Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tieu luan luat canh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.11 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
--------------------------

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP
TRUNG KINH TẾ GÂY HẠN CHẾ
CẠNH TRANH

TIỂU LUẬN LUẬT CẠNH TRANH
NGÀNH LUẬT KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
--------------------------

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP
TRUNG KINH TẾ GÂY HẠN CHẾ
CẠNH TRANH

TIỂU LUẬN LUẬT CẠNH TRANH NGÀNH LUẬT
KINH TẾ
GIẢNG VIÊN BỘ MƠN
TS. Dương Kim Thế Ngun
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2019
2


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN



3


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT TẬP
TRUNG KINH TẾ GÂY HẠN CHẾ CẠNH TRANH........................................6
1. Khái niệm tập trung kinh tế.............................................................................6
2. Đặc điểm của tập trung kinh tế........................................................................7
4. Ảnh hưởng của việc tập trung kinh tế đến môi trường cạnh tranh................10
CHƯƠNG II: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY VỀ
KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ...............................................................14
1. Nội dung pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế.............................................14
2. Quy định về thông báo tập trung kinh tế.......................................................15
3. Thủ tục thông báo tập trung kinh tế...............................................................15
4. Các trường hợp trong tập trung kinh tế.........................................................16
5. Vi phạm pháp luật tập trung kinh tế..............................................................17
6. Chế tài............................................................................................................18
7. Xử lý vi phạm và cơ quan quản lý tập trung kinh tế......................................18
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT CẠNH
TRANH.................................................................................................................19
1. Cơ quan quản lý cạnh tranh..........................................................................19
2. Thực tiễn áp dụng..........................................................................................19
1. Nhận xét.........................................................................................................26

4


DANH MỤC VIẾT TẮT


1. Luật Cạnh tranh 2018: Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 do Quốc hội

2.

3.

4.

5.

6.

nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 6
năm 2018;
Luật Doanh nghiệp 2014: Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 do Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng
11 năm 2014;
Luật Cạnh tranh 2004: Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 do Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03 tháng 12 năm
2004;
Luật Hợp tác xã 2012: Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 do Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 11 năm
2012;
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003: Luật Doanh nghiệp nhà nước do
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26
tháng 11 năm 2003;
Nghị định số 71/2014/NĐ-CP: Nghị định số 71/2014/NĐ-CP về xử lý vi
phạm trong lĩnh vực cạnh tranh được thông qua ngày 21 tháng 7 năm
2014.


5


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
TẬP TRUNG KINH TẾ GÂY HẠN CHẾ CẠNH TRANH.
1. Khái niệm tập trung kinh tế
Khái niệm tập trung kinh tế được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lí.
Trong khoa học kinh tế, tập trung kinh tế được nhìn nhận là chiến lược tích
tụ vốn và tập trung sản xuất hình thành các chủ thể kinh doanh có quy mơ lớn
nhằm khai thác lợi thế nhờ quy mơ. Trong q trình kinh doanh, các chủ thể kinh
doanh có quy mơ lớn ln tìm cách nâng cao áp lực cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp nhỏ yếu hơn phải phụ thuộc vào mình. Mặt khác, các doanh nghiệp nhỏ
yếu hơn phải sáp nhập vào doanh nghiệp lớn hoặc hợp nhất với nhau nếu muốn
tồn tại. Tập trung kinh tế là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi cấu
trúc thị trường. Theo đó, tập trung kinh tế dẫn đến việc giảm số lượng các doanh
nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông qua các hành vi sáp nhập hoặc
thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lượng
sản xuất. Khái niệm trên đã coi tập trung kinh tế là kết quả của quá trình tích tụ tư
bản.
Dưới góc độ pháp luật, tập trung kinh tế được pháp luật của nhiều nước
hướng vào việc xác định các dấu hiệu cũng như hình thức thực hiện tập trung kinh
tế mà không đưa ra quy định giải thích tập trung kinh tế là gì? Pháp luật cạnh
tranh Việt Nam cũng khơng đưa ra khái niệm mang tính khái quát để định nghĩa
hành vi tập trung kinh tế mà chỉ đưa ra các hình thức tập trung kinh tế. Theo
Khoản 1 Điều 29 Luật cạnh tranh 2018 :
“ Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh
nghiệp; (ii) hợp nhất doanh nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh
giữa các doanh nghiệp; (v) các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp
luật.”

Khoản 2 Điều 29, đưa ra định nghĩa cho từng hành vi như sau:

6


Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau
góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.

2. Đặc điểm của tập trung kinh tế
Theo quy định của luật cạnh tranh Việt Nam, tập trung kinh tế có một số
đặc điểm pháp lí cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp họat động trên
thị trường
Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các doanh nghiệp trên cùng
hoặc không cùng họat động trên thị trường liên quan. Từ dấu hiệu này, có thể phân
biệt các hành vi tập trung kinh tế của doanh nghiệp với họat đầu đầu tư vào nhiều
doanh nghiệp của các nhà đầu tư không phải là doanh nghiệp. Với vai trò là nhà
đầu tư, các cá nhân có thể góp vốn vào nhiều doanh nghiệp và là chủ sở hữu (đồng
chủ sở hữu) của các đơn vị kinh doanh cùng hoặc khơng cùng ngành nghề. Lúc
đó, các doanh nghiệp cho dù có chung chủ sở hữu nhưng cũng không thuộc phạm

vi của khái niệm tập trung kinh tế. Tập trung kinh tế là hành vi của các chủ thể
đang họat động kinh doanh trên thị trường. Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định
phạm vi của khái niệm doanh nghiệp bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế và hộ kinh doanh cá thể. Đối chiếu bốn hành vi tập trung kinh tế nói
trên với các quy định có liên quan đến chúng trong pháp luật về doanh nghiệp có
thể nhận thấy rằng, chủ thể của hành vi sáp nhập, hợp nhất chỉ có thể là:
7


