KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
⬧
Tiểu luận:
CƠNG NGHIỆP HĨA-HIỆN ĐẠI HĨA GẮN VỚI
NỀN KINH TẾ TRI THỨC
Bộ môn: Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
TP. Hồ Chí Minh, 10 tháng 12 năm 2019
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 2
I. CƠNG NGHIỆP HĨA,HIỆN ĐẠI HĨA ............................................................. 2
1.
Khái niệm .......................................................................................................... 2
2.
Quan điểm của Đảng ta trong việc thực hiện cơng nghiệp hóa-hiện đại
hóa…............................................................................................................................ 3
3.
Đặc trưng của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa ................................................. 4
II. KINH TẾ TRI THỨC ............................................................................................ 4
1.
Khái niệm .......................................................................................................... 4
2.
Đặc trưng ........................................................................................................... 5
III. CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA GẮN LIỀN VỚI KINH TẾ TRI
THỨC .............................................................................................................................. 7
1.
Tại sao cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa phải gắn liền với nền kinh tế tri
thức? ............................................................................................................................ 7
2.
Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức .................................................... 8
a.
Thuận lợi ........................................................................................................ 8
b.
Khó khăn ........................................................................................................ 9
3.
Giải pháp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức ..................................................................................................................... 9
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 10
Tư liệu tham khảo............................................................................................................ 12
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
Đa phần các xã hội tiền cơng nghiệp có mức sống khơng cao hơn mức tự cung
tự cấp là mấy. Có nghĩa là phần đơng dân cư tập trung vào sản xuất những vật phẩm
cơ bản nhất để tồn tại. Anh là nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên. Đây cũng là
quê hương của Cách mạng công nghiệp và thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế
giới là Manchester. Cơ chế phát triển chủ đạo hiện nay theo các tổ chức tổ chức
phát triển quốc tế (Ngân hàng thế giới, OECD, các tổ chức của Liên hợp quốc và
các tổ chức tương tự quốc tế khác) là giảm nghèo. Cơ chế này vẫn nhấn mạnh vào
sự tăng trưởng kinh tế, nhưng tin rằng các chính sách cơng nghiệp hóa truyền thống
khơng mang lại hiệu quả dài hạn. Cơng nghiệp hóa ở Việt Nam là q trình chuyển
đổi nền kinh tế Việt Nam từ dựa vào nơng nghiệp và thủ cơng sang máy móc cơng
nghiệp là chính. Q trình cơng nghiệp hóa tại Việt Nam bắt đầu từ thời Pháp
thuộc khi người Pháp xây dựng những cơ sở công nghiệp đầu tiên tại Việt Nam và
kéo dài cho đến ngày nay. Dù có một lịch sử cơng nghiệp hóa lâu dài nhưng đến
ngày nay nền cơng nghiệp Việt Nam vẫn chưa hoàn chỉnh và lạc hậu so với thế giới,
tỷ trọng công nghiệp vẫn chưa chiếm ưu thế trong tổng thu nhập quốc gia nên vẫn
được xem là một nước nông nghiệp. Từ năm 1995, khái niệm kinh tế tri thức ra đời
do Tổ chức OPCD nêu ra: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh,
truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống”. Theo Giáo sư, Viên sĩ Đặng
Hữu - Trưởng ban cơng nghệ thơng tin thì “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó
sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Như vậy, kinh tế tri
thức là lực lượng sản xuất của thế kỉ XXI. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là chất
xám. Trong đó, con người là vốn quý nhất. Tri thức là yếu tố quyết định sản xuất,
sáng tạo đổi mới là động thực thúc đẩy sản xuất phát triển. Công nghệ mới trở thành
nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, công nghệ
thông tin được ứng dụng một cách rộng rãi. Muốn nâng cao năng suất lao động xã
hội, nâng cao chất lượng sản phẩm phải có tri thức, phải biết làm chủ tri thức, phải
biết vận dụng, quản lí tri thức mới có thể cạnh tranh và phát triển bền vững. Vậy
việc phát triển cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa kết hợp với nền kinh tế tri thức sẽ là
1
một động lực mạnh mẽ để không ngừng thúc đẩy và phát triển về mọi mặt của một
quốc gia. Còn với Việt Nam, điều đó có khả thi hay khơng? Hoặc đối với một nước
đang phát triển như Việt Nam thì việc gắn liền giữa cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa
với kinh tế tri thức sẽ tạo nên biến đổi nào? Đồng thời, có thật sự cơng nghiệp hóahiện đại hóa buộc phải gắn liền với kinh tế tri thức khơng?
