Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tác phẩm những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.55 KB, 9 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TRIẾT HỌC
---------------------------------------

BÀI THU HOẠCH MÔN TÁC PHẨM KINH ĐIỂN
MÁC- ĂNGGHEN- LÊNIN
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ XÃ HỘI - HÌNH THÁI KT-XH TRONG
TÁC PHẨM “NHỮNG NGƯỜI BẠN DÂN LÀ NHƯ THẾ NÀO …?”.
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA NÓ

Họ và tên : Nguyễn Thị Tuyết
Lớp

: Triết học K37

MSSV

: 1755240033

Hà Nội, ngày 01, tháng 06 năm 2020


MỞ ĐẦU
Tác phẩm “ Những người bạn dân là như thế nào và họ đấu tranh chống
những người dân chủ xã hội ra sao?” là một trong những tác phẩm khởi đầu đánh
dấu sự nghiệp thành công của Lê-nin. Đây còn là tác phẩm rất mẫu mực trong việc
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác ở giai đoạn đầy diễn biến phức tạp, khi mà nền
kinh tế trên thế giới đang chuyển mình mạnh mẽ thì nước Nga vẫn bị thống trị bởi
nền kinh tế nơng nơ, kìm hãm sự phát triển của kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa
và hàng loạt các trào lưu tư tưởng đã nhân cơ hội đó ra đời nhằm cản trở việc
truyền bá học thuyết của Mác vào nước Nga. Lê-nin đã viết tác phẩm đó như một


lời đáp trả đanh thép những bài báo đăng trên tạp chí “ Của cải nước Nga”, những
bài chống lại những người Mác- xít vậy. Ông đã vạch rõ luận điệu xuyên tạc của
phái dân túy đối với những quan điểm duy vật lịch sử, phép biện chứng và phân
tích kĩ càng hơn về hình thái kinh tế- xã hội để bảo vệ nền tảng của học thuyết
Mác. Tác phẩm thực sự rất đáng để chúng ta đọc, nghiên cứu và dành sự ngưỡng
mộ đối với Lê-nin bởi chính ngịi bút tài năng, sắc sảo ấy đã kế thừa, bảo vệ xuất
sắc triết học Mác, đem lại những giá trị to lớn cho thời đại đó và cả ngày nay.
NỘI DUNG
1.

Bối cảnh ra đời, mục đích, kết cấu tác phẩm

Tác phẩm này được Lê-nin viết vào mùa xuân và đến hè năm 1894. Trong
thời kì này là giai đoạn chủ nghĩa tư bản chuyển từ cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền của chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, vào những năm 60 của thế kỷ XIX, nước
Nga vẫn là nước có nền kinh tế nơng thôn, lạc hậu. Năm 1861, sau cuộc chiến
tranh thất bại của nước Nga với Anh, Pháp, Thổ, nhân dân Nga đã đứng lên chống
lại Nga hoàng làm cho chế độ nông nô sụp đổ và chế độ tư bản chủ nghĩa ra đời,
phát triển mạnh mẽ. Chế độ Nga hoàng như một nhà tù lớn, còn xã hội nước Nga


lúc đó xuất hiện nhiều giai cấp, các mâu thuẫn trở nên gay gắt vì thế mà nước Nga
trở thành trung tâm cách mạng của thế giới. Năm 1895, Lê-nin đã thành lập đảng
Dân chủ- xã hội Nga.
Các trào lưu tư tưởng xuất hiện hàng loạt ở Nga như chủ nghĩa dân túy, chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa duy kinh tế, chủ nghĩa mác- xít hợp
pháp… Tất cả các chủ nghĩa đó đều cản trở việc truyền bá học thuyết Mác- xít vào
Nga, cản trở quá trình thành lập Đảng mác-xít cũng như chống lại sự đấu tranh của
giai cấp công nhân Nga. Đặc biệt phái dân túy đã dùng tạp chí “Của cải nước Nga”
năm 1893 chống lại chủ nghĩa Mác và những người mác- xít một cách cơng khai