– Các lọai công ty theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 (công ty cổ phần, công ty
hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành
viên) (Điều 47, Điều 110, Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014);
– Công ty Nhà nước theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 (Điều 73 Luật
Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003);
– Các hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
- Như vậy, không phải mọi lọai doanh nghiệp đều có thể tham gia vào các hành vi
tập trung kinh tế mà với mỗi hình thức tập trung kinh tế khác nhau sẽ có giới hạn
khác nhau về chủ thể tham gia nhất định.
− Hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh chỉ xảy ra khi có nhiều
doanh nghiệp cùng tham gia thực hiện. Có nghĩa là, trước khi thực hiện các hành
vi tập trung kinh tế, các doanh nghiệp tham gia đã tồn tại và đang họat động trên
thị trường. Hành vi tập trung kinh tế không phải là hành vi đơn phương của doanh
nghiệp. Vì vậy, hành vi đầu tư vốn để thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên của một doanh nghiệp nào đó có thể tạo ra nhóm kinh doanh
nhưng sẽ khơng là hiện tượng tập trung kinh tế theo Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, tập trung kinh tế được thực hiện dưới những hình thức nhất định
bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp
Các hiện tượng tập trung kinh tế đòi hỏi sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp
khác nhau trên thị trường. Các doanh nghiệp nói trên đã liên kết khả năng kinh
doanh bằng cách chủ động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ

thuật, năng lực quản lý, tổ chức kinh doanh… mà họ đang nắm giữ riêng lẻ để
hình thành một khối thống nhất bằng việc sáp nhập, hợp nhất hoặc phối hợp theo
kiểu tập đồn theo mơ hình liên kết về sở hữu hoặc góp vốn bằng cách mua lại
vốn góp của nhau, liên doanh với nhau. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân
biệt tập trung kinh tế với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học. Tích tụ tư bản là
tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư
thành tư bản. Tích tụ tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh nghiệp
theo thời gian bằng kết quả kinh doanh. Theo đó, bằng việc sử dụng giá trị thặng
dư trong kinh doanh (lợi nhuận) để tái đầu tư tăng vốn, doanh nghiệp đã dần dần
8


nâng cao được năng lực kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để có
được vị trí đáng kể trên thị trường, song để điều đó xảy ra đòi hỏi thời gian khá
dài.
Thứ ba, hậu quả của tập trung kinh tế là việc hình thành các tập đòan kinh
tế, thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường
Các hình thức sáp nhập, hợp nhất sẽ làm cấu trúc thị trường thay đổi theo hướng
giảm đi số lượng doanh nghiệp đang họat động bằng cách tập trung tất cả năng lực
vào một doanh nghiệp duy nhất (doanh nghiệp được sáp nhập hoặc doanh nghiệp
mới hình thành). Việc mua lại hoặc liên doanh sẽ hình thành nên các liên kết giữa
các doanh nghiệp độc lập theo mơ hình sở hữu để tạo ra nhóm kinh doanh theo
kiểu tập đoàn. Cho dù tập trung được thực hiện theo mơ hình tích tụ hay liên kết
năng lực kinh doanh thì cuối cùng đều dẫn đến kết quả là tương quan cạnh tranh
trên thị trường sau khi tập trung kinh tế sẽ khác so với trước đó. Bởi lúc này, thị
trường đột ngột xuất hiện doanh nghiệp, hoặc nhóm doanh nghiệp có tiềm lực
kinh doanh lớn hơn trước mà khơng phải trải qua q trình tích tụ tư bản. Vị trí
của các doanh nghiệp cịn lại trong quá trình cạnh tranh sẽ giảm đi trước doanh
nghiệp được hình thành từ tập trung kinh tế.
Thứ tư, dựa trên những tiêu chí nhất định theo các quy định của pháp luật

cạnh tranh nhà nước sẽ kiểm soát các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế như đã phân tích tại đặc điểm thứ ba sẽ dẫn đến việc hình thành
các tập đồn kinh tế lớn mạnh và có thể gây hạn chế cạnh tranh. Vì vậy các nước
sẽ phải kiểm soát tập trung kinh tế, nhưng chỉ khi nào các doanh nghiệp tham gia
các vụ tập trung kinh tế đạt tới ngưỡng mà pháp luật cạnh tranh đã quy định mới
bị nhà nước kiểm soát. Trong trường hợp các doanh nghiệp thực hiện tập trung
kinh tế chưa đạt tới ngưỡng luật cạnh tranh quy định thì có quyền tự do thực hiện
các hình thức các hình thức tập trung kinh tế theo quy định tại pháp luật về doanh
nghiệp và các văn bản khác có liên quan.

