TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI
Bài giảng học phần
DẠY HỌC NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI
Chương trình đại học ngành Sư phạm Ngữ văn
Giảng viên: HUỲNH THỊ NGỌC KIỀU
Khoa: Sư phạm Xã hội
QUẢNG NGÃI, THÁNG 4/2021
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC TÍCH CỰC
VÀ TÍCH HỢP
1.1. Dạy học tích cực
Phương pháp dạy học (PPDH) tích cực là một thuật ngữ rút gọn được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng đến việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy. Tuy nhiên, để dạy
học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy học theo phương
pháp thụ động.
1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học
- Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa
VII (tháng 01/1993) và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (tháng 12/1996), được thể chế
hóa trong luật Giáo dục, được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ GD – ĐT, đặc biệt là chỉ thị
số 15 (tháng 4/1999)
- Dạy và học tích cực thực sự có hiệu quả khi GV thực hiện tốt 5 yếu tố tăng cường sự
tham gia của học sinh:
+ Khơng khí học tập và các mối quan hệ trong nhóm/lớp.
+ Sự phù hợp với mức phát triển của học sinh.
+ Sự gần gũi với thực tế.
+ Mức độ và sự đa dạng của hoạt động.
+ Phạm vi tự do sáng tạo.
-Hai yếu tố cốt lõi của định hướng đổi mới PPDH theo hướng tích cực là: cảm giác
thoải mái và sự tham gia. Cảm giác thoải mái và sự tham gia tích cực có thể trở thnahf tiêu
chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng của q trình giáo dục. Điều đó có nghĩa là giáo viên cần
phải thiết kế những hoạt động học tập nhằm đảm bảo mức độ tham gia cao và tham gia tích
cực của người học, tác động đến tình cảm, thái độ của người học và đem đến cho họ niềm vui
và sự hứng thú trong học tập.
Những định hướng này sẽ làm thay đổi vai trò của người dạy và người học, trong đó,
Giáo viên chủ yếu giữ vai trị là người tạo môi trường học tập thân thiện, phong phú, đa dạng,
2
là người tư vấn, chỉ dẫn, động viên, kèm cặp, đưa đến những thông tin phản hồi cần thiết,
định hướng quá trình lĩnh hội tri thức và cuối cùng là người thể chế hóa kiến thứuc
1.1.2. Những dấu hiệu và cấp độ biểu hiện tính tích cực học tập
1.1.2.1. Những dấu hiệu của tính tích cực học tập:
- Học sinh khao khát, tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các
câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề nêu ra.
- Học sinh hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình
bày chưa rõ ràng.
- Học sinh chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức
các vấn đề mới.
- Học sinh mong muốn được đóng góp với thầy, với bạn bè những thơng tin mới lấy từ
những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngồi phạm vi bài học, mơn học.
1.1.2.2. Cấp độ biểu hiện của tính tích cực học tập
- Bắt chước: Học sinh bắt chước hành động, thao tác của giáo viên, của bạn bè. Trong
hoạt động bắt chước cũng phải có sự cố gắng của thần kinh và cơ bắp.
- Tìm tịi: học sinh tìm cách độc lập, tự lực giải quyết bài tập nêu ra, mò mẫm những
cách giải khác nhau để tìm cho được lời giải hợp lý nhất.
- Sáng tạo: học sinh nghĩ ra cách giải mới, độc đáo, đề xuất những giải pháp có hiệu
quả, có sáng kiến lắp đặt những thí nghiệm để chứng minh bài học. Dĩ nhiên, mức độ sáng tạo
của học sinh là có hạn nhưng đó là mầm mống để phát triển trí sáng tạo về sau này.
1.1.3. Mối quan hệ giữa tích cực học tập và hứng thú nhận thức
- Từ lâu, các nhà sư phạm đã quan tâm đến vai trị của hứng thú nhận thức trong q
trình học tập.
- Lý luận dạy học xem hứng thú là yếu tố có ý nghĩa to lớn khơng chỉ trong q trình
dạy học mà cả đối với sự phát triển tồn diện, sự hình thành nhân cách của trẻ.
- Hứng thú là yếu tố dẫn tới sự tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý bảo
đảm tính tích cực và độc lập, sáng tạo trong học tập.
- Để hình thành và phát triển hứng thú nhận thức của học sinh cần có các điều kiện
sau:
+ Phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực của học sinh.
+ Tiến hành dạy học ở mức độ thích hợp nhất đối với trình độ phát triển của học sinh.
3
+ Tạo ra khơng khí thuận lợi cho lớp học, làm cho học sinh thích thú được đến lớp,
mong đợi đến giờ học.
1.1.4. Mối quan hệ giữa tư duy tích cực và sáng tạo
- Trí sáng tạo thường được hiểu là khả năng sản sinh những ý tưởng mới, độc đáo, hữu
ích, phù hợp với hồn cảnh. Việc đánh giá tính sáng tạo được căn cứ vào số lượng, tính mới
mẻ, tính độc đáo, tính hữu ích của các đề xuất.
- Tính sáng tạo thường liên quan tới tư duy tích cực, chủ động, độc lập, tự tin. Người
có trí sáng tạo không chịu suy nghĩ theo lề lối chung, không bị ràng buojc bởi những quy tắc
hành động cứng nhắc đã học được, ít chịu ảnh hưởng của người khác.
- Muốn phát triển trí sáng tạo của học sinh phải áp dụng kiểu dạy học tích cực – phân
hóa.
1.1.5. Mối quan hệ giữa phát huy tính tích cực học tập với dạy học lấy học sinh
làm trung tâm
- Có thể xem dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một tư tưởng, một quan điểm, một
cách tiếp cận mới về hoạt động dạy học. Người ta tập trung vào người học, dạy học căn cứ
vào người học, dạy học hướng vào người học.
- Chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm snag dạy học lấy học sinh làm trung
tâm là một xu hướng tất yếu, có lý do lịch sử.
- Nhìn theo quan điểm lịch sử thì dạy học lấy học sinh làm trung tâm là sự trả lại vị trí
vốn có từ thuở ban đầu cho người học.
- Đã coi trọng vị trí của người học và vai trị của người học thì đương nhiên phải phát
huy tính tích cực học tập của người học. tuy nhiên, dạy học lấy học sinh làm trung tâm không
phải là một phương pháp dạy học cụ thể đặt ngang tầm với các phương pháp dạy học đã có.
Đó là một tư tưởng, một quan điểm giáo dục chi phối tất cả các thành tố của quá trình dạy học
từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến phương tiện, tổ chức, đánh giá.
- Tư tưởng lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học đề cao vai trị tích cực của
chủ thể người học nhưng khơng coi nhẹ vai trò chỉ đạo của người dạy.
1.1.6. Ý nghĩa của vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong thời
kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
(Sinh viên tự nghiên cứu và thuyết trình trên lớp)
1.1.7. Những dấu hiệu đặc trưng của dạy và học tích cực
4
1.1.7.1. Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Trong dạy và học tích cực, người học – đối tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ
thể trong hoạt động học – được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và
chỉ đạo. Tham gia vào các hoạt động học tập, người học được đặt vào những tình huống, được
trực tiếp quan sát, thảo luận, trao đổi, làm thí nghiệm, được khuyến khích đưa ra các giải pháp
giải quyết vấn đề theo cách của mình, được động viên trình bày quan điểm riêng của mỗi cá
nhân. Qua đó người học không những chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng mới mà còn làm chủ
cách thức xây dựng kiến thức, từ đó tính chủ động và sáng tạo có cơ hội được bộc lộ, rèn
luyện.Tổ chức các hoạt động học tập của học sinh phải trở thành trung tâm của quá trình giáo
dục. Giáo viên cần biết lập kế hoạch dạy học để hướng dẫn học sinh phát triển các năng lực
cần thiết trong cuộc sống, trong và ngoài nhà trường, ở hiện tại cũng như trong tương lại.