với những luận điệu xun tạc, chúng vu khống và bóp méo những quan điểm chủ
nghĩa Mác và cương lĩnh của Đảng Dân chủ- xã hội Nga. Điều đó đã thơi thúc Lênin viết tác phẩm này. Nó mang tính bút chiến chống lại chủ nghĩa dân túy và bảo
vệ chủ nghĩa Mác trong những điều kiện lịch sử mới và đầy phức tạp.
Tác phẩm có hai mục đích cơ bản đó là: Một là, bảo vệ và phát triển những
luận điểm nền tảng của chủ nghĩa Mác. Hai là, phê phán quan điểm phi Mác- xít về
tiến trình lịch sử xã hội ở Nga.
Tác phẩm gồm 3 thiên nhưng trong Lê-nin toàn tập, tập 1 chỉ trình bày 2 thiên
là thiên 1 và thiên 3 do chưa tìm được bản thảo thiên 2. Trong đó, thiên 1 phê phán
phái dân túy xuyên tạc chủ nghĩa Mác về phép biện chứng, quan điểm duy vật lịch
sử và tập trung trình bày lý luận hình thái kinh tế- xã hội. Thiên 2, phê phán những
người dân túy tự do trên các vấn đề kinh tế. Thiên 3, Lê-nin phê phán cương lĩnh
chính trị của phái dân túy tự do.
2.

Phép biện chứng về xã hội- hình thái kinh tế xã hội trong tác phẩm

Phép biện chứng về xã hội- hình thái kinh tế xã hội là một nội dung cốt lõi
nhất của tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những


người dân chủ xã hội ra sao?”. Lênin đã phê phán những quan điểm xuyên tạc phép
biện chứng xã hội của Mác và khái qt tồn bộ nội dung hình thái kinh tế xã hội.
Thứ nhất, Lênin chỉ ra những luận điệu xuyên tạc của các nhà lý luận phái dân
túy tự do, đại diện là ông Mikhailopxki về phép biện chứng xã hội của Mác như
sau:
Ông Mikhailopxki đã xuyên tạc phép biện chứng duy vật, cho rằng phép biện
chứng của Mác là giống với phép biện chứng của Hêghen. Ơng ta cịn nói Mác đã
rút từ tam đoạn luận của Hêghen nói riêng và phép biện chứng của Hêghen nói
chung để biến thành phép biện chứng duy vật, Mác bám vào đó để đưa ra “sơ đồ”
về sự diệt vong của CNTB.

Tuy nhiên, Lênin đã phê phán sự xuyên tạc này, cho rằng phép biện chứng của
Mác có sự kế thừa của Hêghen nhưng Mác đã kế thừa sáng tạo trên cơ sở phê
phán. Lênin chỉ rõ Mikhailopxki đã cố tình xuyên tạc phép biện chứng và phủ nhận
ý nghĩa của lý luận duy vật lịch sử đối việc việc xác định bước tiến tương lai của
xã hội loài người. Mác khơng có “sơ đồ” nào cả mà sản xuất nhỏ tự nó để ra sự phủ
định mình dẫn tới chủ nghĩa tư bản ra đời. Chủ nghĩa tư bản ra đời tự nó đẻ ra lực
lượng vật chất để tự phủ định mình (phủ định cái phủ định), như vậy Mác đã dựa
vào hiện thực lịch sử mà chứng minh q trình đó (phủ định cái phủ định) chứ
không phải từ quy luật phủ định của phủ định để chứng minh lịch sử.
Mikhailopxki xuyên tạc Mác bằng cách gán cho chủ nghĩa duy vật lịch sử là
có cái tham vọng vơ lý muốn “giải thích tất cả”, là đã tìm ra “cái chìa khóa cho tất
cả các ổ khóa lịch sử” (tr-171). Lênin chỉ ra sự sai lầm về phương pháp của
Mikhailopxki bởi chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ nghiên cứu những quy luật chung
nhất, trên cơ sở đó cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu những xã hội cụ thể. Từ đó, Lênin rút ra ba nguyên tắc luận chủ yếu