3. Phân loại tập trung kinh tế.
Tập trung kinh tế theo chiều ngang: Là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh.. thường diễn ra giữa hai doanh nghiệp cùng nằm ở một cấp độ tròn chuỗi
9


sản xuất hay những doanh nghiệp cùng hoạt động trên cùng một thị trường liên
quan. Điều này thường làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh độc lập trên thị
trường và có thể làm tăng một cách đáng kể các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
nhằm hạn chế cạnh tranh.
Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên
doanh giữa những doanh nghiệp ở những cấp độ khác nhau của chuỗi sản xuất
( thường có quan hệ giữa người mua – người bán với nhau). Mục tiêu của Tập
trung kinh tế theo chiều dọc nhằm chi phối giao dịch hoặc thực hiện mục tiêu
chiến lược của thị trường như đảm bảo nguồn cung ứng hoặc tiêu thụ hàng hóa,
ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường.
Ví dụ: Một vụ sáp nhập giữa công ty may và công ty phân phối bán buôn,
bán lẻ hàng may mặc.
Tập trung kinh tế dạng hỗn hợp: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại.. của
những doanh nghiệp không sản xuất những sản phẩm cạnh tranh (khơng phải là

đối thủ của nhau) hoặc khơng có mối quan hệ mua bán.

4. Ảnh hưởng của việc tập trung kinh tế đến môi trường cạnh tranh
Tiêu cực:
+ Tác động dễ thấy nhất của tập trung kinh tế là việc tạo ra các tác động tiêu cực
đến cạnh tranh bởi việc làm tăng sức mạnh thị trường của doanh nghiệp sau tập
trung kinh tế;
+ Tác động của tập trung kinh tế đó là khả năng dẫn đến sự thay đổi về hình thái
thị trường cạnh tranh, theo đó trên thị trường xuất hiện hiện tượng độc quyền
nhóm hoặc hình thành các doanh nghiệp có quyền lực thị trường;
Hậu quả là, chúng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này trong việc tăng giá
bán hoặc làm giảm giá mua hàng hóa, dịch vụ liên quan, tạo rào cản gia nhập, mở
rộng thị trường, hạn chế nghiên cứu.
+ Tập trung kinh tế có tác động làm loại bỏ áp lực cạnh tranh giữa các bên tham
gia vào vụ việc, đồng thời giảm đi số lượng các đối thủ cạnh tranh trên thị trường;

10


+ Tập trung kinh tế làm thay đổi cấu trúc và tương quan trên thị trường. Sự xuất
hiện đột ngột của một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh lớn hơn sau một vụ
tập trung kinh tế cũng hàm chứa nguy cơ đe dọa sự tồn tại của những doanh
nghiệp cạnh tranh khác. Nói một cách khác, khi mà số lượng các doanh nghiệp đối
thủ cạnh tranh trên thị trường giảm đi thì mức độ “hồn hảo” của cạnh tranh cũng
bị giảm sút theo;
Ví dụ: tập trung kinh tế theo chiều ngang sẽ giúp cho doanh nghiệp sau tập
trung kinh tế xóa bỏ sự cạnh tranh trực tiếp giữa các doanh nghiệp trước tập trung
kinh tế, tập trung sức mạnh thị trường vào một doanh nghiệp sau tập trung kinh tế
và tạo ra nguy cơ thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh và suy cho cùng
điều này cũng sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây hại đến lợi ích của người tiêu dùng.

- Tích cực:
+ Tập trung kinh tế tạo ra những doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn, tiềm lực tài
chính rộng hơn khi các doanh nghiệp tham gia hoạt động tập trung kinh tế là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa;
+ Tập trung kinh tế giúp các nhà đầu tư mở rộng thị trường, giảm chi phí đầu tư,
chí phí sản xuất;
+ Tập trung kinh tế thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật vì các doanh nghiệp được
hình sau tập trung kinh tế có tiềm lực tài chính để đầu tư đổi mới cộng nghệ mà
các doanh nghiệp nhỏ khó có thể làm được.
Về bản chất, hoạt động tập trung kinh tế là việc tích tụ sức mạnh thị trường
để hình thành nên chủ thể kinh tế có hiệu quả hoạt động cao hơn. Tuy nhiên, việc
tích tụ sức mạnh thị trường đến một mức độ nhất định có thể tác động hoặc gây
tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường (hình thành nên hình thái thị trường
tạo thuận lợi cho việc thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc thoả
thuận hạn chế cạnh tranh). Vì vậy, pháp luật cạnh tranh có nhiệm vụ kiểm soát
hoạt động tập trung kinh tế nhằm mục đích phịng ngừa, ngăn chặn tác động hạn
chế cạnh tranh để bảo đảm môi trường cạnh tranh và bảo vệ quá trình cạnh
tranh.

11


5 .Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế.
Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế là hoạt động xem xét, đánh giá,theo
dõi của cơ quan quản lý nhà nước nhằm phát hiện, ngăn ngừa những sai phạm
trong quá trình thực hiện tập trung kinh tế.
Đặc điểm về pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế:
Thứ nhất, pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế là lĩnh vực pháp luật cơng,
mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện ở hành vi cho phép, điều tra, xử phạt các
hành vi tập trung kinh tế bị cấm. Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế vừa là luật