1.1.7.2. Dạy và học chú trọng rèn phương pháp tự học
Phương pháp dạy và học tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.
Nếu người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen và ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lịng
say mê học tập, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người học và kết quả học tập sẽ được tăng
lên. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực
tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, vấn đề phát triển tự học phải
được quan tâm ngay từ bậc phổ thông, không chỉ trong các tiết học có sự hướng dẫn của giáo
viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
1.1.7.3. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác
Trong dạy và học tích cực, giáo viên cần quan tâm đến sự phân hóa về trình độ nhận
thức, cường độ, tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mỗi học sinh. Trên cơ sở đó,
xây dựng các nhiệm vụ/ bài tập, mức độ hỗ trợ phù hợp với khả năng của mỗi cá nhân nhằm
phát huy khả năng tối đa của người học.
Lớp học là môi trường giao tiếp thày – trò, trò – trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa
các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận
trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng
mình lên một trình độ mới. Tuy nhiên, để học tập hợp tác có hiệu quả, giáo viên cần hình
thành cho người học thói quen học tập tự giác, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau. Đồng thời nhiệm
vụ được giao phải rõ ràng, cụ thể, mỗi thành viên trong nhóm đều được phân cơng, xác định
5
rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mình để tránh tình trạng dựa dẫm, ỷ lại hoặc có những biểu hiện
khơng hợp tác.
Phổ biến trong dạy và học là hoạt động hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập
hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất
hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung.
Trong thời hội nhập đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia, năng
lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
1.1.7.4. Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu và
lợi ích xã hội.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chủ động lựa chọn vấn đề mà mình
quan tâm ham thích, tự lực tiến hành nghiên cứu giải quyết vấn đề và trình bày kết quả. Việc
nghiên cứu có thể tiến hành theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ.
Các chủ đề/ nội dung tìm hiểu, nghiên cứu có thể do học sinh tự đề xuất hoặc lựa chọn
trong các chủ đề/ nội dung do giáo viên giới thiệu, định hướng. Các chủ đề/ nội dung này cần
gắn với nhu cầu, lợi ích của người học cũng như của thực tiễn xã hội. Thông qua dạy học rèn
luyện cho học sinh cách làm việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng tổ chức cơng
việc, trình bày kết quả. Giáo viên cần thiết kế các tình huống học tập sao cho kích thích lơi
cuốn được sự tham gia tích cực, tự chủ của người học và đảm bảo nguyên tắc phân hóa trong
dạy học. Cần động viên, khuyến khích, hỗ trợ kịp thời để đảm bảo tất cả học sinh đều chủ
động tham gia một cách tích cực.
1.1.7.5. Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tịi
Việc coi trọng hướng dẫn, tìm tịi là giúp học sinh phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề
và nhấn mạnh rằng học sinh có thể học được phương pháp học thơng qua hoạt động. Dấu hiệu
đặc trưng này có thể áp dụng ngay cho học sinh nhỏ tuổi nếu có tài liệu cụ thể và có sự giúp
đỡ của giáo viên, đặc biệt có hiệu quả với những học sinh ở các lớp cao hơn vì học sinh đã có
khả năng làm việc độc lập, tự giác, tư duy logic, khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá đã
phát triển. Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tịi địi hỏi về phía người học sự học tập tích
cực để tìm lời giải đáp cho vấn đề đặt ra và về phía người dạy cần có hướng dẫn kịp thời giúp
cho sự tìm tịi của người học đạt kết quả.
Mối quan hệ giữa các mức độ hỗ trợ của Giáo viên với nhu cầu của Học sinh.
Mức độ hỗ trợ
6
Nhu cầu
Nhiều
Ít
Nhiều
Cân bằng
Tích cực
Ít
Nhàm chán
Cân bằng
Khơng có
Thiếu thốn (bị bỏ rơi)
Tích cực
Khơng có Khơng tích cực Nhàm chán
Cân bằng
Một nhiệm vụ học tập tốt là nhiệm vụ đặt ra thách thức đối với người học. Nhiệm vụ
không nên quá dễ cũng khơng q khó để tránh tình trạng nhàm chán hoặc tâm lí sợ thất bại
đối với học sinh. Để đạt được sự cân bằng cần đa dạng và thiết kế cho từng đối tượng, từng
trình độ học sinh trong điều kiện cho phép. Một nhiệm vụ thách thức sẽ đặt ra nhu cầu cần hỗ
trợ đối với học sinh. Giáo viên cần quan sát để có sự hỗ trợ kịp thời, đó những can thiệp tích
cực như đưa ra các câu hỏi gợi mở, giải thích rõ ràng hơn hoặc hướng dẫn học sinh đi vào
trọng tâm của vấn đề…
1.1.7.6. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Đánh giá tập trung vào kết quả
học tập của học sinh qua điểm số của các bài kiểm tra, thi cử. Trong dạy và học tích cực, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để điều chỉnh cách học.
Tự đánh giá là một hình thức đánh giá mà học sinh tự liên hệ phần nhiệm vụ đã thực
hiện với các mục tiêu của q trình học tập. Tự đánh giá khơng chỉ đơn thuần là tự cho điểm
số mà là sự đánh giá những nỗ lực, quá trình và kết quả hoặc có thể phản hồi lại q trình học
của mình. Học sinh nhìn lại quá trình học tập của mình và biết được mức độ hoàn thành đã
đạt yêu cầu chưa. Tự đánh giá giúp cho học sinh có thể ý thức hơn về quá trình học tập, đồng
thời cũng ý thức rõ hơn về điểm mạnh, điểm yếu và cách học của mình để tiến bộ trong giai
đoạn sau.
Cùng với tự đánh giá, giáo viên cần tổ chức cho học sinh đánh giá lẫn nhau hay còn gọi
là đánh giá đồng đẳng, là một q trình trong đó các nhóm học sinh cùng độ tuổi hay cùng lớp
sẽ đánh giá công việc/ kết quả học tập lẫn nhau dựa trên các tiêu chí đã được định sẳn do giáo
viên cung cấp. Việc đánh giá đồng đẳng vừa giúp học sinh đánh giá kết quả học tập của bạn
vừa thông qua đó để so sánh, nhìn nhận lại kết quả của chính mình, từ đó có sự điều chỉnh
cách giải quyết vấn đề, cách học, chia sẻ kinh nghiệm từ kết quả của mình và của bạn, thúc
đẩy kết quả học tập ngày một tốt hơn.
7
Kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trị khơng những giúp cho học sinh nhìn nhận
chính mình và điều chỉnh cách học mà giáo viên cũng có điều kiện để nhìn nhận chính mình
mà điều chỉnh cách dạy.
Dạy và học tích cực nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo người lao động năng động, sáng tạo
sớm thích nghi với đời sống xã hội, do vậy, kiểm tra – đánh giá không chỉ dừng ở yêu cầu ghi
nhớ, tái hiện kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà phải phát triển ở người học tư duy lơgic, tư duy phê phán, khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, giải quyết các vấn đề mà thực
tiễn cuộc sống đặt ra.
1.1.8. Biểu hiện của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực.
Dạy học là cách giáo viên tổ chức hoạt động học tập để đạt được mục tiêu bài học.
Trong dạy và học tích cực giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học
tập nhằm phát huy mọi năng lực, sở trường của mỗi học sinh, tạo niềm tin và niềm vui trong
học tập; học sinh là người chủ động tìm tịi, khám phá, phát hiện các tình huống có vấn đề
trong học tập và trong đời sống, tự mình hoặc cùng bạn trong nhóm, trong lớp lập kế hoạch,
cho phương thức hợp lí để giải quyết vấn đề và chiếm lĩnh kiến thức. Các biểu hiện cụ thể của
dạy và học tích cực như sau:
- Giáo viên di chuyển trong lớp, quan sát và hỗ trợ học sinh khi cần thiết.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động chiếm lĩnh nội dung tri thức.