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. CƠNG NGHIỆP HĨA,HIỆN ĐẠI HĨA
1. Khái niệm
Lịch sử cơng nghiệp hóa trên thế giới đã trải qua hàng trăm năm. Vào giữa thế
kỷ XVIII, một số nước phương Tây, mở đầu là nước Anh đã tiến hành cuộc cách
mạng công nghiệp, với nội dung chủ yếu là chuyển từ lao động thủ công sang lao
động cơ khí. Đây là mốc đánh dấu sự khởi đầu cho tiến trình cơng nghiệp hóa của
thế giới. Tuy vậy, phải đến thế kỷ XIX, khái niệm cơng nghiệp hóa mới được dùng
để thay thế cho khái niệm cách mạng công nghiệp, mặc dù sau cách mạng công
nghiệp ở Anh, một thế hệ cơng nghiệp hóa đã diễn ra ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ
và Nhật Bản. Có thể khái qt, cơng nghiệp hóa là q trình tạo sự chuyển biến từ
nền kinh tế nông nghiệp với nền kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng
suất thấp sang nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại, dựa trên lao
động sử dụng bằng máy móc, tạo ra năng suất lao động cao. Như vậy, cơng nghiệp
hóa là q trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công nghiệp hiện
đại với trình độ cơng nghệ, kỹ thuật tiên tiến, có năng suất lao động cao trong các
ngành kinh tế quốc dân. Hiện đại hóa là q trình tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ cơng nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại.
Trong điều kiện của Việt Nam, Đảng ta xác định: “Cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
2
2. Quan điểm của Đảng ta trong việc thực hiện cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
Tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X (tháng 4 năm 2006), khi khẳng định
đường lối tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ "mục tiêu trực tiếp" mà
chúng ta cần phấn đấu thực hiện trong 5 năm 2006 – 2010 là "sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Để thực hiện "mục tiêu trực
tiếp" này, chúng ta phải có được một lực lượng sản xuất đạt trình độ phát triển cao,
một cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại dựa trên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ
ngày càng tăng của khoa học và công nghệ hiện đại; phải "tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có
giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức
của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Coi trọng cả số lượng
và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng
vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh tế – xã hội".
Theo quan điểm của Đảng, trong thời đại ngày nay, những tiến bộ về kinh tế,
xã hội cùng với sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ
chức quốc tế là cơ sở để chúng ta đẩy tới một bước cơng cuộc cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước nhằm tạo thêm nhiều cơng ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xác
định cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước là nhiệm vụ trung tâm, có tầm quan
trọng hàng đầu, là con đường duy nhất giúp chúng ta khơng chỉ thốt khỏi nguy cơ
tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực Đông – Nam Á và trên thế
giới, mà còn giữ được ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền
quốc gia và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta cũng đã xác định rõ định hướng phát triển 6 ngành và lĩnh vực chủ
yếu trong q trình thực hiện tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong thời gian tới. Đó là: đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân; phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây
3
dựng, dịch vụ; phát triển kinh tế vùng; phát triển kinh tế biển, chuyển dịch cơ cấu
lao động và cơ cấu cơng nghệ, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia,
cải thiện môi trường tự nhiên.
3. Đặc trưng của cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đơi với
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngồi. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu
vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của tồn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Đồng thời lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ.
Khoa học công nghệ là động lực của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở
những khâu quyết định. Bên cạnh đó, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa phải kết hợp
kinh tế với quốc phòng - an ninh.
II. KINH TẾ TRI THỨC
1. Khái niệm
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về
cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý
nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang
kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh cơng nghiệp sang văn
minh trí tuệ.
Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp
nhận nhất hiện nay là định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
4
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo
ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của
lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong q trình lao động của từng người lao động
và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm và trong tổng sản phẩm quốc dân
thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí lao động cơ bắp giảm đi vô cùng nhiều
trong khi hàm lượng tri thức, hao phí lao động trí óc tăng lên vơ cùng lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát
triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học,
cơng nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao (như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học...); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế
truyền thống (như nơng nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng khoa học,
công nghệ cao.
Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị
do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của
ngành đó. Một nền kinh tế được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản
phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước
(GDP).
Trên thế giới hiện nay, ở các nước thuộc tổ chức OECD, các ngành kinh tế tri
thức đã đóng góp trên 50% GDP (Mỹ 55,3%, Nhật Bản 53%, Canađa 51%...).
Nhiều nước công nghiệp mới và các nước đang phát triển cũng đang hướng mạnh
vào kinh tế tri thức, tập trung nỗ lực để phát triển nhanh một số ngành kinh tế tri
thức, như công nghệ thông tin, internet, thương mại điện tử, công nghệ phần mềm...