nội dung, quy định các hành vi bị cấm tập trung kinh tế và hậu quả của chúng; vừa
là luật tố tụng, quy định về cơ quan cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh, thủ tục điều
tra, xử lý, khiếu nại. Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế khơng thể tách rời chính
sách cạnh tranh nói chung và định hướng phát triển trong từng ngành, lĩnh vực
kinh tế cụ thể. Để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để tăng cường cạnh tranh ở
một ngành kinh tế nào đó, Nhà nước sẽ kiểm sốt chặt khả năng hình thành quyền
lực thị trường;
Thứ hai, trong quan hệ pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế, chủ thể
kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế là cơ quan nhà nước được giao quản lý hoạt
động cạnh tranh, chủ thể tham gia hoạt động tập trung kinh tế là nhà đầu tư trong
và ngoài nước (doanh nghiệp) có đầy đủ các điều kiện về năng lực chủ thể mà
pháp luật quy định. Đây là các quan hệ có tính chất cơng quyền, gắn với chức
năng quản lý điều tiết nền kinh tế của Nhà nước, nhưng cũng đồng thời gắn với
hoạt động của các doanh nghiệp và liên quan đến doanh nghiệp, bao gồm nhân sự,
thương hiệu, tài sản hữu hình, tài sản vơ hình, vị thế trên thị trường, quyền sở hữu
trí tuệ, mạng lưới kinh doanh, hệ thống khách hàng, kinh nghiệm thương trường
và các vấn đề khác liên quan…
Thứ ba, Hệ thống các quy định pháp luật này vừa có tính chất “tiền kiểm”
(trước khi thực hiện các giao dịch tập trung kinh tế) và “hậu kiểm”. “Tiền kiểm”
nhằm phòng ngừa khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh thông qua việc đánh
giá tác động của hành vi trong tương lai để từ đó áp dụng các điều kiện nhằm khắc
phục tác động hạn chế cạnh tranh, chỉ những giao dịch tập trung kinh tế khơng có
12


biện pháp khả thi để khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh mới bị cấm. Kiểm
soát “hậu kiểm” nhằm xử lý việc vi phạm cơ chế phòng ngừa tập trung kinh tế
(điều tra hành vi vi phạm và xử phạt).
Thứ tư, kiểm soát tập trung kinh tế mặc dù là một hình thức kiểm sốt của
Nhà nước nhưng khơng ảnh hưởng đến quyền tự chủ trong kinh doanh của các

doanh nghiệp.
Bên cạnh việc đánh giá tác động đến thị trường của cơ quan cạnh tranh, các
hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế vẫn đảm bảo sự tự chủ của doanh nghiệp và
dựa trên cơ sở tương tác với cơ quan cạnh tranh, bao gồm việc thông báo tập trung
kinh tế, tính tốn thị phần, doanh thu, doanh số, thực hiện các biện pháp tái cơ
cấu, khắc phục hậu quả của vụ việc tập trung kinh tế...
Pháp luật kiểm sốt là cơng cụ để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý,
điều tiết nền kinh tế theo hướng một mơi trường cạnh tranh lành mạnh, cơng
bằng, qua đó đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế

13


CHƯƠNG II: NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
1. Nội dung pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế
Kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế được thực hiện chủ yếu thông qua
hai cơ chế, đó là: (i) cấm đốn các trường hợp tập trung kinh tế làm tổn hại đến
tình trạng cạnh tranh; (ii) kiểm soát các trường hợp tự do thực hiện tập trung
kinh tế.
(i) Điều 30. Tập trung kinh tế bị cấm (sửa đổi Điều 18 Luật Cạnh tranh năm
2004)
Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng
gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.
Điều này sửa đổi cách tiếp cận về trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo
quy định tại Điều 18 Luật Cạnh tranh năm 2004 (luật cũ).
Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường
liên quan, trừ trường hợp doanh nghiệp sau thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc

loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật. Quy định này là một
trong những bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004 do việc quy định cấm mặc
nhiên trên ngưỡng thị phần không ngăn ngừa được mọi hành vi tập trung kinh tế
gây tác động tiêu cực tới cạnh tranh trên thị trường (trường hợp thị phần kết hợp
dưới 50% cũng có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh; trường hợp tập trung kinh
tế có thị phần kết hợp trên 50% nhưng khơng có tác động tiêu cực tới thị trường).
(ii) Nhóm được tự do thực hiện tập trung kinh tế: nhóm này bao gồm các vụ
việc tập trung kinh tế mà qua quá trình đánh giá tác động và được kết luận bởi cơ
quan cạnh tranh là khơng có nguy cơ dẫn đến tác động tiêu cực cho cạnh tranh
hoặc tác động đó hầu như là khơng đáng kể.
Đối với mỗi loại hành vi tập trung kinh tế dựa trên cơ sở của tiêu chí
“ngưỡng thơng báo tập trung kinh tế”. Vấn đề tiếp theo là pháp luật về kiểm soát
tập trung kinh tế sẽ phải xây dựng các tiêu chí cụ thể yêu cầu các doanh nghiệp

14


liên quan tiến hành thơng báo. Các tiêu chí này tạo thành khái niệm “ngưỡng
thông báo tập trung kinh tế”.

2. Quy định về thông báo tập trung kinh tế
Luật cũ: Tại Điều 20 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định các doanh nghiệp
tập trung kinh tế phải thông báo cho Cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến
hành tập trung kinh tế khi có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên
quan, trừ trường hợp sau khi tập trung kinh tế doanh nghiệp vẫn thuộc loại hình
doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật, Việc xác định nghĩa vụ
thông báo TẬP TRUNG KINH TẾ dựa trên tiêu chí “thị phần kết hợp trên thị
trường liên quan” là một trong những bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004.
Luật mới: Điều 33 Luật cạnh tranh 2018 đã không sử dụng “thị phần kết
hợp” làm tiêu chí thơng báo tập trung kinh tế, mà thay vào đó sử dụng các tiêu chí

sau làm “ngưỡng thông báo”:
Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế phải nộp hồ sơ thông báo tập
trung kinh tế đến Ủy ban cạnh tranh quốc gia nếu thuộc ngưỡng thông báo tập
trung kinh tế. Ngưỡng thông báo được căn cứ vào các tiêu chí được quy định tại
Khoản 2 Điều 33 của Luật cạnh tranh 2018 :
- Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của một trong các bên tham gia tập trung
kinh tế;
- Tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của một trong các bên tham gia tập
trung kinh tế;
- Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế;
- Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan.