- Giáo viên huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có của học sinh để xây dựng bài,
khai thác nội dung dạy học trong sách giáo khoa phù hợp với nhu cầu và khả năng nhận thức
của học sinh.
- Học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, chủ động, tích cực tìm tịi, trao đổi thảo luận
trong q trình giải quyết nhiệm vụ.
- Giáo viên khuyến khích, tạo cơ hội để học sinh nêu ý kiến, suy nghĩ cá nhân về vấn đề
đang học, nêu thắc mắc trong khi nghe giảng, trả lời theo nhiều phương án khác nhau.
- Giao tiếp đa chiều giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học sinh.
- Giáo viên làm việc với từng nhóm nhỏ, chú ý đến việc học qua trải nghiệm và sự giao
tiếp, hợp tác của học sinh. Giáo viên quan tâm đến phong cách học, trình độ và nhịp độ của
mỗi cá nhân.
- Sử dụng các nguồn lực, phương tiện dạy học đa dạng, khuyến khích học sinh sử dụng
các giác quan và hình thức học tập khác nhau để lĩnh hội kiến thức.
8
- Giáo viên đánh giá khuyến khích cách giải quyết sáng tạo, ghi nhớ trên cơ sở tư duy lô
–gic
- Giáo viên khuyến khích học sinh nhận xét, đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá.
1.1.9. Các yếu tố thúc đẩy dạy và học tích cực.
Dạy và học tích cực địi hỏi một số điều kiện, trong đó quan trọng nhất là người giáo
viên. Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi chức năng, nhiệm
vụ đa dạng, phức tạp của mình. Giáo viên phải vừa có tri thức chun mơn sâu rộng, có trình
độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ thông tin vào dạy học,
biết định hướng sự phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo sự tự
do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm chất và năng
lực thích ứng với phương pháp tích cực như giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập,
có ý thức và trách nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và
phát triển các loại hình tư duy.
Chương trình và sách giáo khoa phải giảm bớt khối lượng kiến thức, tạo điều kiện cho
thầy và trị tổ chức những hoạt động học tập tích cực, giảm bớt các thông tin buộc học sinh
phải ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài tốn nhận thức, giảm bớt các câu hỏi tái hiện,
những kết luận áp đặt, tăng cường gợi ý để học sinh tự nghiên cứu phát triển bài học. Cần có
các phương tiện thiết bị dạy học thuận tiện cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc
hoạt động nhóm. Hình thức tổ chức phải dễ thay đổi phù hợp với hình thức dạy học.
Bổ sung, thay đổi cách đánh giá: việc kiểm tra đánh giá phải chuyển biến theo hướng
phát triển trí thơng minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt kiến thức, kĩ
năng đã học vào những tình huống thực tế.
Đặt vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học ở tầm quan trọng đúng mức ở mỗi trường.
Giáo viên cần được khuyến khích, tạo điều kiện để áp dụng các phương pháp tích cực trong
dạy và học đạt hiệu quả.
1.2. Dạy học tích hợp
1.2.1. Khái niệm
Tiến sĩ Hồng Thị Tuyết, nhận định: “Dạy tích hợp là dạy học theo hình thức đa mơn
hoặc liên mơn, đưa nhiều nội dung trong cùng một hoạt động nào đó… giúp học sinh nắm bắt
tốt kiến thức, hiểu được mối liên hệ then chốt giữa các thành tố trong cùng một lĩnh vực”.
9
Theo Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) trong cuốn Hỏi – đáp về dạy học Tiếng Việt 2, khi
nói về quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt có đề cập đến khái niệm này như sau:
“Tích hợp nghĩa là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết học, một bài học nhiều
mảng kiến thức và kĩ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục, tiết kiệm
thời gian học tập cho người học.”
Thực chất của dạy học tích hợp là vừa dạy nội dung lí thuyết và thực hành trong cùng
một bài dạy. Với cách hiểu đơn giản như vậy là chưa đủ mà đằng sau nó là cả một quan điểm
giáo dục theo mơ hình năng lực. Tích hợp đề cập đến các yếu tố sau:
- Nội dung chương trình đào tạo được thiết kế theo mô-đun định hướng năng lực.
- Phương pháp dạy học theo quan điểm dạy học định hướng giải quyết vấn đề và định
hướng hoạt động. Phương pháp dạy học định hướng giải quyết vấn đề là cách thức, con
đường mà giáo viên áp dụng trong việc dạy học để làm phát triển khả năng tìm tịi khám phá
độc lập của học sinh bằng cách đưa ra các tình huống có vấn đề và điều khiển hoạt động của
học sinh nhằm giải quyết các vấn.
1.2.2 Đặc điểm của dạy học tích hợp
1.2.2.1. Lấy người học làm trung tâm
Dạy học lấy người học làm trung tâm được xem là phương pháp đáp ứng yêu cầu cơ bản
của mục tiêu giáo dục nhất là đối với giáo dục nghề nghiệp, có khả năng định hướng việc tổ
chức q trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân hóa người học. Dạy học lấy
người học là trung tâm đòi hỏi người học là chủ thể của hoạt động học, họ phải tự học, tự
nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình, người học khơng chỉ được
đặt trước những kiến thức có sẵn ở trong bài giảng của giáo viên mà phải tự đặt mình vào tình
huống có vấn đề của thực tiễn, cụ thể và sinh động của nghề nghiệp rồi từ đó tự mình tìm ra
cái chưa biết, cái cần khám phá, học để hành, hành để học. Trong dạy học lấy người học làm
trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm, hợp tác với
nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo,
kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào giải quyết vấn đề.
Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại
lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ động nổ lực tìm kiếm
kiến thức của người học. Cịn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập,
đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành
10
động của chính mình. Người dạy phải dạy cái mà người học cần, các doanh nghiệp đang đòi
hỏi để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cao cho nền kinh tế- xã hội chứ không
phải dạy cái mà người dạy có. Quan hệ giữa người dạy và người học được thực hiện dựa trên
cơ sở tin cậy và hợp tác với nhau. Trong quá trình tìm kiếm kiến thức của người học có thể
chưa chính xác, chưa khoa học, người học có thể căn cứ vào kết luận của người dạy để tự
kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm về cách học của mình. Nhận ra những sai sót và biết cách
sửa sai đó chính là biết cách học.
1.2.2.2. Định hướng chuẩn đầu ra
Đặc điểm cơ bản nhất, có ý nghĩa trung tâm của đào tạo nghề theo năng lực thực hiện là
định hướng chú ý vào kết quả đầu ra của quá trình đào tạo xem người học có thể làm được cái
gì vào những cơng việc thực tiễn để đạt tiêu chuẩn đầu ra. Như vậy, người học để làm được
cái gì đó địi hỏi có liên quan đến chương trình, cịn để làm tốt cơng việc khác trong thực tiễn
như mong đợi thì liên quan đến đánh giá kết quả học tập. Người học đạt được những địi hỏi
đó cịn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người. Trong đào tạo, việc định hướng kết quả đầu ra
nhằm đảm bảo chất lượng trong quá trình đào tạo, cho phép người sử dụng sản phẩm đào tạo
tin tưởng và sử dụng trong một thời gian dài.
