận như Người đàn bà
điên trên gác mái của Sandra Gilbert và
Susan Gubar cũng chỉ chứa đựng có duy
nhất một dẫn chiếu ngắn ngủi về đồng tính
luyến ái nữ (lesbianism).
Vậy nên nữ quyền luận “kinh điển” đã
gạt sang bên lề hoặc phớt lờ đồng tính nữ.
Tình trạng này đã bị phản đối bằng lập luận
cho rằng, thuyết đồng tính nữ nên được
xem như là dạng thức hoàn chỉnh nhất của
nữ quyền luận. Vấn đề này được tranh luận
người có ảnh hưởng rất lớn đến hooks. hooks tập
trung vào mối quan hệ liên ngành giữa chủng tộc,
chủ nghĩa tư bản và giới, và về khả năng mà bà gọi là
sản xuất và duy trì những hệ thống đàn áp và thống
trị giai cấp. Cho đến nay, hooks là tác giả của hơn 30
cuốn sách và nhiều bài viết học thuật. Bà còn xuất
hiện trong các bộ phim tài liệu và tham gia giảng dạy
cho công chúng. hooks sử dụng góc nhìn hậu hiện
đại để nghiên cứu và tái đánh giá về chủng tộc, giai
cấp và giới trong giáo dục, nghệ thuật, lịch sử, tính
dục, truyền thơng đại chúng và nữ quyền luận (ND).


Thuyết lệch pha...
trong một tiểu luận quan trọng khác về sự
phát triển của nữ quyền luận đồng tính nữ,
“Người phụ nữ được xác định là phụ nữ”
được viết bởi nhóm Đồng tính nữ cấp tiến

(the Radicalesbian collective), in trong
cơng trình Nữ quyền luận cấp tiến (biên
tập: Anne Koedt và cộng sự, Quadrangle,
1973). Quan điểm nữ quyền luận đồng
tính nữ được xác định trong tiểu luận này
đã đưa vấn đề đồng tính nữ trở thành trung
tâm của nữ quyền luận, kể từ đây thuyết
đồng tính nữ khước từ các hình thức thỏa
hiệp khác nhau với chế độ bóc lột của nam
quyền và thay vào đó, nó chứa đựng các
mối quan hệ giữa những người phụ nữ, mà
về bản chất, nhằm tạo thành một hình thức
kháng cự và tái cấu trúc triệt để các hình
thức quan hệ xã hội đang tồn tại.
Do đó, mối xung đột giữa các nhà
nữ quyền luận dị tính luyến ái và những
người đồng tính nữ đã nổ ra, và được xoa
dịu phần nào trong một bài tiểu luận quan
trọng khác của Adrienne Rich. Ở bài tiểu
luận này, Rich giới thiệu quan điểm về
“chuỗi đồng tính nữ” (lesbian continuum)
(trong tiểu luận của bà “Dị tính luyến ái
cưỡng ép và sự hiện hữu của đồng tính
nữ”, được in trong cơng trình Máu, Bánh
mỳ và Thi ca: Văn xi tuyển chọn 19791985, Norton, 1996): “Ý tôi là thuật ngữ
chuỗi đồng tính nữ bao gồm một phạm
vi - thơng qua cuộc sống của mỗi người
phụ nữ và xuyên suốt lịch sử - của những
kinh nghiệm xác định bản sắc nữ (womanidentified experi­ence); không chỉ đơn giản
là vấn đề về một người phụ nữ có hoặc

có ý thức khao khát trải nghiệm tình dục
với một người phụ nữ khác” (Trích dẫn
bởi Zimmerman trong cơng trình Tạo nên
khác biệt của Greene và Kahn, tr.184).
Do đó, khái niệm về chuỗi đồng tính
nữ trên mơ tả một loạt hành vi của nữ giới,

69
trải dài, chẳng hạn, từ các mạng lưới giúp
đỡ lẫn nhau khơng chính thức được phụ nữ
thiết lập trong phạm vi các ngành nghề hoặc
các tổ chức cụ thể, cho đến những tình bạn
nữ giới mang tính tương trợ và cuối cùng
là các mối quan hệ tình dục. Zimmerman
nhận xét, khái niệm này có ưu điểm là nó
đề xuất những mối quan hệ gắn kết thơng
qua nhiều cách thức mà ở đó phụ nữ ràng
buộc nhau. Tuy nhiên, Paulina Palmer lại
nhấn mạnh (xem chương hai, cơng trình
của bà Lối viết đồng tính nữ đương đại,
việc xem xét đồng tính nữ theo cách này
gây ra cảm giác lạ lùng về việc giải trừ yếu
tố tình dục (de-sexualising) trong nó, do
đó nó gần như trở thành một hành vi chính
trị thuần túy thay vì là một thiên hướng
tình dục, và kể từ đây, nó được “biến đổi
theo hướng dễ chấp nhận hơn” và được
chuyển hóa thành một thứ khác. Ngoài ra,
hệ quả của quan điểm này đó là một sự chỉ
trích trên phương diện đạo đức về dị tính

luyến ái nữ (female heterosexuality) như
một sự phản bội phụ nữ và những lợi ích
của họ, với ngụ ý rằng phụ nữ chỉ có thể
đạt được tính chính trực (integrity) thơng
qua đồng tính nữ mà thơi.
Mặc dù hai tư tưởng: “người phụ được
nữ xác định là phụ nữ” và chuỗi đồng tính
nữ, có khá nhiều điểm chồng chéo, nhưng
chúng lại có tính rõ ràng và linh hoạt, đảm
bảo tầm quan trọng liên tục của chúng
như là những điểm tham chiếu (reference
points) về cá nhân và trí tuệ. Chúng dẫn
nhập những tư tưởng về chọn lựa và bổn
phận vào trong các vấn đề của giới tính
sinh học (sex) và giới tính xã hội (gender),
do đó tình dục khơng bị coi là một thứ gì
đó chỉ là “tự nhiên” và bất biến nữa, mà là
một cấu trúc và dễ bị thay đổi.
Như là kết quả của những phê bình
này, các hướng tiếp cận đồng tính nữ đã


70
tách khỏi nữ quyền luận dịng chính trong
suốt thập niên 80, và trong thập niên 90
phê bình đồng tính nữ cũng đã phủ nhận
bản chất luận về giới (đã trình bày ở trên
- ND) - tư tưởng, có thể nói, được thừa
hưởng ít nhiều từ nữ quyền luận. Do vậy,
trong bài viết “Đồng tính nữ thích thế này