của phép biện chứng trong sự phân tích xã hội của Mác: xem xét xã hội trong sự
phát triển và biến đổi không ngừng; xác lập mối liên hệ hữu cơ của các mặt, các
yếu tố của xã hội; rút ra các quy luật xã hội.
Như vậy, Lênin đã làm rõ tư tưởng của Mác, Ăngghen về phép biện chứng xã
hội. Nó đối lập với phương pháp siêu hình về xã hội ở chỗ: Phương pháp biện
chứng xem xã hội như một chỉnh thể thống nhất, một cơ thể sống động luôn vận
động và phát triển không ngừng theo quy luật khách quan của nó.
Thứ hai, Lênin đánh giá thiên tài của Mác là trong việc hình thành quan điểm
duy vật lịch sử, đặc biệt là hình thái kinh tế- xã hội. Vì thế, ơng trình bày khá tồn
diện những quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và tập trung làm rõ quá trình
Mác xây dựng phạm trù hình thái kinh tế- xã hội.
Lênin phân tích khái niệm hình thái kinh tế- xã hội, đó chỉ là một xã hội cụ
thể, khơng có xã hội nói chung, chỉ rõ xã hội là một kết cấu chặt chẽ gồm lực

lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. “Mác chỉ dùng độc có
những quan hệ sản xuất để giải thích cơ cấu và phát triển của một hình thái kinh tế
xã hội nhất định, song ở mọi nơi và mọi lúc ơng phân tích những kiến trúc thượng
tầng tương ứng với những quan hệ sản xuất ấy, và đã thêm thịt, thêm da cho cái
sườn đó” (tr164-165). Sự tác động giữa các yếu tố trong kết cấu ấy làm cho xã hội
vận động.
Lênin làm rõ nguyên lý sự phát triển của hình thái kinh tế- xã hội là một q
trình lịch sử- tự nhiên: “… chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ
sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển cảu
những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên. Và dĩ nhiên là
khơng có một quan điểm như thế thì khơng thể có một khoa học xã hội được” (tr-


163). Nghĩa là sự phát triển hình thái kinh tế- xã hội diễn ra theo quy luật khách
quan vốn có của nó khơng phụ thuộc vào ý thức của con người. Thứ nhất, ông
Lênin đã phê phán những nhà xã hội học chủ quan, không hiểu được tư tưởng của
Mác vì họ đối lập xã hội với tự nhiên, phủ nhận quy luật khách quan của vận động
xã hội. Thứ hai, ông làm rõ tư tưởng của Mác: xã hội có quan hệ chặt chẽ với tự
nhiên là bộ phận đặc thù của tự nhiên, xã hội cũng có một kết như một cơ thể sống
và vận động theo quy luật khách quan. “Mác coi sự vận động xã hội là một quá
trình lịch sử- tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ
thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người, mà trái lại cịn quyết định ý chí, ý
thức và ý định của con người” (tr-200). Thứ ba, ông phân biệt quy luật khách quan
của vận động lịch sử khác quy luật tự nhiên. Lênin còn chỉ rõ sự phát triển của hình
thái kinh tế xã hội phát triên đi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Lồi người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội sau: hình thái kinh tế xã hội
nguyên thủy, hình thái kinh tế chiếm hữu nơ lệ, hình thái kinh tế phong kiến, hình
thái kinh tế chủ nghĩa tư bản, hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (trong đó xã hội
chủ nghĩa là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của hình thái kinh tế này). Sự phát triển

ấy là sự thống nhất giữa tính liên tục và tính gián đoạn (do sự phát triển khơng
ngừng của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng).
Lênin cịn phân tích đặc điểm nước Nga cuối thể kỷ XIX là một nước tư bản
chủ nghĩa chưa phát triển còn ảnh hưởng của xã hội phong kiến (chế độ Nga hoàng
chuyên chế). Tuy nhiên, Lênin đã phê phán quan điểm của phái dân túy cho rằng
nước Nga không thể đi lên chủ nghĩa tư bản mà vẫn ở tình trạng sản xuất nhỏ, duy
trì chế độ phong kiến. Khi phân tích nước Nga, Lênin cịn vận dụng hình thái kinh
tế xã hội để vạch rõ nước Nga đang ở nấc thang nào của sự phát triển và chỉ ra
những đặc điểm phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga nhằm giúp cho những người
dân chủ- xã hội định ra đường lối, chiến lược của mình.