Dạy học tích hợp chú ý đến kết quả học tập của người học để vận dụng vào công việc
tương lai nghề nghiệp sau này, địi hỏi q trình học tập phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả
để thực hiện nhiệm vụ. Từ những kết quả đầu ra đi đến xác định vai trị của người có trách
nhiệm tạo ra kết quả đầu ra này, một vai trò tập hợp các hành vi được mong đợi theo nhiệm
vụ, công việc mà người đó sẽ thực hiện thật sự. Do đó, địi hỏi người dạy phải dạy được cả lí
thuyết chun mơn nghề nghiệp vừa phải hướng dẫn quy trình công nghệ, thao tác nghề
nghiệp chuẩn xác, phổ biến được kinh nghiệm, nêu được các dạng sai lầm, hư hỏng, nguyên
nhân và biện pháp khắc phục, biết cách tổ chức hướng dẫn luyện tập.
1.2.2.3. Dạy và học các năng lực thực hiện
Dạy học tích hợp có thể hiểu là một hình thức dạy học kết hợp giữa dạy lí thuyết và dạy
thực hành, qua đó ở người học hình thành một năng lực nào đó hay kĩ năng hành nghề nhằm
đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Dạy học phải làm cho người học có các năng lực tương ứng
với chương trình. Do đó, việc dạy kiến thức lí thuyết không phải ở mức độ hàn lâm mà chỉ ở
mức độ cần thiết nhằm hỗ trợ cho sự phát triển các năng lực thực hành ở mỗi người học.
Trong dạy học tích hợp, lí thuyết là hệ thống tri thức khoa học chuyên ngành về những vấn đề
11
cơ bản, về những quy luật chung của lĩnh vực chun ngành đó. Hơn nữa, việc dạy lí thuyết
thuần túy sẽ dẫn đến tình trạng lí thuyết sng, kiến thức sách vở khơng mang lại lợ i ích thực
tiễn. Do đó, cần gắn lí thuyết với thực hành trong q trình dạy học. Thực hành là hình thức
luyện tập để trau dồi kĩ năng, kỹ xảo hoạt động giúp cho người học hiểu rõ và nắm vững kiến
thức lí thuyết. Đây là khâu cơ bản để thực hiện nguyên lígiáo dục học đi đơi với hành, lí luận
gắn với thực tiễn. Thực hành phải có đủ phương tiện, kế hoạch, quy trình luyện tập gắn ngay
với vấn đề lí thuyết vừa học. Để hình thành cho người học một kĩ năng thì cần phải dạy cho
họ biết cách kết hợp và huy động hợp lícác nguồn nội lực (kiến thức, khả năng thực hiện và
thái độ) và ngoại lực (tất cả những gì có thể huy động được nằm ngồi cá nhân). Như vậy,
người dạy phải định hướng, giúp đỡ, tổ chức, điều chỉnh và động viên hoạt động của người
học. Sự định hướng của người dạy góp phần tạo ra môi trường sư phạm bao gồm các yếu tố
cần có đối với sự phát triển của người học mà mục tiêu bài học đặt ra và cách giải quyết
chúng. Người dạy vừa có sự trợ giúp vừa có sự định hướng để giảm bớt những sai lầm cho
người học ở phần thực hành; đồng thời kích thích, động viên người học nẩy sinh nhu cầu,
động cơ hứng thú để tạo ra kết quả mới, tức là chuyển hóa những kinh nghiệm đó thành sản
phẩm của bản thân.
Trong dạy học tích hợp, người học được đặt vào những tình huống của đời sống thực
tế, họ phải trực tiếp quan sát, thảo luận, làm bài tập, giải quyết nhiệm vụ đặt ra theo cách nghĩ
của mình, tự lực tìm kiếm nhằm khám phá những điều mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động
tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp xếp. Người học cần phải tiếp nhận đối tượng
qua các phương tiện nghe, nhìn, và phân tích đối tượng nhằm làm bộc lộ và phát hiện ra các
mối quan hệ bản chất, tất yếu của sự vật, hiện tượng. Từ đó, người học vừa nắm được kiến
thức vừa nắm được phương pháp thực hành. Như vậy, người dạy không chỉ đơn thuần truyền
đạt kiến thức mà còn hướng dẫn các thao tác thực hành.
1.2.3. Tích hợp – nguyên tắc dạy học hiện đại
- Tích hợp là điều nổi bật nhất của chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn, chi phối
cách xây dựng chương trình dạy học, chỉ đạo nội dung và phương pháp dạy học. Một cách
chung nhất có thể hiểu tích hợp là phương pháp phối hợp một cách tốt nhất các quá trình học
tập của nhiều môn học cũng như các phân môn như Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một môn
như Ngữ văn.
12
- Tích hợp là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo dục. Hiểu đúng
và làm tốt q trình tích hợp có thể đem lại những hiệu quả cụ thể đối với từng phân môn
trong một thể thống nhất của mơn Ngữ văn.
- Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo
kiến thức, kỹ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện và hợp lý.
- Tích hợp là quan điểm hịa nhập được hình thành từ sự nhất thể hóa những khả năng,
một sự quy tụ tối đa tất cả các đặc trưng chung vào một chỉnh thể duy nhất.
- Môn Ngữ văn thực hiện được quan điểm tích hợp vì mơn học này có những cơ sở
chung để thực hiện tích hợp thuận lợi hơn các mơn học khác
1.2.4. Phát triển chương trình theo hướng tích hợp
Việc phát triển một chương trình theo hướng tích hợp có những cấp độ sau:
- Tích hợp trong nội bộ môn học: các môn, các phần vẫn học riêng lẻ, nhưng trong q
trình giảng dạy, tích hợp được thực hiện thông qua việc loại bỏ những nội dung trùng lặp và
khai thác sự hỗ trợ giữa các bộ mơn, giữa các phần.
- Tích hợp đa mơn: Các mơn có liên quan với nhau có chung một định hướng về nội
dung và PPDH nhưng mỗi mơn lại có chương trình riêng. Tích hợp được thực hiện ở những
đề tài, dự án đòi hỏi người học vận dụng tổng hợp những kiến thức của các mơn học có liên
quan.
- Tích hợp liên mơn: kết hợp vài mơn học liên quan thành một mơn và nội dung mơn
học tích hợp được phân bố theo chủ đề có liên quan đến những mơn học ấy.
- Tích hợp xun mơn: nhiều mơn học liên quan được kết lại thành một môn học mới
với một hệ thống những chủ đề nhất định xuyên suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ Địa lí, Lịch sử,
Sinh học, Xã hội, Giáo dục cơng dân, Hóa học, Vật lí được tích hợp thành mơn “Nghiên cứu
xã hội và mơi trường” ở Anh, Úc, Thái Lan, Singapore.
Tích hợp liên mơn và xun mơn là hai kiểu tích hợp khá phổ biến của các chương trình
của các nước hiện nay. Cả hai kiểu tích hợp này đều có chung một cấu trúc hình thức đó là
các bài học được liên kết với nhau theo chủ đề. Vì vậy, thuật ngữ tích hợp theo chủ đề cịn
được dùng thay thế cho hai kiểu tích hợp liên mơn và xun mơn.
13
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Phân tích các định hướng đổi mới phương pháp dạy học.
2. Phân tích các yếu tố tăng cường sự tham gia của học sinh để dạy và học tích cực có hiệu
quả.
3. Phân tích các dấu hiệu và cấp độ biểu hiện tính tích cực học tập ở học sinh.
4. Tại sao nói tích hợp là một nguyên tắc dạy học hiện đại?
5. Phân tích các dấu hiệu đặc trưng của dạy và hõ tích cực.
6. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực như thế nào?