3. Thủ tục thông báo tập trung kinh tế
Các doanh nghiệp thuộc ngưỡng phải thông báo tập trung kinh tế thì thủ tục
xem xét các vụ việc tập trung kinh tế gồm các bước:
- Nộp hồ sơ và thủ tục tiếp nhận hồ sơ tập trung kinh tế từ cơ quan quản lý
cạnh tranh quốc gia
15


- Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và thẩm định hồ sơ ( sơ bộ- chính thức):

- Yêu cầu bổ sung thông tin nếu thiếu (ko quá 2 lần).
- Tham vấn trong quá trình thẩm định và yêu cầu các cá nhân tổ chức có
liên quan cung cấp thơng tin.
- Ra quyết định về việc tập trung kinh tế.

4. Các trường hợp trong tập trung kinh tế
a. Trường hợp miễn trừ thuộc diện bị cấm
16



Miễn trừ là thủ tục cho phép hưởng ngoại lệ có thời hạn của những diện tập
trung kinh tế bị tuyên bố là cấm. Trong luật cạnh tranh, miễn trừ được áp dụng đối
với một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế dựa trên
những cơ sở lý luận và thực tiễn nhất định.
Thứ nhất, việc xem xét cho hưởng miễn trừ dựa trên sự cân nhắc đến tác
dụng tích cực cho sự phát triển của thị trường, đến lợi ích của người tiêu dùng
hoặc xa hơn nữa là lợi ích chung của nền kinh tế, chẳng hạn như khả năng hình
thành các doanh nghiệp hay tập đồn kinh tế có sức cạnh tranh cao hơn trên
trường quốc tế;
Thứ hai, không phải mọi trường hợp tập trung kinh tế đều gây ra hoặc có
khả năng gây ra tác động tiêu cực đến cạnh tranh. Có những vụ tập trung kinh tế
mặc dù có yếu tố thị phần kết hợp lớn nhưng gây ra ảnh hưởng khơng đáng kể
hoặc vụ tập trung kinh tế có thể đem lại những lợi ích kinh tế - xã hội lớn hơn so
với những thiệt hại đối với thị trường mà nó gây ra. Chính vì vậy, có thể nói rằng
quy định về miễn trừ trong Pháp luật Cạnh tranh là hướng đến sự mềm dẻo và
hiệu quả trong vấn đề điều tiết nền kinh tế, làm cho việc tuân thủ pháp luật sao
cho có lợi nhất cho nền kinh tế.
b. Trường hợp tập trung kinh tế có điều kiện (Điều 42 Luật cạnh tranh
2018).
Là tập trung kinh tế được thực hiện nhưng phải đáp ứng một hoặc một số
các điều kiện:
+ Chia, tách, bán lại phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế;
+ Kiểm soát nội dung liên quan đến giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các
điều giao dịch khác trong hợp đồng hình thành sau khi tập trung kinh tế;
+ Biện pháp khác nhằm khắc phục khả năng tác động đến hạn chế cạnh tranh trên
thị trường, hoặc tăng cường tác động tích cực đến tập trung kinh tế.


5. Vi phạm pháp luật tập trung kinh tế
Vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế của doanh nghiệp được hiểu là việc
các doanh nghiệp thực hiện một trong hai hành vi sau:
17


(1) Tiến hành tập trung kinh tế thuộc trường hợp bị cấm (nếu không thuộc
trường hợp được hưởng miễn trừ): hành vi sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp bị
cấm, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm;
(2) Tiến hành tập trung kinh tế mà không thông báo (nếu trường hợp tập
trung kinh tế đó thuộc trường hợp phải thông báo). Là hành vi các doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế không nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế đến Ủy
ban Cạnh tranh Quốc gia theo quy định tại Điều 34 của Luật cạnh tranh 2018
trước khi tiến hành tập trung kinh tế nếu thuộc ngưỡng thông báo tập trung kinh
tế.

6. Chế tài
Mỗi hành vi vi phạm, chủ thể vi phạm phải chịu hình phạt chính là phạt tiền
tối đa là 05% tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị trường liên quan
trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm (Điều 111, Luật Cạnh
Tranh 2018).
Ngoài việc bị phạt tiền, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của doanh
nghiệp cịn có hình phạt khác (Điều 23, 24, 25, 26, Nghị định số 71/2014/NĐ-CP).

7. Xử lý vi phạm và cơ quan quản lý tập trung kinh tế.
Doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế thuộc trường hợp phải
thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh mà không thông báo với cơ quan này sẽ
bị phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện
hành vi vi phạm của từng doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế (Điều 27, Nghị
định số 71/2014/NĐ-CP).

Pháp luật về kiểm sốt tập trung kinh tế khơng có mục đích cấm đốn, hạn
chế các hành vi tập trung kinh tế mà nhằm để bảo vệ cạnh tranh, đồng thời phát
huy những khía cạnh tích cực đối với cạnh tranh do tập trung kinh tế đem lại. Mặt
khác, bản chất của kiểm soát tập trung kinh tế là dựa trên cơ sở của việc đánh giá
các tác động nhằm xác định liệu vụ tập trung kinh tế có gây hại đến sự cạnh tranh
hay không và việc kiểm soát vụ tập trung kinh tế nên ở mức độ và phạm vi nào?