và thế kia: một vài ghi chú về phê bình
đồng tính nữ trong thập niên chín mươi”,
Zimmerman khảo sát lại phạm vi của phê
bình đồng tính nữ sau mười năm kể từ
cơng trình trước đó của bà. Điều làm cho
bà ấn tượng về cơng trình ban đầu của bà
đó là giả định của nó khi cho rằng đồng
tính nữ là một phạm trù ổn định, một “cái
biểu đạt siêu nghiệm” (transcendental
signifier), cái tồn tại như một thực tế, như
một hằng số xuyên lịch sử, thay vì (như
nó là) một kiến tạo vào cuối thế kỉ XIX.
Trong thập niên 1990, một tư tưởng thứ
hai, ít mang tính bản chất luận hơn về
đồng tính nữ đã xuất hiện, bên trong phạm
vi của lí thuyết nổi tiếng hiện nay: “thuyết
lệch pha” (queer theory).
Thuyết lệch pha và Nữ quyền luận
tự do
Chúng ta đã bàn luận về bản chất
và sự phát triển của nữ quyền luận đồng
tính nữ. Tiếp theo, kiểu tư tưởng thứ hai
của đồng tính nữ là thuyết đồng tính nữ
tự do (libertarian lesbianism) của Paulina
Palmer. Thuyết này li khai khỏi thuyết nữ
quyền luận và khẳng định các bổn phận
mới của nó, nhất là, đối với người đồng
tính nam (gay men) thay vì chỉ với phụ nữ
đồng tính. Thuyết đồng tính nữ kiểu này đã
tự xem nó như là một bộ phận của “thuyết

lệch pha” (queer theory) hoặc “nghiên cứu
lệch pha” (queer studies), hai thuật ngữ
này ngày càng được người đồng tính sử
dụng bất chấp các nguồn gốc ghê sợ đồng
tính luyến ái của từ “lệch pha” (queer),

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
một từ có hàm ý xúc phạm. Những thuật
ngữ này (chí ít) đã tồn tại từ hội thảo năm
1990 về “thuyết lệch pha” tại trường Đại
học California, Santa Cruz. Như tơi đã nói,
“thuyết lệch pha”, thay vì lấy “phụ nữ làm
trung tâm” như thuyết nữ quyền luận đồng
tính nữ vừa được mơ tả ở trên, lại bác bỏ
thuyết li khai nữ giới (female separatism)
và thay vào đó thuyết này luận bàn về một
bản sắc của những mối quan tâm về chính
trị và xã hội gắn với người đồng tính nam.
Vấn đề then chốt ở đây, giới tính xã hội
(gender) hay tình dục (sexuality), cái nào
quan trọng hơn trong bản sắc cá nhân.
Dĩ nhiên, việc lựa chọn tình dục sẽ nhấn
mạnh đồng tính nữ là một hình thức của
tình dục thay vì là một hình thức gắn kết
(bonding) nữ giới hoặc kháng cự chế độ
phụ quyền. Nó có xu hướng ủng hộ các
hình thức “thể nghiệm” của tình dục trong
đồng tính nữ, chẳng hạn như khổ-ác dâm
(sado-masochistic1) và đồng tính nữ kiểu
nam tính và nữ tính (butch-femme)2. Tuy

nhiên, đơi khi người ta cịn cho rằng, một
trong những ảnh hưởng của việc chấp
nhận thuật ngữ “thuyết lệch pha” có tính
hỗn hợp này, đó là về cơ bản nó duy trì sự
tịng thuộc có tính phụ quyền của những
lợi ích nữ giới đối với những lợi ích của
nam giới.
Khổ-ác dâm được ghép từ hai hành vi tình dục lệch
lạc: Ác dâm (sadism) và Khổ dâm (masochism).
Người “ác dâm” là người chỉ đạt được khối cảm
tình dục khi làm nhục, hành hạ, gây đau đớn người
khác. Người “ác dâm” dùng bạo lực một cách quá
đáng và càng “ác” chừng nào thì càng thỏa mãn
chừng ấy. Kẻ khổ dâm là người chỉ đạt được khối
cảm tình dục khi bị làm nhục, bị hành hạ đau đớn,
khổ sở (ND).
2
Butch  là những Les nam tính. Có thể là trong
đầu tóc, trang phục, cách đi đứng nói năng hay sở
thích, v.v… Femme hay Lipstick Les là những Les
nữ tính. Họ thích váy áo, giày dép, thích trang điểm
và có nhiều đặc điểm, sở thích con gái khác (ND).
1


Thuyết lệch pha...
Tuy nhiên, chính xác thì, về phương
diện lý thuyết, thuyết lệch pha khác biệt gì
với nữ quyền luận đồng tính? Câu trả lời ở
đây là, giống như nhiều phương pháp phê

bình khác hiện nay, nghiên cứu đồng tính
nữ/nam trong phạm vi của “thuyết lệch
pha” đều đặc biệt dựa vào hậu cấu trúc
luận của thập niên 1980. Một trong những
mục đích chính của hậu cấu trúc luận đó là
“giải cấu trúc” các cặp đối lập nhị nguyên
(ví dụ như giữa lời nói và văn bản), từ đó
cho thấy, thứ nhất là, sự khác biệt giữa các
cặp đối lập này là khơng tuyệt đối, vì mỗi
thuật ngữ trong cặp này chỉ có thể được
hiểu và xác định trong mối quan hệ với
thuật ngữ cịn lại, và, thứ hai là, hồn tồn
có thể đảo ngược thứ bậc trong các cặp
kiểu này, và do đó đặt quyền “ưu tiên” cho
thuật ngữ thứ hai thay vì cho thuật ngữ
thứ nhất. Do đó, trong nghiên cứu đồng
tính nữ/nam, cặp đối lập dị tính/đồng tính
(heterosexual/homosexual) đã được giải
cấu trúc theo cách này. Trước tiên, sự đối
lập tồn tại bên trong cặp này vốn không ổn
định: như Diana Fuss đã nói, trong lời giới
thiệu tuyển tập Trong/Ngồi: thuyết đồng
tính nữ, thuyết đồng tính nam, phần lớn
cơng việc hiện nay trong lĩnh vực nghiên
cứu này là nhằm “chất vấn về tính ổn định
và tính chất khơng thể xóa bỏ của hệ thống
dị/đồng giới” (tr.1). Richard Meyer, trong
một tiểu luận mà chúng ta có thể đưa ra
như một ví dụ thực tế về vấn đề tính nhị
nguyên này có thể được giải cấu trúc như

thế nào, đã viết về ngôi sao điện ảnh Rock
Hudson, người từng là mẫu hình màn bạc
của vẻ nam tính dị giới luyến ái cuốn hút
(heterosexual masculinity). Trên thực tế,
Hudson là người đồng tính nam, mặc dù
lúc đầu tin này khiến một số người bị sốc,
nhưng nó lại ít gây quan ngại cho các phạm
trù nhị nguyên trên, điều thực sự đáng lưu ý
ở đây đó là cảm giác rằng những đặc điểm