14
Chương 2. DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI
2.1. Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích cực
2.1.1. Phương pháp dạy - học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc tích cực hóa hoạt động học tập, nhận
thức và phát triển sáng tạo của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, mặc dù để
dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương
pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Có khi cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng cũng có lúc thói quen học tập của trị có ảnh hưởng tới cách dạy của thầy. Có trường
hợp học sinh địi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được. Cũng
có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng phương pháp tích cực nhưng thất bại vì học sinh
chưa thích ứng, vẫn quen lối học tập thụ động. Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác
của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành cơng. Theo
tinh thần đó, thuật ngữ rút gọn “Phương pháp tích cực” hàm chứa cả phương pháp dạy và
phương pháp học.
Phương pháp dạy và học tích cực là các hoạt động dạy và học nhằm tích cực hóa hoạt
động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó, các hoạt động học tập
được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực,
tích cực tham gia vào q trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức
để giải quyết vấn đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực
sáng tạo.
Phương pháp dạy học tích cực khơng phải là một phương pháp dạy học cụ thể, mà là
một khái niệm, bao gồm nhiều phương pháp, hình thức, kĩ thuật cụ thể khác nhau nhằm tích
cực hóa, tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa
khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Người học là chủ thể của
hoạt động, được tạo điều kiện để chủ động khám phá, tìm kiếm kiến thức thơng qua những
tình huống, những nhiệm vụ thực tiễn cụ thể, đa dạng, sinh động. Thay cho học thiên về lí
thuyết, người học được trải nghiệm, khám phá kiến thức qua hành động, học qua làm, kiến
thức sẽ được khắc sâu và bền vững. Giáo viên là người định hướng, tổ chức và là trọng tài
trong các hoạt động thảo luận, đồng thời là người đưa ra các kết luận và đánh giá trên cơ sở tự
15
đánh giá, đánh giá lẫn nhau của người học. Mối quan hệ tương tác này là động lực cho sự chủ
động tích cực của người học, người học được phép sáng tạo, phát triển cái mới, được thể hiện
chính kiến và chia sẻ kinh nghiệm trong mối quan hệ hợp tác thân thiện. Đồng thời cả người
dạy và người học đều có cơ hội nhìn nhận lại chính mình để điều chỉnh cách dạy, cách học
cho phù hợp thúc đẩy kết quả dạy học ngày một tốt hơn.
2.1.2. Dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích cực
- Mơn Ngữ văn khơng những khơng nằm ngồi quan điểm dạy học tích cực mà còn là
nơi thể hiện phong phú nhất các sắc thái của quan điểm dạy học này.
- Ở phân môn Văn, các văn bản Ngữ văn trong sách giáo khoa chủ yếu là văn bản nghệ
thuật, do đó đối tượng đọc hiểu tập trung vào các tác phẩm văn học. Đọc văn là hoạt động tiếp
nhận văn học. Văn bản nghệ thuật chỉ thực sự có đời sống khi nó vận động trong sự cảm thụ
của người đọc.
- Với phân môn Tiếng Việt, quan điểm giao tiếp trong dạy học cho thấy mục đích của
dạy học tiếng Việt khơng dừng lại ở việc học sinh tiếp nhận các cấp độ cụ thể của kiến thức
tiếng Việt (cho dù học sinh là chủ thể tiếp nhận kiến thức) mà còn là các khả năng của chúng
trong nhận diện chính xác các tín hiệu ngơn ngữ trong văn bản, nhất là vận dụng hợp lý các
kiến thwusc đã học để nói và viết trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể ngày một phức tạp với
yêu cầu thông tin cao. Trong hoạt động thực tiễn, thời hiện đại, người ta không thể n ói hoặc
viết hộ nhau, cũng như ít cịn cơ hội nhại lại lời của người khác. Do vậy, dạy học tích cực là
cách tốt nhất để đáp ứng các yêu cầu này.
- Với phân môn Làm văn, quan điểm tích cực càng thể hiện tính tích cực của nó khi
hiện thực hóa quan điểm thực hành và giao tiếp của phân môn này. Học Làm văn, người học
không chỉ chủ động nắm kiến thức về các kiểu văn bản tương ứng với các phương thức biểu
đạtu và mục đích giao tiếp của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống, mà từ đó tự mình
biết đọc (bao gồm cả thưởng thức và đánh giá) các thông tin (bao gồm cả thông tin thẩm mỹ)
và cuois cùng biết tạo lập văn bản theo các yêu cầu riêng của mỗi kiểu văn bản. Mặt khác,
dạy học tích cực Làm văn cịn là hành động chứng minh khi nó đột phá vào cách dạy học lỗi
thời nhưng đã trở thành thói quen trong nhà trường chúng ta, đó là dạy học theo các khn
mẫu cứng nhắc, có sẵn và thủ tiêu mọi sáng tạo của người làm văn để cho ra lò những sản
phẩm văn nhại hoặc nhái văn mẫu của thầy.
16
Tóm lại: trong mỗi phân mơn của mơn học Ngữ văn, quan điểm dạy học tích cực sẽ chi
phối các mặt hoạt động, từ khâu thiết kế giáo án, chuẩn bị bài học ở nhà đến tổ chức dạy học
trên lớp của cả hai chủ thể dạy và học.
2.2. Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp
2.2.1. Phương hướng vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy học Ngữ văn
- Trong dạy học Ngữ văn, tích hợp hiểu một cách đơn giản là dạy học ba phân môn
hợp nhất, hịa trộn trong nhau, học cái này thơng qua cái kia và ngược lại. Như thế sẽ tránh
được những vướng mắc, dư thừa, chồng chéo nội dung trong quá trình dạy văn, tiếng Việt và
Làm văn như trước đây.
- Việc thực hiện tích hợp trong mơn Ngữ văn sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn ở cả
ba phân môn vì chúng đều hướng tới mục tiêu chung là hình thành và rèn luyện 4 kỹ năng cho
học sinh và đều dựa vào một văn bản là chính.
- Văn bản được gọi chung cho các sản phẩm viết, không phân biệt văn bản hư cấu hay
không hư cấu. Chúng đều có tính chỉnh thể về ngữ nghĩa, đem lại sự trọn vẹn về chủ đề, còn
cấu trúc lại biểu thị phương thức biểu đạt và cách tạo lập văn bản.
- Hai năng lực cơ bản mà môn Ngữ văn cần phải hình thành và phát triển ngày càng tốt
hơn là năng lực tiếp nhận văn bản, trong đó đọc hiểu văn bản là then chốt và năng lực tạo lập
văn bản trong đó tính chỉnh thể và liên kết là chủ yếu. Những năng lực này sẽ được củng cố
trong q trình tích hợp.
- Chương trình Ngữ văn THPT lấy đọc văn và làm văn làm trục tích hợp.
2.2.2. Cách thức tích hợp
- Phối hợp tích hợp ngang và tích hợp hợp dọc (tích hợp song hành).
- Tích hợp trong dạy học Ngữ văn là sự soi sáng và quy tụ lẫn nhau giữa phần Văn,
Tiếng Việt và Làm văn.
- Cách thức tích hợp mơn học khi dạy một văn bản văn học là giúp học sinh khai thác
triệt để các đơn vị ngôn ngữ như từ, cụm từ, câu, đoạn, văn bản với các bình diện ngữ âm,
ngữ pháp, ngữ nghĩa, tu từ để lý giải tác dụng thẩm mỹ và sự hấp dẫn nghệ thuật của những
yếu tố ngơn ngữ này trong chức năng tạo hình và biểu hiện của tác phẩm văn học. Ngoài việc
khai thác các yếu tố ngôn ngữ cần kết hợp phat triển năng lực cảm nhận, phân tích, bình giá
tác phẩm.
17
- Khi dạy học phần Tiếng Việt, muốn hình thành tri thức về một đơn vị ngơn ngữ nào
đó, giáo viên cần liên hệ với các tác phẩm văn học và những văn bản khác cũng như những
tình huống giao tiếp trong đời sống.