Như vậy, Lênin đã làm rõ quá trình xác lập quan điểm duy vật lịch sử nói
chung và hình thái kinh tế xã hội nói riêng. Ơng đánh giá: “ Nếu như Đác-uyn đã
làm ra một cuộc cách mạng trong sinh học thì C. Mác cũng làm một cuộc cách
mạng trong xã hội, đó là quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là hình
thái kinh tế xã hội.”
3.

Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại

Tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ xã hội ra sao?” đã đem lại những giá trị lớn trong lịch sử. Nó là một
tác phẩm kiểu mẫu chống lại mọi quan điểm sai lệch, xuyên tạc chủ nghĩa Mác
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX về phép biện chứng, đặc biệt bảo vệ và phát triển
học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mác, đưa ra ý nghĩa phương pháp luận khoa
học.
Tác phẩm còn cho thấy khả năng khái quát hóa, tổng hợp vấn đề từ những sự
kiện để đi đến những kết luận đúng đắn, soi chiếu chúng vào những điều kiện cụ
thể. Và nước Nga là một minh chứng, Lênin đã chỉ ra khuynh hướng vận động của

xã hội Nga để tìm thấy hướng đi đúng đắn nhất trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
phát triển. Lênin đã đưa học thuyết Mác đi vào phong trào công nhân và đóng góp
một phần to lớn vào thắng lợi cuộc cách mạng vô sản Nga.
Cho đến thời đại ngày nay, tác phẩm vẫn có ý nghĩa quan trọng trong sự biến
đổi của thế giới. Nó góp phần thúc đẩy các nước xã hội trên thế giới phát triển diễn
ra theo quy luật khách quan, tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Các vấn đề lý luận ngày càng được mở rộng, đào sâu nhưng nền tảng tư tưởng
của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng về xã hội mà Lênin nêu trong tác
phẩm đã củng cố và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.


Đối với Việt Nam, tác phẩm là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học để
xem xét các vấn đề hiện nay, giúp ta nhận thức quá trình xây dựng hình thái kinh tế
xã hội mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Đồng thời, tác phẩm như một vũ khí trong cuộc đấu tranh về lý luận, chống
lại các quan điểm cơ hội, xét lại và các khuynh hướng chính trị- tư tưởng sai trái
trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tác phẩm còn là động lực, thúc đẩy sự phát triển sáng tạo các giá trị cách
mạng và khoa học, đặc biệt là cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi trình
độ lực lượng sản xuất phát triển cao hơn phù hợp với quan hệ sản xuất tương ứng.
Liên hệ thực tiễn ngày nay, Việt Nam ta về cơ bản đã áp dụng đúng đắn học
thuyết về hình thái kinh tế xã hội. Sau đổi mới 1986, chúng ta đã nhận ra được sai
lầm nên đã đổi mới về mọi mặt như: phát triển trình độ lực lượng sản xuất, chú
trọng phát triển lao động trí óc, sáng tạo; công nghiệp hóa các vùng nông thôn; cơ
chế thị trường chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; quan tâm đến khoa học và tiếp thu, học hỏi những thành
tựu khoa học trên thế giới, mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương hóa quốc tế. Về
quan hệ sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
Nhà nước có vai trò định hướng, chủ đạo nhất; phân phối theo lao động là chủ yếu,
làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít. Vì thế, Việt Nam đã có sự tiến bộ và phát

triển nhất định, khắc phục được những sai lầm chủ quan, duy ý chí đẩy nền kinh tế
rơi vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ trước đổi mới.
KẾT LUẬN
Tóm lại, phép biện chứng duy vật về xã hội, đặc biệt là hình thái kinh tế xã
hội đã đóng vai trò quyết định trong cuộc tranh luận của Lênin với phái dân túy tự


do, đồng thời bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác về các quy luật vận động của sự
phát triển xã hội.



×