71
có liên quan đến tình trạng đồng tính luyến
ái của anh ta khiến hình ảnh của anh ta hấp
dẫn phụ nữ, bởi vì “Hudson gieo niềm tin
đến những người phụ nữ thẳng (straight
women) về một nơi chốn của sự an tồn về
tình dục - anh ta sẽ bằng lòng với đời sống
gia đình mà khơng địi hỏi quyền thống trị
của nam giới” (Fuss, tr.282).
Tương tự như vậy, đối với những
khán giả thuộc diện trai thẳng (straight
male), họ sẽ cảm thấy dễ dàng hơn để đạt
tới một mẫu hình, người khơng cần phải
gắng gượng để thể hiện machismo (niềm
tự tôn mãnh liệt trong lối hành xử được
cho là điển hình của nam giới, chẳng hạn:
phô diễn quyền lực và sức mạnh - N.D) để
“đo lường” nam tính của người ấy (tr.282).
Việc giải cấu trúc cặp lưỡng phân dị/ đồng
giới theo cách này mang những hàm ý cấp

tiến, bởi vì tất cả những khác biệt kiểu này
(về dị/ đồng giới - ND) đều có thể được
kiến tạo theo cùng một cách, do đó việc
phản đối một cái thì cũng có nghĩa là phản
đối tất cả những cái khác vậy.
Thuyết phản bản chất luận này trong
mối quan hệ với bản sắc tình dục được một
số nhà phê bình khác nghiên cứu sâu hơn.
Judith Butler, người có đóng góp nổi bật
cho cặp đối lập nhị nguyên Trong/Ngoài
(Inside/Out), chỉ ra trong bài tiểu luận của
bà rằng “các phạm trù về bản sắc, như “đồng
tính” và “thẳng”, “thường có xu hướng trở
thành cơng cụ của các chế độ kiểm sốt
(regulatory regimes), ngay cả với những
phạm trù có tính bình thường hóa của các
cấu trúc áp bức hay ngay cả với những địa
điểm tụ họp của những cuộc tranh luận tự
do về chính sự áp bức đó (tr.14-15). Do
vậy, có thể lập luận rằng, bà nhận định, bản
thân khái niệm đồng tính luyến ái là một
phần của diễn ngơn chống lại đồng tính
(anti-gay)/ ghê sợ đồng tính luyến ái, và


72
thực vậy, thuật ngữ “đồng tính luyến ái”
là một từ hợp pháp về mặt y học, được sử
dụng lần đầu vào năm 1869 ở Đức, và nó
có trước thuật ngữ tương ứng “dị tính luyến

ái” khoảng 11 năm. Theo đó, dị tính luyến
ái chỉ xuất hiện như một kết quả từ q trình
tường minh hóa (crystallisation) khái niệm
đồng tính luyến ái. Vậy nên, đồng tính nữ,
khơng phải là một bản sắc ổn định và căn
bản, do đó, theo cách nói của Butler, “bản
sắc có thể trở thành một phạm vi của tranh
luận và chất vấn” (tr.19).
Ngồi ra, bà cịn cho rằng, mọi bản
sắc, bao gồm cả bản sắc giới, là “một kiểu
sắm vai (impersonation) và tương đương
(approximation)… một kiểu mô phỏng
cho thứ khơng có ngun bản” (tr.21).
Điều này dẫn đến một quan niệm mang
tính “hậu hiện đại” về bản sắc, được định
nghĩa như là sự chuyển đổi liên tục giữa
rất nhiều vai trò và vị thế khác nhau, được
rút ra từ một kho dữ liệu vô hạn của những
khả thể. Hơn nữa, những gì được tra vấn ở
đây là sự phân biệt giữa “cái tơi” (self) có
tính quy chuẩn, tự nhiên của dị tính luyến
ái và “cái Khác” (Other) bị khước từ của
đồng tính luyến ái. Trong những hình thức
này, “cái Khác” là thứ gì đó tồn tại bên
trong chúng ta cũng nhiều như bên ngồi
chúng ta, và “cái tơi” và “cái Khác” luôn
luôn được bện xoắn vào nhau, theo nghĩa
gốc của từ này, nghĩa là được đan xen hoặc
xếp chồng lên nhau. Tâm lí học căn bản
cho thấy, những gì được xác định như là

“cái Khác” ở bên ngồi thường là một
phần của cái tôi, vốn bị khước từ và do đó
được phóng chiếu ra ngồi.
Một nhà phê bình khác, người luận
bàn về tính lỏng lẻo của khái niệm bản sắc,
bao gồm cả bản sắc giới, là Eve Kosofsky
Sedgwick trong cơng trình Nhận thức luận
về Buồng kín. Sedgwick xem xét làm thế

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
nào để việc “bước ra khỏi buồng kín” (bộc
lộ cơng khai thiên hướng tình dục của một
người) khơng trở thành một hành động
đơn độc. Đồng tính luyến ái (gayness) có
thể được thoải mái tun bố đến gia đình
và bạn bè, nhưng sẽ khơng sáng suốt khi
tuyên bố đến chủ lao động và đồng nghiệp
và có lẽ khơng ổn chút nào (chẳng hạn) với
các cơng ty ngân hàng hoặc bảo hiểm. Do
đó, tình thế “trong” hay “ngồi” [phịng
kín] khơng phải là một cặp nhị nguyên giản
đơn hay một sự việc đã an bài. Các mức
độ che giấu và công khai luôn cùng tồn
tại trong mỗi cá nhân. Chỉ xét riêng thiên
hướng tình dục cũng sẽ khơng biến một
người trở thành một kẻ ngồi cuộc/khơng
can dự hồn tồn (complete outsider), và
do đó vơ can với mọi vết nhơ của chế độ
phụ quyền và bóc lột. Một người đồng
tính có thể trở thành một học giả được bổ

nhiệm có thời hạn, cũng là một kẻ trong
cuộc (insider) hết sức kín đáo trong mắt
của, chẳng hạn, một cơng nhân nhà máy,
một kẻ có thể đồng tính hoặc không, nơi
một thị trấn nhỏ. Vậy nên, quan điểm của
Sedgwick nhấn mạnh bản sắc của đối
tượng (subject identity) nhất thiết phải là
một phức hợp của các bổn phận, vị thế xã
hội và vai trị nghề nghiệp được chọn lựa,
thay vì là một bản chất bên trong cố định.
Những hệ quả của kiểu lập luận này có
sức ảnh hưởng sâu rộng đối với cả chính trị
và phê bình văn học. Trước tiên chúng ta
hãy xem xét các hệ quả chính trị. Dựa trên
cách đọc hậu cấu trúc luận của Saussure,
chúng ta thấy rằng, các phạm trù thoạt nghe
có vẻ cơ bản này, chẳng hạn như dị tính
luyến ái và đồng tính luyến ái, lại không
định rõ bản chất cố định nào cả - chúng chỉ
là một phần của một cấu trúc của những
khác biệt vốn khơng có thuật ngữ rõ ràng,
ví dụ như cái biểu đạt của Saussure. Thay


Thuyết lệch pha...
vào đó, chúng ta xây dựng một khái niệm
bản sắc có tính hậu hiện đại và phản bản
chất luận, theo đó bản sắc được hiểu như là
một chuỗi các mặt nạ, các vai diễn, và các
khả năng, một kiểu hỗn hợp của tất cả mọi