18


CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT
CẠNH TRANH.
1. Cơ quan quản lý cạnh tranh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, có hai cơ quan cạnh tranh độc lập
với nhau bao gồm Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Cơ quan
quản lý cạnh tranh do Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ
máy và có trách nhiệm điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn
chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan
do Chính phủ thành lập có nhiệm vụ tổ chức xử lý đối với các vụ việc cạnh tranh
liên quan tới hành vi hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên trong thời gian qua, mơ hình hai cơ quan nói trên đã bộc lộ
nhiều bất cập, khơng đáp ứng được nhu cầu thực tiễn: kéo dài quá trình giải
quyết vụ việc cạnh tranh, nguồn lực bị phân tán khiến việc giải quyết vụ việc cạnh
tranh chưa được tập trung, kết quả giải quyết vụ việc luôn đi sau diễn biến của thị
trường và chưa thể hiện vai trò can thiệp kịp thời của Nhà nước để khắc phục
những khiếm khuyết của thị trường. Bên cạnh đó, việc duy trì cơ chế kiêm nhiệm
trong hoạt động của thành viên Hội đồng Cạnh tranh dẫn đến sự thiếu tập trung
trong q trình giải quyết vụ việc cạnh tranh…
Do đó, để khắc phục bất cập này Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 được
Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ V đã quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh

Quốc gia với vai trò là cơ quan đơn nhất tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công
Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh và trực tiếp thực
hiện việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh trên cơ sở
hợp nhất, tổ chức lại Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng và Hội đồng
Cạnh tranh(gồm Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh).

2. Thực tiễn áp dụng
Hơn 14 năm thực thi Luật Cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tích
cực triển khai theo dõi, giám sát hoạt động tập trung kinh tế đối với nhiều ngành,
lĩnh vực trong nền kinh tế và đã đạt được những kết quả nhất định. Theo Báo cáo
của Bộ Công thương về số vụ việc thông báo tập trung kinh tế và vụ việc tham
19


vấn về tập trung kinh tế cả trước và trong quá trình các doanh nghiệp thực hiện tập
trung kinh tế, tính đến hết năm 2018, Việt Nam đã thụ lý 40 vụ việc thông báo tập
kinh tế, 50 vụ việc tham vấn tập trung kinh tế.
Năm 2018 Cục đã tiếp nhận và xử lý 04 hồ sơ thông báo tập trung kinh tế;
tiếp nhận và trả lời tham vấn 03 hồ sơ tham vấn tập trung kinh tế của các doanh
nghiệp; tiến hành rà soát 05 vụ việc tập trung kinh tế và tiến hành điều tra 01 vụ
việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh về tập trung kinh tế.
Số vụ việc cạnh tranh được phát hiện, điều tra, xử lý trong thời gian qua còn
khiêm tốn, nhưng xét trong bối cảnh chung của nền kinh tế nước ta cịn nhiều khó
khăn, thách thức, nguồn nhân lực và kinh nghiệm thực tiễn của cơ quan quản lý
cạnh tranh cịn nhiều hạn chế, mơi trường kinh doanh tiềm ẩn nhiều hành vi tập
trung kinh tế có tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh nhất là trong những
lĩnh vực có quy mơ lớn hoặc đóng vai trị thiết yếu trong nền kinh tế như phân
phối, bán lẻ, năng lượng, dược phẩm, vận tải, du lịch, … thì quy định về kiểm soát
tập trung kinh tế trong Luật Cạnh tranh đã dần phát huy tác dụng.


3. Phân tích tình huống thực tế
VỤ VIỆC TẬP TRUNG KINH TẾ GIỮA
CƠNG TY TNHH GRABTAXI VÀ CƠNG TY TNHH UBER VIỆT
NAM
a. Tóm tắt vụ việc
- Theo hợp đồng được ký ngày 25 tháng 3 năm 2018, Công ty Grab
Holdings Inc. (Bên Mua) giao dịch mua lại các tài sản và tiếp nhận người lao
động, hợp đồng và dữ liệu của Công ty Uber International C.V. (Bên Bán 1) và
Công ty Apparate International C.V. (Bên Bán 2) liên quan đến các lái xe, hành
khách và người tiêu dùng của dịch vụ đặt xe, đặt hàng và giao nhận đồ ăn nhưng
không bao gồm ứng dụng công nghệ của Uber tại thị trường Đông Nam Á, trong
đó có Việt Nam. Hợp đồng chuyển nhượng chung (Purchase Agreement) quy định
tại 08 quốc gia Đông Nam Á, Công ty Grab Holdings Inc. trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các công ty con hoặc công ty liên kết của mình mua một số tài sản và
tiếp nhận một số nghĩa vụ từ Bên Bán 1 và Bên Bán 2 và/hoặc các công ty liên kết
20


tương ứng thông qua việc ký kết các thỏa thuận chuyển nhượng riêng (Bill of
Sale). Theo quy định tại Hợp đồng chuyển nhượng chung, thỏa thuận mua bán
riêng (Bill of Sale) là một phần để tạo lập hiệu lực đầy đủ cho Hợp đồng chuyển
nhượng chung và các bên có liên quan tiến hành giao dịch theo các điều khoản
của Hợp đồng mua bán chung.
- Tại Việt Nam, Công ty TNHH GrabTaxi (49% vốn của Grab Inc.) (sau đây
gọi tắt là “GrabTaxi”) và Công ty TNHH Uber Việt Nam (100% vốn của Uber
International Holding B.V - công ty con của Uber International C.V.) (sau đây gọi
tắt là “Uber Việt Nam”) đã ký kết Hợp đồng mua bán, chuyển nhượng và tiếp
nhận nghĩa vụ ngày 25 tháng 3 năm 2018 về việc Uber Việt Nam bán các tài sản,
hoạt động kinh doanh, các lợi ích khác tại Việt Nam của mình cho GrabTaxi.
- Ngay sau khi ký kết hợp đồng mua bán, GrabTaxi đã phát hành Hối phiếu