- Làm văn là phân môn được sắp xếp dạy sau cùng trong mỗi bài học. Làm văn là loại
văn bản ứng dụng và thực hành tổng hợp. Dạy học một kiểu văn bản nào đó trong làm văn,
người giáo viên cần căn cứ vào văn bản đọc hiểu và các văn bản khác, coi đó là những mơ
hình để nhận dạng, phân tích và vận dụng sáng tạo cho Làm văn.
- Việc thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là phù hợp với xu thế
chung của nghiên cứu khoa học liên ngành. Bản thân của sự phát triển khoa học hiện đại đang
tạo ra các q trình tích hợp
2.2.3. Tích hợp với hiệu quả dạy học Ngữ văn
- Quan điểm tích hợp mang đến hiệu quả rèn luyện cho học sinh cách vận dụng tri thức
ba phân môn trong một bài làm cụ thể.
- Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học còn đem đến hiệu quả là rèn luyện tư
duy tích hợp cho học sinh.
- Hiệu quả của việc dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp cịn thể hiện ở việc rèn
luyện 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
- Dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp cịn đem đến hiệu quả là học sinh sẽ chủ
động và linh hoạt giải quyết các vấn đề nẩy sinh trong học tập, trong cuộc sống hàng ngày.
- Dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp phải đem lại những hiệu quả nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy, trong đó có việc phát huy tính tích cực độc lập, sáng tạo và vai trò chủ
thể của học sinh
2.2.4. Tích hợp với vấn đề mục tiêu giáo dục
- Mục tiêu giáo dục trong thời đại mới không những là đào tạo và làm trịn trách nhiệm
mơn học về trang bị kiến thức cho học sinh mà mục tiêu phải luôn gắn kết trong mối quan hệ
hữu cơ giữa các môn học với nhau.
- Mục tiêu giáo dục trong thời đại mới yêu cầu giáo viên cung cấp những kiến thức cơ
bản nhất để học sinh hiểu được thế giới xung quanh mình, hịa nhập cùng cộng đồng, thích
nghi với sự biến đổi không ngừng của cuộc sống hiện đại.
18
- Sử dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn không những không ảnh hưởng
đến mục tiêu giáo dục chung mà còn đạt được những mục tiêu cụ thể do yêu cầu tích hợp đề
ra:
+ Mục tiêu tích hợp là đào tạo ra những con người biết sử dụng kiến thức gắn với thực
tế cuộc sống.
+ Dạy học tích hợp hướng đến mục tiêu giúp học sinh xác lập mối liên hệ hữu cơ giữa
các tri thức và kỹ năng đẫ được học ở các phân môn.
+ Để đạt được mục tiêu học vấn của mình, học sinh không dừng lại ở những kiến thức
giáo viên cung cấp mà phải ln có ý thức tự học để tích lũy kiến thức cho mình.
Như vậy: quan điểm tích hợp tuy là một quan điểm khá mới đối với Việt Nam nhưng
khi vận dụng vào dạy học Ngữ văn nó đã hướng đến những mục tiêu cụ thể nhất định. Tích
hợp đáp ứng được yêu cầu đào tạo con người mới của thời đại. Đó là đào tạo ra những con
người biết xác lập những kiến thức và kỹ năng đã học và ln tự học để hồn thiện mình.
2.2.5. Tích hợp trong phương pháp dạy học Ngữ văn
- Chương trình mơn Ngữ văn của Bộ GD và ĐT khẳng định: “lấy quan điểm tích hợp
làm nguyên tắc chỉ đạo tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn
các phương pháp dạy học”:
+ Nội dung chương trình của mơn học khơng cịn là nội dung riêng rẽ của các phân
môn Văn – Tiếng Viêt – Làm văn như trước mà phối kết trong một chỉnh thể nội dung của
môn học mang tên Ngữ văn, xoay quanh trục đồng quy là 6 kiểu văn bản, điều này có nghĩa là
phải làm thế nào cho học sinh thành thạo bốn kỹ năng, năng lực thẩm mỹ và tạo lập sáu kiểu
văn bản.
+ Sách giáo khoa và sách giáo viên mang tên gọi của một môn học – mơn Ngữ văn,
trong đó là sự tích hợp ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Làm văn. Nội dung kiến thức và kỹ
năng Ngữ văn được tổ chức lần lượt theo các cụm bài, mỗi cụm bài xoay quanh một kiểu văn
bản. Cấu trúc nội dung một bài học Ngữ văn gồm 4 phần chính của hoạt động dạy học, đó là:
* Văn bản (ngữ liệu chung để dạy học Ngữ văn).
* Bài học phần Văn (đọc hiểu).
* Bài học phần tiếng Việt.
* Bài học phần Làm văn.
19
Do u cầu tích hợp, nói chung, bài học nào cũng phải dạy cả văn học, tiếng Việt, Làm
văn. Sách giáo khoa bố trí mỗi bài học dạy gọn trong một tuần.
- Tính chất tích hợp trong phương pháp dạy học Ngữ văn có những biểu hiện sau:
+ Nếu tích hợp trong dạy học Ngữ văn là sự quy tụ và soi sáng lẫn nhau giữa ba phân
môn Văn – Tiếng Việt – Làm văn để tạo nên các hiệu quả của bài học Ngữ văn thì yêu cầu
cảu dạy học tích hợp ở mơn học này sẽ là phối kết các tri thức và kỹ năng gần (tích hợp
ngang, trong cùng một thời điểm) và xa (tích hợp theo vấn đề, tích hợp với các kiến thức và
kỹ năng đã học hoặc sẽ học) của ba phân mơn đó trong mơn học. Cụ thể là phát hiện và tìm
nghĩa của các kiến thức và kỹ năng chung (đồng quy) của Văn – Tiếng Việt – Làm văn nhằm
tăng hiệu quả dạy học của từng phân mơn, từ đó là hiệu quả của cả bài học Ngữ văn. Khai
thác điểm đồng quy này trong dạy học mỗi phân mơn có tác dụng vừa làm nổi bật kiến thức,
kỹ năng của mỗi phần bài học, lại vừa hỗ trợ các phân môn khác làm thành kiến thức, kỹ năng
tổng thể của bài học Ngữ văn tích hợp.
+ Tích hợp trực tiếp trong dạy học Ngữ văn thường được hiểu là hoạt động dạy học
phối kết ba phân môn sao cho đạt tới các mục tiêu kiến thức và kỹ năng chung của bài học
Ngữ văn. Nhưng trong một quan niệm rộng rãi hơn, tích hợp trong dạy học Ngữ văn cịn là sự
gắn kết có chủ định các mơn học có quan hệ gần gũi với môn học Ngữ văn như Mỹ thuật, âm
nhạc, lịch sử, địa lý, lý luận văn học, ngơn ngữ học; thậm chí, tích hợp trong dạy học phân
mơn Văn cịn là sự gắn kết đọc hiểu văn bản với các đặc điểm tiểu sử và sáng tác của tác giả,
đặc điểm của thể loại văn học trong mỗi thời kỳ và hiện thực đời sống liên quan đến văn bản
như là đối tượng nhận thức và phản ánh của nhà văn; cho đến cả công nghệ hiện đại được sử
dụng vào dạy học như multimedia và phần mềm dạy học cũng là hoạt động tích hợp khi
chúng được sử dụng như là phương tiện hỗ trợ có hiệu quả cho việc thực hiện các mục tiêu
dạy học của môn học Ngữ văn.
Như vậy, Ngữ văn trở thành môn học mở với nhiều hoạt động gắn kết trực tiếp hay
gián tiếp, gần hay xa của nhiều lĩnh vực. Nói cách khác, Ngữ văn là mơn học đắc địa cho mọi
ý đồ tích hợp phong phú của hoạt động dạy và học trong nhà trường trong thời kỳ đổi mới
giáo dục.