2. Đặc trưng
Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các sản
phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí óc tăng
lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.
Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức.
Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay vì
chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây. Thông tin, kiến thức lao động
có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung
5
tâm cơng nghệ cao được hình thành. Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng
với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế
phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi
mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa,
làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà cịn
tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế. Do những thay đổi trong cơ
cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi
cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động
xã hội.
Quy trình cơng nghệ trong sản xuất ln ln được thay đổi, làm cho năng
xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản
phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy
đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn
đến đời sống xã hội.
Siêu xa lộ thơng tin trong hệ thống mạng tồn cầu được hình thành, có ảnh
hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc biệt
giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia đơng đảo
của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri
thức, xã hội thơng tin mà khơng có biên giới.
Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức hóa đều phải dựa vào
cơng nghệ mới để đổi mới và phát triển. Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng
dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại
chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri
thức: hơn 70% GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công
nghệ cao; hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% cơng nhân tri
thức trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người. Nền kinh tế và
xã hội luôn ln đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát
triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
6
III.
CƠNG NGHIỆP HĨA HIỆN ĐẠI HĨA GẮN LIỀN VỚI KINH TẾ TRI
THỨC
1. Tại sao cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa phải gắn liền với nền kinh tế tri thức?
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của khoa học –
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu,… nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chứ
năng và phương thức hoạt động.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát
triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới về khoa học,
công nghệ,…
Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị
do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70 %) trong tổng giá trị sản xuất của
ngành đó. Một nền kinh tế được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản
phẩm các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước
(GDP).
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là
vốn quý nhất, là nguồn lực hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có
những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng. Trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức,
dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ ngày càng tăng, ngày càng
chiếm đa số.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong
mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương diện được phủ khắp cả
nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thơng tin trở thành nguồn tài
ngun quan trọng nhất của nề kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chống được tri thức hóa, sự
sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và
phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề tồn cầu
hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêtu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống
xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
7
Chính vì thế đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn
tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa là động lực phát triển
kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc phòng và là tiền đề
cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có
hiệu quả vào sự phân cơng và hợp tác quốc tế.
2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa-hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức
a. Thuận lợi
Nước ta tiến hành cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức trong điều kiện rất thuận lợi đó là : nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã hình thành và bước đầu
có sự phát triển nguồn nhân lực - vật chất được tăng cường, mức độ sống của nhân
dân dần được ổn định, sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng đáng kể, nền kinh tế
bắt đầu tích lũy, vốn đầu tư tồn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, đến năm
1995 lên 27,4% GDP, sự nghiệp giáo dục của đất nước có nhiều tiến bộ cải tiến,
trình độ dân trí được tăng lên, sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước có thêm kinh
nghiệm, tự do quan hệ bên ngoài, sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận và nước ta lại
nằm trong khu vực đang phát triển mạnh lôi kéo sự đầu tư của khắp thế giới. Nguồn
nhân công của nước ta dồi dào, phong phú, nhân dân ta có truyền thống ham học
hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến. Đặc biệt hiện nay nền chính trị xã
hội trên thế giới nhìn chung đang trong thời kỳ ổn định, các nước phát triển tiến
hành chuyển giao khoa học kỹ thuật cho những nước đang phát triển. Và nước ta có
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, điều kiện khí hậu thuận lợi cho con người
sinh sống phát triển,…
Đồng thời trong q trình cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa, nước ta có thuận lợi
cơ bản là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước
đi trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này. Trước đây, nước
Anh thực hiện cơng nghiệp hóa đầu tiên, phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ
mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống cịn 70 năm; và các nước cơng nghiệp mới
(NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực thực hiện q trình này trong bối cảnh lồi
người đang bắt đầu chuyển sang phát triển kinh tế tri thức, với sự bùng nổ của tự
8
động hóa, cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ gen, cơng nghệ nano, cơng nghệ vật liệu
mới... đúng như tiên đốn của C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri
thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi
mà thời đại tạo ra để các nước đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi
kịp các nước đi trước.
b. Khó khăn
Xuất phát điểm của nước ta khi tiến hành cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa là một
nước nơng nghiệp nghèo nàn lạc hậu, và chịu ảnh hưởng tàn phá của chiến tranh
nặng nề. Nền kinh tế nước ta được xếp vào chậm phát triển, lạm phát còn chưa được
hạn chế, nguồn vốn hạn hẹp mà phải đương đầu với cuộc cạnh tranh quyền lực về
kinh tế và thương mại, tình hình quốc phịng an ninh cịn phức tạp, công tác giáo
dục và đào tọa, nghiên cứu và phát triển chưa đạt theo yêu cầu. Đội ngũ cán bộ cịn
yếu, bố trí sử dụng chưa hợp lý, bộ máy nhà nước và Đảng cùng các đồn thể cịn
cồng kềnh, kém hiệu lực, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm
trọng.