nhận nợ cho Uber Việt Nam theo quy định tại Hợp đồng (Hối phiếu trị giá
37.914.755.060 VNĐ). Đồng thời, GrabTaxi đã tiếp nhận một số tài sản, hợp đồng
từ Uber Việt Nam chuyển sang.
- Ngày 30 tháng 11 năm 2018, Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ
người tiêu dùng đã ban hành Kết luận điều tra số 05/KL-CT. Ngày 09 tháng 4 năm
2019, Cục trưởng Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã ban hành Kết
luận điều tra bổ sung số 02/KL-CT. Các kết luận điều tra này xác định:
o
Hình thức tập trung kinh tế: Hành vi tập trung kinh tế của Bên bị điều
tra là hành vi tập trung kinh tế theo hình thức mua lại doanh nghiệp quy định tại
khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh.
o
Thị trường liên quan trong vụ việc: Bao gồm 02 thị trường liên quan
như sau:
 Thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải hành khách giữa người
đi xe với lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài tại
Thành phố Hà Nội.
 Thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải hành khách giữa người

o

đi xe với lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Thị phần kết hợp:

Thị phần kết hợp trên các thị trường liên quan trong năm 2017 như sau:
21


 Thị phần kết hợp trên thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải

hành khách giữa người đi xe với lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng
phần mềm và tổng đài tại Hà Nội là 44,10%.
 Thị phần kết hợp trên thị trường dịch vụ trung gian kết nối vận tải
hành khách giữa người đi xe với lái xe ô tô dưới 09 chỗ trên nền tảng
phần mềm và tổng đài tại Thành phố Hồ Chí Minh là 82,68%.
- Hành vi vi phạm:
Q trình điều tra xác định Bên bị điều tra đã thực hiện 02 hành vi vi phạm:
o

Hành vi không thông báo tập trung kinh tế quy định tại Điều 20 Luật

Cạnh tranh.
Hành vi tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 Luật Cạnh
tranh, cụ thể là hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm theo quy định tại Điều 25
Nghị định số 71/2014/NĐ-CP1.
o

(Đây là vụ việc có tính chất phức tạp nên nhóm phân tích đã tối lược nhất
thơng tin để giảm mức độ phức tạp của vụ việc)
b. Phân tích
- Để xác định hoạt động tập trung kinh tế được tự do, bị kiểm sốt hay bị
cấm thì theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004, giao dịch mua bán và sáp nhập
(M&A) đó phải được xác định là tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 16. Theo
đó, có 5 hình thức được coi là tập trung kinh tế, bao gồm: Sáp nhập doanh nghiệp;
Hợp nhất doanh nghiệp; Mua lại doanh nghiệp; Liên doanh giữa các doanh
nghiệp; Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Nhóm sẽ
phân tích từng hành vi tập trung kinh tế theo điều 16.
- Sát nhập doanh nghiệp được hiểu: Sáp nhập doanh nghiệp là việc một
hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
1


Điều 25. Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm

1. Phạt tiền đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh
nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại đối với hành vi mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp khác bị cấm theo quy định tại Điều 18 của Luật Cạnh tranh.
2. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp mua lại cịn có thể bị buộc
phải bán lại phần tài sản mà doanh nghiệp đã mua.

22


pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
- Về bản chất pháp lý, việc sáp nhập và hợp nhất là những giải pháp tổ chức
lại doanh nghiệp, theo đó, các doanh nghiệp thay vì hoạt động độc lập có thể tổ
chức lại thành một doanh nghiệp duy nhất và có sự chấm dứt hoạt động của các
doanh nghiệp bị sáp nhập, bị hợp nhất.
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để
hình thành một doanh nghiệp mới. liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh
nghiệp thông qua việc cùng tham gia thành lập một doanh nghiệp mới. Nói cách
khác, sự tồn tại của doanh nghiệp mới tạo nên mối liên kết giữa các doanh nghiệp
tham gia
- Công ty TNHH Uber Việt Nam đã chuyển nhượng cho Công ty TNHH
GrabTaxi một số loại tài sản và Công ty TNHH GrabTaxi đã phát hành cho Công
ty TNHH Uber Việt Nam hối phiếu nhận nợ. Có thể thấy ở đây quan hệ phát sinh

là quan hệ mua bán tài sản nên không thuộc 3 trường hợp đã nêu ở trên.
- Chỉ có hành vi mua lại doanh nghiệp là có vẻ có liên quan đến vụ việc.
Theo hướng dẫn của Điều 34 Nghị định 116/2005/NĐ-CP 2 (Nghị định 116) thì
mua lại doanh nghiệp được hiểu là một doanh nghiệp giành được quyền sở hữu tài
sản của doanh nghiệp khác đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc
2

Điều 34. Kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp khác

Kiểm sốt hoặc chi phối tồn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp khác quy định tại khoản 3 Điều
17 của Luật Cạnh tranh là trường hợp một doanh nghiệp (sau đây gọi là doanh nghiệp kiểm soát) giành
được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp khác (sau đây gọi là doanh nghiệp bị kiểm soát) đủ chiếm
được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở mức mà theo quy
định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm soát chi phối
các chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm sốt nhằm thu được lợi ích kinh tế từ
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát.