+ Trong khi coi trọng gắn kết các tri thức và kỹ năng Ngữ văn chung, dạy học tích hợp
khơng triệt tiêu đặc trưng của mỗi phân mơn trong mơn học Ngữ văn. Theo đó, Văn, Tiếng
20
Việt, Làm văn sẽ có những yêu cầu riêng về phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù của
mỗi phân mơn.
+ Việc coi trọng ngun tắc dạy học tích hợp nhưng không xem nhẹ phương pháp đặc
thù của mỗi phân mơn cho thấy mơn học Ngữ văn có thể đạt tới mục tiêu ké, đó là: đáp ứng
mục tiêu (kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực) cụ thể của mỗi phần bài học, đồng thời thỏa
mãn mục tiêu chung của cả bài học Ngữ văn. Và đó là hiệu quả tích hợp của bài học Ngữ văn
chưa xuất hiện trong các bài học Văn – Tiếng Việt – Làm văn trước đó.
- Tuy nhiên, trong thực tế dạy học Ngữ văn, có thể xuất hiện hai sắc thái tích hợp: tích
hợp hình thức và tích hợp bản chất. Tích hợp là sự gắn kết các mơn học, các phân môn học
nhưng không phải sự gắn kết nào cũng thuộc về bản chất tích hợp. Chỉ có sự gắn kết xuất phát
từ đặc thù của mỗi môn học và do những đòi hỏi liên kết tự thân của chúng để tạo thành hiệu
quả bài học thì đó mới là bản chất của dạy học tích hợp. Lạm dụng sự gắn kết hoặc gắn kết
một cách khiên cưỡng cho có vẻ đổi mới sẽ tạo ra hiệu quả tích hợp giả tạo làm nhiễu loạn bài
học, đó sẽ là tích hợp bề ngồi, tích hợp hình thức. Và đó là biểu hiện của sự bất lực trong dạy
học tích hợp. Điều này rất đúng với cách nói của một nhà giáo dục rằng: hiểu lơ mơ về
phương pháp là cách tốt nhất để vơ hiệu hóa phương pháp.
2.3. Dạy học Ngữ văn theo hướng đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học
2.3.1. Hình thức dạy học
Theo dõi quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở bậc THPT ta sẽ nhận thấy sự xuất
hiện của nhiều khái niệm phản ánh các hình thức cụ thể của hoạt động dạy học như: các biện
pháp dạy học, các cách tổ chức hoạt động dạy học, các phương tiện dạy học. Các khái niệm
này có thể đặt trong một phạm trù khái quát hơn, tạm quy ước là các hình thức dạy học.
Nếu hiểu là các biện pháp thì hình thức dạy học sẽ là các biện pháp cụ thể của các
phương pháp dạy học bộ mơn, ở đó mỗi mơn học sẽ được dạy học bằng các phương pháp
riêng với vô số các biện pháp dạy học tương ứng. Chẳng hạn: độc diễn cảm và lời bình là
những biện pháp của phương pháp Đọc sáng tạo – một trong những phương pháp đặc thù
trong dạy học văn.
Nếu hiểu là các cách tổ chức hoạt động dạy học thì hình thức dạy học là các kiểu tổ
chức hoạt động dạy học để vận hành một bài học theo quan điểm tương tác và tích cực. Ví dụ:
hình thức đàm thoại bằng câu hỏi và thảo luận nhóm (hợp tác học tập) là những cách tổ chức
dạy học thường gặp trong các bài học thời kỳ đỏi mới.
21
Nếu hiểu là các phương tiện dạy học thì hình thức dạy học là các yếu tố vật chất kỹ
thuật hỗ trợ hoạt động dạy học trong nhà trường nhằm tăng hiệu quả và hứng thú dạy học.
Chẳng hạn như sách giáo khoa, bảng, các phương tiện điện tử như Overhead, projector,
multimedia, phần mềm dạy học trên máy vi tính … là các phương tiện được dùng trong dạy
học hàng ngày hiện nay.
Từ đó, đa dạng hóa các hình thức dạy học sẽ là sự sáng tạo trong lựa chọn và liên kết
các biện pháp dạy học, các cách tổ chức hoạt đọng dạy học, các phương tiện dạy học nhằm
tạo hiệu quả tích cực cho bài học trên các phương diện kiến thức, kỹ năng và hứng thú.
Theo cách hiểu trên thì đa dạng hóa các hình thức dạy học đang là xu hướng tích cực
trong dạy học các môn phổ thông, phản ánh nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
2.3.2. Đa dạng hóa các hoạt động dạy học Ngữ văn bao gồm những nội dung gì?
Nằm trong hệ thống các mơn học của nhà trường phổ thông và chịu ảnh hưởng của các
yếu tố sư phạm tương tác, môn Ngữ văn sẽ sử dụng các hình thức dạy học chung trong hoạt
động riêng của nó.
Đó có thể là hình thức học cá nhân, bằng nỗ lực riêng, mỗi học sinh sẽ tự mình học tập
để tiếp nhận tri thức và kỹ năng của bài học theo cách bàn tay nặn bột hoặc nhúng tay vào
như một phương pháp dạy học tích cực đã được nói đến. Đó có thể là hình thức học theo
nhóm, mỗi nhóm là một tập hợp liền kề từ 2 đến 4 học sinh nhằm hợp tác giải quyết nhiệm vụ
do giáo viên giao và kết quả sẽ được đại diện nhóm thơng báo trước tập thể lớp. Hình thức
đàm thoại được thực hiện bằng hệ thống câu hỏi khai thác các tri thức của bài học. Các trò
chơi dạy học cũng không hề xa lạ với cách giáo viên tổ chức việc học cho học sinh trong quá
trình dạy học Ngữ văn. Hoạt động phân tích mẫu theo cách quy nạp; các hình thức luyện tập
nhận diện và sáng tạo; các phương tiện dạy học như sách giáo khoa, bảng, vở, phim ảnh, bài
hát minh họa qua phương tiện điện tử thậm chí cả phần mềm dạy học trên vi tính được thiết
kế trong giáo án điện tử … là các hình thức dạy học kết hợp truyền thống với hiện đại đang
được sử dụng trong các môn học phổ thông cũng không hề xa lạ với môn học Ngữ văn.
Tóm lại: Đa dạng hóa các hình thức dạy học Ngữ văn sẽ là sự sáng tạo trong lựa chọn
và liên kết mọi hình thức dạy học thơng dụng với các hình thức dạy học đặc thù chun biệt
của mơn học Ngữ văn để tạo ra bài học thỏa mãn cao nhất các mục tiêu kiến thức và kỹ năng
Ngữ văn đồng thời tăng hứng thú cho người học môn học này.
2.3.3. Vì sao cần đa dạng hóa các hình thức dạy học Ngữ văn?
22
- Hiểu một cách rộng rãi, nếu tích hợp là hoạt động lựa chọn và phối kết hợp nhiều lĩnh
vực vào một lĩnh vực nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong việc chiếm lĩnh đối tượng, thì đa dạng
hóa các hình thức dạy học sẽ là một hoạt động tích hợp trong dạy học, trong đó có dạy học
Ngữ văn.
- Sự sáng tạo trong lựa chọn và phối kết nhiều hình thức dạy học trong hoạt động dạy
học Ngữ văn chẳng những khơng nằm ngồi bản chất của dạy học tích hợp mà cịn thể hiện
tinh thần hịa đồng với xu thế hiện đại hóa chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy
học tiên tiến ngày nay.