thứ vốn mang tính thời đoạn, ngẫu nhiên và
ứng biến. Hậu quả chính trị đó là khi chúng
ta tun bố, đồng tính, hoặc da màu, chỉ là
một cái biểu đạt luôn thay đổi, không phải
là một thực thể cố định, vậy nên thật khó
để tưởng tượng làm thế nào mà một chiến
dịch chính trị có sức ảnh hưởng lại có thể
được thực thi đại diện cho người đồng tính,
hoặc da màu. Để hướng đến phản bản chất
luận, chúng ta đã loại bỏ những khái niệm
then chốt này, những khái niệm mà tất cả
hình thức của “chính trị bản sắc” (identity
politics)1 phụ thuộc vào. (Thơng qua chính
trị bản sắc, chúng tơi muốn đề cập đến
cuộc vận động chính trị ủng hộ cho/bởi các
nhóm chịu thiệt thịi vì một vài khía cạnh
về bản sắc của họ, chẳng hạn như giới,
chủng tộc hoặc thiên hướng giới tính của
họ. Ngược lại với chính trị bản sắc là chính
trị giai cấp, đó là cuộc vận động được thực
hiện vì lợi ích của những người chịu thiệt
thịi do một vài phương diện về hồn cảnh
của họ - ví dụ như, những công nhân mỏ bị
trả lương thấp).
Những hệ quả từ phê bình văn học
theo phản bản chất luận nhiều gấp đơi
so với hệ quả về chính trị. Trước tiên, có
một khó khăn dễ nhận thấy trong việc xác
định thế nào là văn bản đồng tính nữ/nam.
Identity politics thường được dịch là chính trị

bản sắc hoặc căn tính, thường được liên hệ với chủ
nghĩa định danh (identitarianism). Đây là tư tưởng,
phương pháp có tính chính trị, gắn mác và phân
chia con người thành nhóm dựa theo chủng tộc, sắc
tộc, tơn giáo, giới tính, khuynh hướng tình dục…
từ đó sắp xếp thành người được đặc quyền hay bị
áp bức (ND).
1

73
Trong danh sách các điều kiện dưới đây,
chúng ta có thể thơng qua việc xác định
về “đồng tính nữ” để hiểu về “đồng tính
nữ hoặc đồng tính nam”. Những điều kiện
có thể dùng để xác định một văn bản đồng
tính nữ/nam là:
1. Một văn bản được một người đồng
tính nữ viết (nếu vậy, chúng ta sẽ nhận diện
một người đồng tính nữ như thế nào, đặc
biệt là khi chúng ta vận dụng tư duy phản
bản chất luận (anti-essentialist) vừa nêu?)
2. Một văn bản viết về đồng tính nữ
(mà văn bản này có thể được viết bởi một
người phụ nữ/đàn ơng dị tính luyến ái viết,
và nó cũng sẽ phải đối mặt với vấn đề xác
định xem thế nào là một người đồng tính
nữ/nam theo quan điểm phi bản chất luận
(non-essentialist).
3. Một văn bản biểu đạt một “cách
nhìn” (vision) về đồng dục nữ (mà cách

nhìn này vẫn chưa được mơ tả thỏa đáng).
Các mục 1 và 2 nêu trên dường như
khơng đầy đủ vì chúng chỉ tính đến những
cuốn sách được viết bởi những người đồng
tính hoặc về những người đồng tính, như
vậy rõ ràng là khơng có tính bao qt, bởi
vì đồng tính luyến ái không được xác định
như là một phạm trù có tính cố hữu, có tính
thiết yếu và bất biến, mà là một phần của
một phức hợp các yếu tố khác. Do đó, vấn
đề đồng tính luyến ái trong một cuốn tiểu
thuyết hoặc một tác giả của thập niên 1920
thì khác biệt với thập niên 1980 và 1990,
và chỉ một phần của thực hành phê bình
ở những thập niên này cũng sẽ cho thấy
những khác biệt đó. Về mục thứ 3, các
nhà phê bình cần phải nhận thức về những
phạm vi rộng mở hơn mang tính ẩn dụ về
đồng tính luyến ái, chẳng hạn, mối liên
kết được ám gợi giữa thuyết đồng tính nữ
và một trạng thái lơ lửng trên đường biên


74
giữa các phạm trù: “Nhìn chung, lối đọc
phê bình đồng tính luyến ái nữ cho rằng sự
xóa nhịa những ranh giới giữa cái tôi và
cái khác, giữa chủ thể và khách thể, người
yêu và người được yêu như là khoảnh
khắc đồng tính nữ (lesbian moment) trong

bất kì văn bản nào” (Zimmerman, Đồng
tính nữ thích thế này và thế kia, tr.11). Do
đó, thuyết đồng tính nữ được liên kết về
mặt lý thuyết với các quan điểm về ý thức
ngưỡng (liminal consciousness)1 khi mà
các phạm trù hiện tồn đang trong quá trình
giải cấu trúc.
Tuy nhiên, hạng mục thứ 3 cũng có
những rủi ro nhãn tiền, đáng chú ý là đồng
tính luyến ái có thể sẽ phải đảm đương
một gánh nặng có tính tượng trưng q
lớn, vì nó thường có khuynh hướng được
lãng mạn hóa và đóng vai trị như một sự
tượng trưng mang tính văn bản cho sự
kháng cự và phá vỡ mọi thứ. Zimmerman
đưa ra một số ví dụ gần đây từ lối phê bình
có xu hướng lãng mạn hóa/ lí tưởng hóa
này. Thuyết đồng tính nữ chống lại “những
định nghĩa cứng nhắc và những đối lập gắt
gao”, được thể hiện qua những “khoảng
trống”, “không gian”, “sự phá vỡ”, “sự lật
đổ mang tính thể nghiệm và cấp tiến”, “sự
chất vấn”… Thứ “lãng mạn nồng nhiệt”
này (Đồng tính nữ thích thế này và thế
kia, tr.4) tiêu biểu cho những gì chúng ta
có thể gọi là siêu bản chất luận (superessentialism), bởi vì nó cố tạo ra một kiểu
Ý thức ngưỡng là trạng thái tồn tại ở giữa, ở rìa
ranh giới (chẳng hạn, thời điểm giữa bình minh và
hồng hơn, những khoảnh khắc trước khi chìm vào
giấc ngủ, những khoảnh khắc từ lúc mơ màng cho

đến khi thức dậy). Trạng thái ngưỡng không được
hình thành đầy đủ như những gì ở hai bên của nó,
nó là một phần của cả hai bên, và do đó nó là một
trạng thái lý tưởng để tạo ra các hình thức mới.
Trạng thái ngưỡng được đặc trưng bởi tính mơ hồ,
tính mở và tính bất định (ND).
1

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
kháng cự đại diện cho mọi kháng cự, và
do vậy, nó đặt một gánh nặng chính trị và
xã hội lên thiên hướng tình dục mà thiên
hướng này chắc chắn là vô lý.
Một hệ quả về phê bình văn học
cuối cùng và mang tính đặc thù hơn của
phản bản chất luận đó là xu hướng hạ
thấp chủ nghĩa hiện thực văn học, bởi vì
nó thường phụ thuộc vào những bản sắc
cố định (fixed identities) và những quan
điểm thâm căn cố đế. Chẳng hạn như, một
tiểu thuyết hiện thực điển hình thường có
một người kể chuyện tồn tri (omniscient
narrator), người tái hiện và diễn giải mọi
sự kiện từ một quan điểm cố định về đạo
đức và trí tuệ, một chuỗi thời gian tuyến
tính mà các sự kiện diễn ra theo trình tự
thời gian, và các nhân vật được mơ tả
theo những bản chất ổn định với một tính
cách được phát triển có tính trình tự và
dồn nén. Do đó, phê bình đồng tính nữ/

nam của giai đoạn “thuyết lệch pha” gần
đây thường ủng hộ (cũng như với hầu hết
các kiểu lý thuyết phê bình khác hiện nay)
những văn bản và thể loại có xu hướng lật
đổ kiểu chủ nghĩa văn học hiện thực quen
thuộc này, chẳng hạn như phim li kì giật
gân (thrillers), truyện tranh comic và hư
cấu giễu nhại (parodic fiction), và thể loại
huyễn tưởng nhục dục (sexual fantasy). Do
đó, một cuốn tiểu thuyết như Cam khơng
phải là trái cây duy nhất (xuất bản 1985,
phiên bản của Vintage 1991) của Jeanette
Winterson trở thành mối quan tâm của
các nhà phê bình đồng tính nữ/nam khơng
chỉ bởi vấn đề đồng tính nữ của nó, mà
cịn là vì các yếu tố phản hiện thực của
nó. Trong lời giới thiệu năm 1991 nữ tác
giả nói rằng, cuốn sách là “một tiểu thuyết
thể nghiệm: những điểm hấp dẫn của nó
là phản tuyến tính” và là lời hồi đáp cho
câu hỏi của chính bà “Cam có phải là một


Thuyết lệch pha...