23


điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp kiểm sốt chi phối các
chính sách tài chính và hoạt động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được
lợi ích kinh tế từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát. Bản chất
của quy định này đó là mua cổ phần. Và việc mua cổ phần này đủ để bên mua có
quyền kiểm sốt trong các cơ quan quản lý của bên bán.
- Trong khi đó, Uber đã đổi thị trường ĐNA để lấy 26% cổ phần của Uber.
Như vậy, xét trong khuôn khổ rất giới hạn của Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004 và
hướng dẫn của Điều 34 Nghị định 116, Uber không đủ để kiểm sốt Grab. Trong
khi đó Grab lại khơng sở hữu cổ phần của Uber, nên họ khơng có quyền biểu

quyết trong các cơ quan quản lý của Uber (mặc dù thực tế thoả thuận M&A đã
chuyển toàn bộ hoạt động của Uber tại ĐNA cho Grab).
- Nhìn từ góc độ M&A, đây là một cấu trúc phức tạp. Cấu trúc giao dịch
khơng thuần là một giao dịch hốn đổi cổ phiếu. Bởi hệ quả của giao dịch không
mang lại quyền sở hữu cổ phiếu cho Grab. Nếu xét từ bản chất, đây là một giao
dịch mua tài sản, trong đó có hai biến tấu quan trọng:
o

Thứ nhất, tồn bộ hoạt động của Uber tại ĐNA được hiểu là toàn bộ

khách hàng (user), cơ sở dữ liệu người dùng, đội ngũ vận hành và các yếu tố bổ
trợ khác, hình thành nên cái gọi là tài sản;
o

Thứ hai, bên mua khơng thanh tốn bằng tiền mà thanh tốn bằng cổ

phiếu của chính mình. Kết quả của giao dịch này, giúp cho Grab loại bỏ một đối
thủ lớn, mở rộng thị trường, trong khi đó Uber thì được 26% cổ phần của Grab.
Mặt khác, thị trường liên quan bị điều tra trong vụ việc là dịch
vụ trung gian kết nối vận tải hành khách giữa người đi xe với lái xe ô tô dưới
09 chỗ trên nền tảng phần mềm và tổng đài tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của Công ty
TNHH Uber Việt Nam (trước và sau khi thực hiện giao dịch mua bán, chuyển
nhượng tài sản) khơng có ngành nghề kinh doanh trong lĩnh vực gọi xe hay
cung cấp dịch vụ vận tải tại Việt Nam, cũng không trực tiếp quản lý, vận
hành ứng dụng Uber mà Công ty Uber B.V. mới là doanh nghiệp trực tiếp
quản lý, vận hành ứng dụng Uber. Bởi vậy, việc mua bán, chuyển nhượng và
tiếp nhận nghĩa vụ giữa Công ty TNHH GrabTaxi và Công ty TNHH Uber
24



Việt Nam không liên quan trực tiếp đến việc Công ty GrabTaxi kiểm sốt, chi
phối hoạt động của Cơng ty Uber Việt Nam.
c. Kết luận
- Như những gì vừa phân tích, giao dịch Grab-Uber khơng thoả mãn yếu tố
là một giao dịch mua lại. Đối với khoản 5 Điều 16 Luật Cạnh tranh 2004, đây là
một quy định mang tính dự phịng. Theo đó, Luật Cạnh tranh 2004 mở ra khả
năng cho phép các luật khác có những quy định khác về tập trung kinh tế. Tuy
vậy, đối chiếu vào 3 lĩnh vực có liên quan là pháp luật doanh nghiệp, pháp luật về
GTVT và pháp luật về công nghệ thơng tin, tính đến thời điểm tiến hành giao
dịch, khơng có bất kì định nghĩa nào khác về tập trung kinh tế.
- Như vậy, giao dịch Grab-Uber không phải là hoạt động tập trung kinh tế
theo Luật Cạnh tranh 2004. Thực tế là giao dịch này ảnh hưởng rất lớn đến thị
trường vận tải tại Việt Nam. Bởi sau khi Uber rời khỏi Việt Nam, mặc dù thị
trường xuất hiện thêm một vài doanh nghiệp khác nhưng về cơ bản, quy mô và lợi
thế cạnh tranh đều không thể so sánh được với Grab.
- Cái thiếu sót của Luật Cạnh tranh 2004 thể hiện ở chỗ nhà làm luật lấy thị
phần làm căn cứ duy nhất và liệt kê các hành vi được coi là tập trung kinh tế tại
Điều 16. Nói cách khác, với cách tiếp cận này, Luật Cạnh tranh 2004 đã không đủ
khái quát tất cả các trường hợp tác động xấu đến cạnh tranh mà vụ Grab đang đề
cập ở đây là một ví dụ.
- Cũng thương vụ này, Singapore cũng điều tra vi phạm cạnh tranh giữa
Grab và Uber vì thương vụ sáp nhập của 2 công ty này. Ủy ban Cạnh tranh và
Tiêu dùng Singapore phạt Grab và Uber tổng cộng 9,1 triệu USD, trong đó Uber
bị phạt 4,6 triệu USD, Grab hơn 4,5 triệu USD, còn Cơ quan Quản lý cạnh tranh
Phillippines cũng tuyên phạt 16 triệu Peso (gần 300.000 USD).

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×