- Tích cực hóa trong dạy học là một quan điểm hiện đại có giá trị phương pháp tồn
diện và triệt để hơn so với quan điểm “dạy học lấy học sinh làm trung tâm” hoặc dạy học
hướng vào học sinh. Dạy học tích cực đề cao cả hai chủ thể, ở đó các năng lực tự học của học
sinh kết hợp với khả năng tổ chức hướng dẫn của giáo viên sẽ tạo nhiều cơ hội nhất cho hoạt
động chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng của bài học. Năng lực tự học của mỗi học sinh không
phải là một khái niệm trừu tượng, mơ hồ mà luôn được bộc lộ trong các hoạt động học bằng
các hình thức học tập tương ứng nào đấy. Cũng như thế, sự lựa chọn và tổ chức một cách
sáng tạo các hình thức dạy học trong các biểu hiện cụ thể của nó sẽ thuộc về khả năng mới
của người giáo viên biết hướng hoạt động dạy của mình vào hoạt động học tập của học sinh.
Nhìn ở góc độ này thì đa dạng hóa các hình thức dạy học Ngữ văn sẽ là cách cụ thể
hóa, vật chất hóa quan điểm dạy học tích cực trong tiến trình một bài học, một mơn học. Bằng
các hình thức dạy học đa dạng, quan điểm dạy học tích cực trở nên có hình hài và sức sống.
Và nếu dạy học tích cực là một định hướng sư phạm khơng thể cưỡng lại thì việc đa dạng hóa
các hình thức dạy học sẽ là tất yếu của mọi hoạt động dạy học, trong đó có dạy học Ngữ văn.
-Lý luận dạy học hiện đại trong khi đề cao yếu tố học (học sinh) và cọi trọng yếu tố
dạy (giáo viên) đã chỉ ra một yếu tố không kém phần quan trọng trong giáo dục, đó là mơi
trường. Cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia vào hoạt động giáo dục như trường lớp, bàn ghế,
sách vở, vi tính, phịng thí nghiệm …là các yếu tố mơi trường nhìn thấy, nhưng mơi trường
dạy học cịn là các yếu tố khơng dễ nhìn thấy như khơng khí, nhà trường, xã hội, lớp học, giao
tiếp thầy trị, khơng khí trong từng bài học … Hoạt động dạy học khia thác mối quan hệ tương
giao của ba yếu tố Giáo viên – Học sinh – Môi trường được gọi là phương pháp sư phạm
tương tác – một xu hướng dạy học đang được quan tâm hiện nay.
23
2.3.4. Vận dụng các hình thức dạy học như thế nào để tạo hiệu quả đích thực cho
bài học Ngữ văn?
Nếu cần nêu nguyên tắc cho việc đa dạng hóa các hình thức dạy học Ngữ văn thì đó sẽ
là lựa chọn tương ứng và phối kết hài hòa các hình thức dạy học
Sự đa dạng của các hình thức dạy học là cơ sở để giải phóng tiềm năng dạy học tương
tác, tích cực và tích hợp. Nhưng sẽ chỉ là hình thức dạy học của của một phân mơn, một bài
học cụ thể khi các hình thức dạy học đó đáp ứng các mục tiêu cụ thể của bài học thuộc phân
mơn đó.
Có thể hình dung theo hai cấp độ lựa chọn tương ứng sau: cấp độ lựa chọn tương ứng
từ các hình thức dạy học chung (tạm gọi là hình thức dạy học đa dùng) và cấp độ lựa chọn
tương ứng từ hình thức dạy học riêng (tạm gọi là hình thức dạy học chuyên dùng).
- Cấp độ lựa chọn các hình thức dạy học đa dùng cho bài học đọc hiểu văn bản sẽ được
hình dung từ các hình thức dạy học tương tác và tích cực như học cá nhân và học theo nhóm,
giảng bài, ghi bẳng và nghe giảng cùng với ghi vở, đàm thoại bằng câu hỏi, trò chơi dạy học
cùng các phương tiện dạy học như bảng, sách giáo khoa, băng đĩa hình, máy chiếu qua đầu,
phầm mềm dạy học trên vi tính.
Tuy nhiên, sự lựa chọn hình thức dạy học nào là tương ứng và với độ đậm nhạt ra sao
sẽ phụ thuộc vào đặc trưng nội dung và hình thức của kiểu loại văn bản được tiếp nhận nhất là
các văn bản nghệ thuật.
- Ở cấp độ lựa chọn chuyên dùng, các hình thức dạy học đọc hiểu văn bản sẽ không
giống nhau.
Nhiệm vụ dạy học của phân môn Văn trong sách giáo khoa Ngữ văn là dạy học Đọc
hiểu văn bản. Sự xuất hiện phong phú đa dạng của hệ thống các kiểu loại văn bản trong sách
giáo khoa Ngữ văn đòi hỏi sự đa dạng, phong phú của các hình thức dạy học, vừa đa dùng
(như mọi mơn học) lại vừa chun dùng (cho phân mơn Văn), có thể sẽ tạo thành sự đa dạng
vượt trội của các hình thức dạy học đọc hiểu.
Từ đây sẽ đặt ra yêu cầu kết hợp các hình thức dạy học như thế nào trong dạy học đọc
hiểu văn bản? Yêu cầu đó sẽ là đảm bảo sự liên kết tương hợp và tương tác các hình thức dạy
học với đặc trưng của kiểu văn bản thuộc các phương thức biểu đạt. Theo đó, các hình thức
dạy học tương hợp và tương tác trong đọc hiểu văn bản tự sự sẽ có những điểm khác biệt so
24
với các hình thức dạy học văn bản biểu cảm, hoặc đọc hiểu văn bản nghị luận sẽ khác với đọc
hiểu văn bản kịch xét từ góc độ lựa chọn hình thức dạy học.
2.4. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh
2.4.1. Về mục tiêu mơn học theo chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới
Do yêu cầu chuyển đổi từ chương trình theo định hướng nội dung sang chương trình
theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực nên mục tiêu mỗi môn học cũng phải thay
đổi. Mục tiêu môn Ngữ văn khơng xác định theo ba bình diện (kiến thức, kỹ năng, thái độ)
mà được xác định trên hai bình diện (năng lực và phẩm chất):
- Về năng lực: giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ở tất cả các hình thức đọc,
viết, nói, nghe và năng lực giao tiếp đa phương thức thông qua nội dung những tri thức phổ
thông nền tảng về tiếng Việt và Văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một
người có văn hóa. Ở cấp THPT, chương trình cịn trang bị thêm cho học sinh những tri thức
theo định hướng nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phân hóa, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ
thơng có chất lượng. Ngồi ra, chương trình mơn Ngữ văn cịn góp phần giúp học sinh phát
triển các năng lực khác nhưu năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết
vấn đề và sáng tạo, năng lực thẩm mỹ, năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực lập luận, phản
biện, năng lực tưởng tượng.
- Về phẩm chất: hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất cao đẹp như
yêu quê hương, đất nước, con người, chăm học, chăm làm, sống trung thực và có trách nhiệm.
Qua những tác phẩm văn học chọn lọc và đặc sắc, giúp học sinh có cơ hội khám phá bản thân
và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm sẻ chia, có lịng trắc ẩn, vị tha; có
cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn. Bồi dưỡng
cho học sinh tình yêu đối với Tiếng Việt và văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân
tộc để góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; thấy rõ vai trị và tác dụng
của môn học đối với đời sống mỗi con người; giúp học sinh có thói quen và niềm vui đọc
sách; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa c ủa nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, có ý
thức, thái độ, thói quen và phong cách của một cơng dân tồn cầu.
2.4.2. Về phương pháp dạy học
Tất cả các mơn học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng đều phải trả lời câu hỏi lớn:
cách dạy học theo hướng tiếp cận năng lực khác gì so với cách dạy học theo hướng tiếp cận
nội dung? Với mơn Ngữ văn, chương trình chủ trương:
25