75

tiểu thuyết tự truyện không?” bằng câu
trả lời “Không, không hề và dĩ nhiên là
vậy rồi” (No not at all and yes of course).

Bà nói (có lẽ hơi cường điệu), cuốn sách
“khơng giống như bất kì cuốn tiểu thuyết
nào khác” về cấu trúc, phong cách, và nội
dung, và cố tình làm cho cách kể chuyện
thu hút được sự chú ý bằng cách sử dụng
“một cấu trúc trần thuật phức tạp… một
lượng từ vựng phong phú và cú pháp đơn
giản mà thú vị”. Chủ đề của cuốn tiếu
thuyết này, khám phá bản sắc giới của một
cô gái trẻ, đã bị các yếu tố và các chi tiết hài
hước làm cho mờ nhạt, còn mạch tự sự lại
bị gián đoạn bởi những đoạn về thần thoại
và huyễn tưởng. Nói như Paulina Palmer
khi phê bình những đoạn này, “sự tương
tác của các câu chuyện mà chúng tạo ra
đã làm nổi bật phần mà huyễn tưởng đóng
vai trị trong việc kiến tạo tâm lí vị thành
niên và đưa ra một tái hiện phức tạp và đa
diện hơn so với sự thể hiện thơng thường
trong dịng tiểu thuyết Cơng khai giới tính
(Coming out novel)” (Lối viết đồng tính
luyến ái nữ hiện đại, tr.101). Vậy nên, về
cơ bản, tiểu thuyết (Cam) này và lối ứng
xử mang tính phê phán của nó điển hình
cho khuynh hướng phản chủ nghĩa hiện
thực của phê bình đồng tính nữ/nam.

luận bàn về chính những tình tiết này (ví
dụ: mối quan hệ giữa Jane và Helen trong
Jane Eyre), thay vì đọc các cặp đơi đồng

tính theo những cách khơng cụ thể, chẳng
hạn theo hướng biểu tượng hóa hai phương
diện cá tính khác nhau của cùng một nhân
vật (Zimmerman).

Cơng việc của các lý thuyết gia
lệch pha

5. Nhấn mạnh các khía cạnh đồng tính
luyến ái của văn học chính thống mà trước
đây đã bị phớt lờ, ví dụ như, vẻ dịu dàng,
mềm mại khêu gợi ham muốn đồng giới
được bộc lộ rõ trong nhiều bài thơ thời Thế
chiến thứ Nhất.

1. Xác định và thiết lập một danh sách
tác phẩm của các nhà văn đồng tính nữ/
nam “kinh điển” mà tác phẩm của họ kiến
tạo nên một truyền thống rõ ràng. Nhìn
chung, họ là những nhà văn trong thế kỉ
XX, chẳng hạn (với các nhà văn đồng
tính nữ ở Anh Quốc): Virginia Woolf,
Vita Sackville-West, Dorothy Richardson,
Rosamond Lehmann, và Radclyffe Hall.
2. Xác định những tình tiết đồng tính
nữ/nam trong tác phẩm chính thống và

3. Thiết lập một ý nghĩa mở rộng và
ẩn dụ về “đồng tính nữ/ đồng tính nam”,
sao cho nó bao hàm một khoảnh khắc

(moment: ý chỉ các khoảng khắc mang
tính ngưỡng - ND) giúp xóa nhịa ranh
giới, hoặc làm nhịe mờ một chuỗi các
phạm trù về bản sắc. Tất cả những khoảnh
khắc “ngưỡng” như vậy đều phản ánh thời
điểm tự nhận dạng là đồng tính nữ hay
đồng tính nam, đây là hành động có ý thức
để kháng cự các chuẩn mực và ranh giới
đã được thiết lập.
4. Phơi lộ “chứng ghê sợ đồng tính”
của văn học và phê bình chính thống, như
đã được chứng kiến qua việc phớt lờ hoặc
phỉ báng các phương diện đồng tính luyến
ái trong tác phẩm của những tác giả kinh
điển, ví dụ như việc loại bỏ các bài thơ tình
u đồng giới cơng khai khỏi các tuyển tập
hoặc các cuộc tranh luận về thi ca của W.
H. Auden (Mark Lilly).

6. Nhấn mạnh các thể loại văn học từng
bị lãng quên trước đây, vốn tác động đáng
kể lên những tư tưởng về nam tính hoặc nữ
tính, chẳng hạn như các câu chuyện phiêu
lưu thế kỉ XIX với một bối cảnh “Đế chế”
Anh (như của Rudyard Kipling và Rider
Haggard) được Joseph Bristow bàn luận


76


NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021

trong cơng trình Những gã trai của đế
quốc (Routledge, 1991).
Dừng lại và suy ngẫm
Tổng quan: Ví dụ ở cuối phần viết này
có liên quan đến các nội dung thứ 2, thứ
4 và thứ 5 được liệt kê ở trên. Ví dụ này
cho thấy sự khác biệt rõ rệt, về mặt cảm
xúc nhục dục, giữa thi ca thời Thế chiến
thứ nhất và thứ hai. Bạn thấy điều này hợp
lý đến mức độ nào? Bạn có đồng ý rằng
thi ca thời thế chiến thứ nhất thường mang
đậm vẻ gợi dục đồng giới trong khi ở thời
thế chiến thứ hai thì hiếm hơn? So sánh
hai hợp tuyển thi ca có liên quan đến vấn
đề này, chẳng hạn như Hợp tuyển Penguin
về Thơ ca Thế chiến thứ nhất và Mưa kinh
hoàng của Jon Sllkin (xem bên dưới).
Cụ thể: Thơ ca giai đoạn Thế chiến
thứ nhất thường sử dụng các motif về
việc tắm táp (bathing) gắn với ham muốn
tình dục (erotic charge). Lilly trích dẫn từ
bài thơ Soliders bathing (Tạm dịch: Lính
tắm) của R.D. Greenway (“Anh bạn, gã
trung sĩ vạm vỡ và đầy lông/ Trần trụi
vươn dài tận mây xanh”) (“You strong
and hairy sergeant/ Stretched naked to
the skies”). Một bài thơ nổi tiếng hơn có
cùng tựa đề của F.T. Prince, thường được