3. Giải pháp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức
Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng
tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của
thế giới tồn cầu hóa.
Trong điều kiện chưa có đủ nguồn nhân lực để phát triển kinh tế tri thức lên
ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy
mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua
hội nhập và hợp tác cùng với gửi đi nâng cao trình độ ở nước ngoài, các chuyên gia
Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các cơng nghệ
cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa ở
trình độ cao. Nhiều ví dụ trong cơng nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông
quốc gia, trong công nghiệp chế biến nông sản, trong chế tạo thiết bị cơ điện tử…
đã cho thấy kết quả tốt và bước tiến nhanh rõ rệt.
Để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nơng nghiệp phải gắn kết với phát
tiển sáng tạo tri thức sáng tạo mới, cụ thể là : phải chuyển giao tri thức về công
nghệ sinh học, tri thức về giống cây con chất lượng và năng suất cao, về canh tác và
9
chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản
xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới và đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin-truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa nơng nghiệp.
Trong cơng nghiệp và xây dựng thì cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa sẽ gắn kết
thuận lợi với phát triển tri thức vì cơng nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện
đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây
dựng ở mọi cấp pahir chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính
sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư
viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy
thơng minh có “nhúng” máy điện tốn tự động hóa hồn tồn hoặc robot, hoặc các
dây chuyền máy tự động hóa tồn phần.
Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là
điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này.
Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền cơng
nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) , số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn
với triển vọng tốt.
Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến trên 70%
GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi đầy mạnh hiện
đại hóa nhanh dịc vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài
chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, pháp luật,… bắt buộc phải nhanh chóng
chuyển sang ứng dụng cơng nghệ thơng tin, mạng internet, viễn thơng tồn cầu…
Thời gian qua, một số ngành dịch vụ ở nước ta đã có sự tiến bộ đáng kể trong hiện
đại hóa.
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN
Cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường
cần thiết để rút ngắn quá trình chuyển kinh tế xã hội của nước ta nói chung. Để thực
hiện con đường này, cần phải tìm ra được phương thức gắn kết ba quá trình trên
trong một cơ cấu và cơ chế thích hợp. Xuất phát từ điều kiện khoa học, công nghệ
và kinh tế trên thế giới, trong nước hiện nay, con đường gắn kết cơng nghiệp hóahiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức địi hỏi phải kết hợp phát triển cơng
nghiệp truyền thống với công ngiệp hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
10
tăng nhanh các ngành cơng nghiệp, dịch vụ có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng
cao, thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển khoa học và công nghệ, phổ cập công nghệ
thông tin, kết hợp công nghệ ngoại sinh và nội sinh.
Do cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là một quá
trình kinh tế-xã hội, nên việc thực hiện phải chịu tác động bởi nhiều yếu tố cả khách
quan và chủ quan. Đó là các nguồn lực, tiềm năng của đất nước, của địa phương về
tài nguyên, vốn, nhân lực và khoa học, công nghệ; độ mở của nền kinh tế với bên
ngồi và hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp, sự năng động của
cộng đồng doanh nghiệp. Việc sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực, tiềm năng
này là điều kiện bảo đảm thành công của sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức của mỗi tỉnh, thành phố.
Để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
nước ta còn nhiều việc cần phải làm. Phải chuyển sang phát triển theo chiều sâu, coi
trọng tri thức, khoa học và công nghệ; phải phát triển và sử dụng nhân lực chất
lượng cao, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền nhà nước các cấp.
Để thực thi có hiệu quả các yêu cầu trên trong thời gian tới, vấn đề là phải đưa
ra được các dự báo chính xác về bối cảnh, triển vọng, xác định đúng phương hướng
và đề xuất một hệ thống giải pháp đồng bộ. Giải pháp để thực hiện phương hướng
này là tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ và người
dân về tầm quan trọng và con đường cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức; tăng cường công tác dự báo, nâng cao hiệu lực quản lý của các
cấp chính quyền thành phố; khai thác, sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực nhất là
nguồn lực trong thành phố, trong nước về nhân lực, khoa học, công nghệ, vốn; coi
trọng cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực và thu hút nguồn lực từ bên
ngoài…
11
Tư liệu tham khảo
1. />2. />3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 76-78, 112-114.
12