cho là bài thơ nổi tiếng nhất về Thế chiến
thứ hai. Bạn sẽ bàn luận về nó như thế
nào nếu tham gia cuộc tranh luận về thơ
chiến tranh được chúng tơi tóm lược ở
dưới đây? Bài thơ này được rút từ tuyển
tập Mưa kinh hồng.
Hình tượng xác chết trong thơ ca Thế
chiến thứ nhất thường gợi dục đồng giới.
Cũng có một bài thơ nổi tiếng về xác chết
trong Thế chiến thứ hai là Vergissmeiinnicht
(trong tuyển thơ Mưa kinh hoàng: Thi sĩ
chiến tranh, 1939-1945, Brian Gardner
biên tập, Methuen, 1977). Một vài khác

biệt trong lối biểu đạt hình tượng xác chết
giữa giai đoạn này và giai đoạn 1914-1918
được tường giải và bàn luận trong phần
viết của Lilly.
Thuyết lệch pha: một ví dụ
Để minh họa cho dạng phê bình này
chúng ta có thể dùng chương “Thơ tình
Thế chiến thứ nhất” trong cơng trình Văn
chương đồng tính luyến ái nam thế kỉ XX.
Chương này là một khảo sát trực diện về
rất nhiều bài thơ thời Thế chiến thứ nhất
được tuyển chọn trong công trình Những
gã trai: Thơ tình về những đường hào
dựa trên quan điểm thuyết lệch pha, và
những quan điểm được đưa ra trong phần
giới thiệu của tuyển tập này. Bài tiểu luận

bắt đầu với việc luận bàn về các cung bậc
cảm xúc mãnh liệt giữa những người đàn
ơng trong các hồn cảnh chiến tranh khác
nhau, và sự miễn cưỡng nói chung khi
phải thừa nhận các sắc thái gợi dục đồng
giới trong những mối quan hệ này. Mức
độ khó khăn của việc thừa nhận sự tồn tại
của những sắc thái này được tô đậm thêm
bởi thực tế sau, trong thời chiến, quân đội
là hiện thân cụ thể của các khía cạnh nam
tính truyền thống nhất của một quốc gia
(“một biểu tượng tập thể về nam tính và
quyền lực được kiểm sốt của chính xã hội
đó”, Taylor, tr.65). Do đó “có một hành vi
phản kháng giữa những người dị tính đối
với tư tưởng cho rằng những người đàn
ông mà họ muốn dành tặng niềm ngưỡng
mộ sâu sắc nhất của họ thì có lẽ đã thích
những người đàn ơng khác về mặt nhục
dục” (tr.65, chữ nghiêng trong bản gốc).
Đồng thời, những đề cập về các lực lượng
quân đội của chính phe họ [người dị tính ND] thường có xu hướng nhấn mạnh tính
chất trẻ trung cực độ của những anh lính
này - chẳng hạn như chuyên mục vui nhộn
của tờ báo Mặt trời của Anh Quốc trong


Thuyết lệch pha...
suốt Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất
- “Các chàng trai của chúng ta xung trận”

(Our boys go in).
Ngoài ra do cường độ tiếp xúc với các
hoàn cảnh chiến tranh, cho nên thơ chiến
tranh thời điểm đó (Thế chiến thứ nhất) vận
hành như một khu vực được cấp phép mà ở
đó hồn tồn có thể biểu lộ trực tiếp và cởi
mở những cảm xúc nam với nam (điều này
đã bị thay đổi trong Thế chiến thứ hai). Do
vậy, việc thể hiện tình yêu với một người
đồng đội (mặc dù thường đã chết) là điều
hết sức bình thường trong thơ Thế chiến
thứ nhất dẫu cho khó có thể đốn biết
được chính xác ý nghĩa “tình u” trong
những bài thơ này (hay chính xác thì tình
u là gì). Nhiều khả năng là các bài thơ
này thường được vận hành dựa trên nhiều
cấp độ ý nghĩa khác nhau. Người đọc dị
tính có thể đọc “tình u” này chỉ đơn giản
là biểu hiện của niềm đau buồn vì mất đi
một người bạn. Điều này cho phép chúng
được ấn loát và lưu hành rộng khắp vào
thời điểm đó mà chẳng có tai tiếng nào.
Tuy nhiên, bởi vì khơng phải mọi nhà thơ
đều là những người đồng tính tự thừa nhận
(self-acknowledged gays) cho nên với họ,
những bài thơ này cịn có thể vận hành một
cách đa nghĩa. Vậy nên, đôi khi các truyền
thống biểu đạt khiến cho tình huynh đệ, sự
âu yếm thân thể và ham muốn nhục dục
đều có vẻ giống nhau” (tr.66). Nếu chúng

ta tưởng tượng một thứ gì đó giống với
“chuỗi đồng tính nữ” của Rich thì ở đây
chính là một cái tương đương kiểu nam
giới (male equivalent), nhất là trong những
điều kiện khủng khiếp của chiến tranh, thì
chúng ta sẽ nhận thấy rõ rằng những điều
này (tình huynh đệ, sự âu yếm thân thể
và ham muốn nhục dục) không tách rời
và biệt lập. Lilly đưa ra quan điểm này,
nhưng lại dựa trên các điều kiện khác, khi

77
ông cho rằng ba thuật ngữ được sử dụng
thường xuyên trên (tình huynh đệ, sự âu
yếm thể xác và ham muốn nhục dục) có
những mối quan hệ khác biệt đơi chút, do
đó những cảm xúc chung chung về lòng ái
mộ và sự âu yếm thân thể có thể được mơ
tả như là “gợi dục đồng giới”, trong khi
những cảm xúc rõ ràng về ham muốn nhục
dục sẽ được gọi là “đồng tính luyến ái”
hoặc “tình dục đồng giới”. Tất nhiên, điều
này sẽ mở ra một phạm vi ngoại trừ những
người mà họ “chắc chắn” (như Sassoon)
hoặc gần như chắc chắn (như Owen) là
đồng tính” (tr.66).
Lilly chỉ ra một motif thường thấy
trong những bài thơ này là quan niệm
“tình yêu đồng giới ưu việt hơn tình u dị
giới”. Một bài thơ điển hình có thể kể đến

là “Hơn cả tình yêu của đàn bà”, được một
vị cha tuyên úy trong quân đội Studdert
Kennedy, nhập vai một người lính xuất
thân thường dân sáng tác.
Ừ thì, tơi đã ngồi trong ánh chạng
vạng mùa hè,
Cùng một cô gái dễ thương tay trong tay
Ấy vậy mà tôi lại nghĩ đến những hố bom
Nơi những chàng trai của tiểu đoàn
xưa đang đứng
Tôi đáp lại những nụ hôn của cô ấy,
Và tơi thấy chúng thật lạnh lẽo,
Hồn tồn lạnh lẽo và nhợt nhạt như
một câu chuyện được kể hai lần
Điều gì đã làm bừng nên mọi xưa cũ.
Và bài thơ kết luận (đề cập đến phụ
nữ), “But I knows a stronger love than
their’s,/ And that is the love of men” (Tạm
dịch: Nhưng tơi biết một tình u mãnh
liệt hơn tình u của họ (đàn bà - ND),/ Và
đó là tình u của những người đàn ông”.
Thật thú vị khi những bài thơ này thường


78
có vẻ rõ ràng ở một vài bình diện, chẳng
hạn về cảm xúc thể xác giữa nam và nữ, và
về tính bất khả thi của mọi niềm an ủi từ
tơn giáo - và theo cách nghĩ thơng thường,
chúng ta có thể mong đợi bài thơ kết thúc

(đặc biệt, vì nó được một linh mục viết ra)
với câu thơ “Và đó là tình yêu của Chúa”,
nhưng những gợi dẫn lộ liễu kiểu này có
vẻ ít thấy trong thơ ca. Xu hướng biểu đạt
hướng đến tính “đa vượt ngưỡng” (multitransgression) của một vài ranh giới đồng
thời tạo ra sức thuyết phục đối với quan
điểm trong nghiên cứu đồng tính luyến ái
nữ/nam là: việc phá vỡ các quy tắc tình
dục ln có khả năng tượng trưng cho việc
phá vỡ chuẩn mực nói chung.
Tuy nhiên, những bài thơ kiểu này
không thể được coi là sự tán dương đơn
thuần cho các hình thức tình yêu bị xã
hội kì thị, bởi vì đối tượng tình dục mà sự
ngưỡng mộ hướng đến được thể hiện trong
bài thơ thường là những người đã chết (dù
là một cá nhân có tên riêng hoặc cụ thể).
Khi sự ngưỡng mộ chung chung đối với cơ
thể nam giới được thể hiện, thì cơ thể được
đề cập đến luôn là một xác chết (thường
là xác chết của kẻ thù, theo như tôi quan
sát), điều này lặp lại nhiều đến nỗi Lilly
phát hiện ra chứng ái tử thi (necrophilia)
trong tập thơ này. Đôi khi biểu hiện cởi
mở của ham muốn nhục dục được kết hợp
với các yếu tố biểu hiện của chứng ái tử
thi như trong bài thơ Đồng đội tôi (III) của
Herbert Read:
Một người đàn ông của tôi
Nằm trên dây thép gai;

Và anh ấy sẽ thối rữa
Trước tiên là đôi môi của anh
Những con giun sẽ ăn.
Chẳng phải vì thế mà tơi đã muốn hơn
anh ấy,

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
Mà chính là đơi mơi nồng nàn ấm
nóng này
Của người đồng đội anh ở đây.
(Văn học đồng tính luyến ái nam thế kỉ
XX, tr.78-79)
Do đó, để thể hiện những cảm xúc
đồng tính này, trước tiên các nhà thơ cần
nhận thức được một rào cản đối với họ - bởi
khơng thể có sự giao tiếp thân thể thực sự
để thể hiện những cảm xúc này vì đối tượng
đón nhận cảm xúc đã chết. Tuy nhiên, ngoại
lệ là có rất nhiều bài thơ viết về người đàn
ông đang bị thương - nhiều bài trong số này
chứa những hình ảnh đẫm máu, và Lilly đã
liên hệ chúng đến những bài thơ gợi dục
đồng giới viết về vết thương và bệnh xá
trong Cuộc nội chiến Mĩ của nhà thơ người
Mĩ thế kỉ XIX, Walt Whitman. Trong thi
ca Thế chiến thứ nhất, những mô tả về vết
thương bị cáo buộc là đẫm vẻ gợi dục đồng
giới bởi nó chấp thuận việc tiếp xúc thân
thể giữa những người đàn ông. Do đó, thế
chiến này trở thành một lãnh địa “an toàn”

nơi mà những cảm xúc thường xuyên bị đè
nén có thể được cơng khai thể hiện. Đồng
thời mức độ ác liệt của chiến tranh còn cho
thấy những cảm xúc được khơi gợi và biểu
hiện sẽ khác biệt với những gì được cảm
nhận trong các hồn cảnh bình thường.
Lilly sử dụng một ví dụ tương đương diễn
ra ở sân bóng đá, đó là nơi cơng cộng mà
đàn ơng thường ơm hơn nhau nồng nhiệt,
một hành vi mà họ có thể bị bắt giữ (ở Anh)
nếu thực hiện trên đường phố.
Do vậy, những bài thơ này cần phải
được đặt trong bối cảnh của chúng để có
thể được tri nhận chính xác. Cuối cùng,
chính quân đội đã tận dụng những cảm
xúc này khi bắt đầu cuộc chiến với việc
thành lập các trung đồn “bạn thân” (Pals),
trong đó có rất nhiều đàn ơng đến từ cùng


79

Thuyết lệch pha...
một quận, cùng nhau nhập ngũ và phục vụ
trong các đơn vị. Mục đích của việc này
là để dựa vào các mạng lưới của niềm
tin và lòng trung thành được hình thành
trên cơ sở những mối quan hệ bạn bè ở
trường học, dựa vào các cảm xúc của đoàn
kết giai cấp, và dựa vào những bản sắc và

nghĩa vụ mang tính địa phương. (Cuộc thử
nghiệm này đã nhanh chóng bị phá sản
khi đã có tồn bộ một khu dân cư rơi vào
cảnh tang tóc hàng loạt chỉ sau một cuộc
tấn cơng hoặc oanh tạc). Do đó, có thể nói
(như Lilly gợi ý) kiểu thơ này được chấp
thuận chính thức bởi nó hữu ích cho chí
khí của người lính. Chắc hẳn rằng thơ ca
của các chiến sĩ đã dễ dàng tiếp cận với
hệ thống xuất bản: báo, tạp chí thơ, và tạp
chí học đường. Vậy nên chuỗi cảm xúc
(continuum of feelings) được thể hiện
trong tập thơ này (Những gã trai: Thơ tình
về những đường hào), và các mức độ khác
nhau của sự tự nhận thức (self-knowledge)
và tự lừa dối, rốt cuộc có khuynh hướng
“giải cấu trúc” khái niệm đồng tính luyến
ái (từ quan điểm dị tính luyến ái) như là
một “cái Khác” riêng biệt với bản sắc ổn
định và tách biệt của nó.
Lê Quốc Hiếu dịch
(Nguồn: Barry, P. (2020), “Queer
theory”, In Beginning theory (fourth
edition). Manchester University Press).
Tài liệu tham khảo
[1] Abelove, Henry, Barale, Michele Aina, and
Halperin, David, eds, Lesbian and Gay Studies
Reader (Routledge, 1993). Đây là một tuyển tập
lớn và bao quát. Ở phần I chương 2, có một đoạn
được trích từ cơng trình có sức ảnh hưởng mạnh

mẽ Nhận thức luận về buồng kín (Epistemology
of the Closet). Các chương viết chính về văn học
nằm ở phần VII, “Giữa các trang sách”, bao gồm
bài phê bình của Dollimore về Wilde và Gide.
Phần XII (trang 662-665) về “Những gợi ý để

đọc thêm” bao gồm các danh mục tham khảo hữu
ích nhất về lĩnh vực này tính đến tháng 8/1992.
[2] Bristow, Joseph, ed., Sexual Sameness:
Textual Difference in Lesbian and Gay Writing
(Routledge, 1992). Sách bao gồm các chương
viết về tái trình hiện văn học về tình yêu đồng
giới ở một số tác giả quan trọng, chẳng hạn
như E. M. Forster, Walt Whitman, và Sylvia
Townsend Warner.
[3] Butler, Judith, Undoing Gender (Routledge,
2004).
Cuốn sách này là một tái đánh giá các quan điểm
trước đây của bà về tính biểu hành giới (gender
performativity) trong cơng trình Rắc rối về giới
tính (Gender Trouble).
[4] Dollimore, Jonathan, Sexual Dissidence:
Augustine to Wilde, Freud to Foucault
(Clarendon, 1991).
Phần ba, từ chương 3 đến chương 5 bao gồm
những cuộc tranh luận về bản chất luận đã được
đề cập đến trong phần trình bày phía trên.
[5] Fuss, Diana, eds. Inside/Out: Lesbian
Theories, Gay Theories (Routledge, 1992).
Tôi nhận thấy phần dẫn nhập và Phần 1 chương

I (viết bởi Judith Butler) rất hữu ích, nhưng,
mặt khác phần viết này lại đề cập rất ít về văn
học theo đúng nghĩa. Chương X, về cuốn tiểu
thuyết đồng tính nữ The Well of Loneliness (Tạm
dịch: Giếng cô đơn) của Radclyffe Hall, luận bàn
nhiều vấn đề khác nhau mà cuốn sách này đã đề
cập đến.
[6] Hall, Donald E., Queer Theories (Palgrave,
Transitions’ series, 2003).
Hall, Donald E., and Jagose, Annamarie, eds, The
Routledge Queer Studies Reader (Routledge,
2012). Đây là sự kế thừa, tiếp nối từ cơng trình
có tính tiên phong Tuyển tập Routledge Nghiên
cứu lệch pha của học giả Abelove và các cộng
sự được xuất bản năm 1993, đồng thời đánh
dấu sự xuất hiện có tính học thuật của lĩnh vực
này. Cuốn sách này cịn có một nhóm các tiểu
luận quan trọng được phân chia thành bảy phần
(mới). Vấn đề chủ đạo của cuốn sách là lời phát
biểu được in trong phần giới thiệu của ban biên
tập: “các truyện kể được sắp xếp theo trật tự
tuyến tính khơng dễ dàng để có thể thâu tóm
được những khả thể đơi khi vừa mới được phơi
thai… đánh dấu nguồn gốc của nghiên cứu lệch


80
pha”. Cuốn sách mở đầu với các bài tiểu luận của
các nhân vật then chốt như Sedgwick và Butler,
tiếp theo là bài tiểu luận của Jay Prosser với chủ

ý chống lại điều mà ơng quan niệm như là “sự
xóa bỏ cơ thể của người chuyển giới” trong Rắc
rối về giới của Butler, một tuyển tập mang tính
bước ngoặt khác.
[7] Lilly, Mark, eds. Lesbian and Gay Writing
(Macmillan, 1990). Các chương năm, sáu và
mười viết về thơ đồng tính nữ và nam, và chúng
rất được hoan nghênh trong một lĩnh vực vốn bị
văn xi và (cũng như nhiều lí thuyết hiện nay)
thống trị.
[8] Lilly, Mark, Gay Mens Literature in the
Twentieth Century (New York University Press,
1993).
Một cuốn sách khả dụng khác không bao chứa
kiến thức lí thuyết rộng lớn. Chương đầu tiên là
một khảo sát chung về xu hướng phê bình chính
thống các nhà văn đồng tính (“Hội các học giả
ghê sợ đồng tính luyến ái”), và phần cịn lại là về
các tác giả lớn, bao gồm Byron, Wilde, Forster,
Thi ca Thế chiến thứ nhất, Tennessee Williams,
James Baldwin, Joe Orton, và Christopher
Isherwood.
[9] Morland, Iain, and Willox, Annabelle, eds,
Queer Theory (Palgrave, ‘Readers in Cultural
Criticism’ series, 2004).
[10] Munt, Sally, eds. New Lesbian Criticism:
Literary and Cultural Readings (Harvester,
1992).
Bao gồm các tiểu luận hữu ích về lí thuyết đại
cương, về các nhân vật lớn như nhà thơ, lí thuyết

gia đồng tính da màu Audre Lorde, và tài liệu về
văn hóa đại chúng đồng tính nữ, hư cấu khơng
tưởng đồng tính nữ và sách báo khiêu dâm đồng
giới nữ.
[11] Palmer, Paulina, Contemporary Lesbian
Writing: Dreams, Desire, Difference (Open
University Press, 1993).
Bắt đầu với một chương phác họa một loạt các
quan điểm lí thuyết và sau đó là các chương
viết về nhiều thể loại có liên quan, bao gồm hư
cấu chính trị, thể loại li kì, giật gân, tiểu thuyết
truyện tranh khôi hài (the comic novel), và hư
cấu huyễn tưởng.
[12] Salih, Sara, Judith Butler (Routledge
Critical Thinkers, 2002).

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 4-2021
[13] Sedgwick, Eve Kosovsky, Between Men:
English Literature and Male Homosexual Desire
(Columbia University Press, 1985).
Hai cuốn sách trên có vai trị quan trọng trong
việc thiết lập nền tảng lí luận của thuyết lệch pha.
[14] Sedgwick, Eve Kosovsky, Epistemology of
the Closet (University of California Press, 2nd
edn, 2008).
[15] Sinfield, Alan, Cultural Politics - Queer
Reading (Routledge, 2nd edn, 2005).
Một văn bản sinh động và đầy khiêu khích - một
cơng trình tiên phong ngay khi được xuất bản
lần đầu.

[16] Taylor, Martin, Lads: Love Poetry of the
Trenches (Duckworth & Co., new edn, 1998).
Một hợp tuyển thi ca, với phần giới thiệu nhằm
“tái khẳng định vị trí” của những bài thơ được
tuyển lựa này. So sánh tuyển chọn này và lời
bình luận của nó với những cơng trình mang tính
truyền thống hơn, chẳng hạn Hợp tuyển thi ca
Thế chiến thứ nhất được Jon Silkin biên tập.
[17] Wilchins, Riki, Queer Theory, Gender
Theory (Magnus Books, 2014).
Rõ ràng và trực tiếp từ đầu đến cuối sách, và có
thể đọc được hết một mạch - các chương viết hay
về Derrida, Foucault và Butler.
[18] Woods, Greg, A History of Gay Literature
(Yale University Press, 1999).
Một mơ tả về văn học đồng tính nam, từ thời cổ
đại đến nay.
[19] Zimmerman, Bonnie, “What has never
been: an overview of lesbian feminist criticism)”,
reprinted in Gayle Greene and Coppelia Kahn,
eds, Making a Difference: Feminist Literary
Criticism (Methuen, 1985)
Một khảo sát quan trọng về phê bình đồng tính
nữ cho đến thời điểm cơng trình được xuất bản.
Một khởi đầu hữu ích cho những người nhập
môn.
[20] Zimmerman, Bonnie, “Lesbians like this
and that: some notes on lesbian criticism for the
nineties” in Sally Munt (xem ở trên).
Một khảo sát khác về lĩnh vực này, được viết sau

mười năm kể từ bài viết trên, và xem xét những
vấn đề và những chọn lựa cho thập niên 90.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×