Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.66 KB, 84 trang )

LỜI CẢM ƠN
Sau một quá trình nghiên cứu đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao vào việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học quốc gia Hà Nội”, đến nay tơi đã hồn thành khóa luận.
Để có được sản phẩm nghiên cứu như ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành tới Ban lãnh đạo Học viện, lãnh đạo Khoa Quản lý và các thầy
cô trong Khoa Quản lý đã giúp đỡ, động viên; tập thể cán bộ, giáo viên, nhân
viên Trung tâm Đảm bảo chất lượng Đào tạo - Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn - ĐHQGHN; cán bộ thư viện Học viện Quản lý giáo dục và
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện khóa luận
tốt nghiệp.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới giảng viên TS. Nguyễn
Liên Châu - người đã hướng dẫn tận tình và cho tơi nhiều ý kiến q báu
trong q trình tơi nghiên cứu và hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do kinh nghiệm cũng như thời gian nghiên
cứu còn hạn hẹp nên chắc rằng luận văn còn nhiều thiếu sót. Tơi rất mong
nhận được sự cảm thơng, góp ý và chỉ dạy của thầy cơ.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Lê Thị Hoài Mây


MỤC LỤC
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................
Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của nguồn nhân lực
chất lượng cao và việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao................
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực
chất lượng cao vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng
viên tại Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN.............................................


Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao tại Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN...........
NỘI DUNG......................................................................................................
Chương 1:........................................................................................................
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA.....................................
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ VIỆC.............................
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO...........................
1.1 Quan niệm về con người, nhân tố con người, nguồn nhân lực hay
nguồn lực con người..................................................................................6
1.1.1 Khái niệm con người....................................................................
1.1.2 Khái niệm nguồn nhân lực hay nguồn lực con người................
1.1.2.1 Khái niệm nguồn nhân lực.......................................................
1.1.2.2 Các nhân tố tác động tới việc sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực.............................................................................................
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao. 11
1.3 Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư tưởng Hồ
Chí Minh..................................................................................................20
Chương 2:......................................................................................................
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ..........................................


NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀO VIỆC........................
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐH. KHXH&NV - ĐHQGHN...........................................
2.1 Tổng quan về Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN.....................30
2.1.1 Tổng quan...................................................................................
2.2 Thực trạng về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN...................................................33
2.2.1 Sự cần thiết về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
giảng viên Trường ĐH.KHXH&NV- ĐHQGHN................................

2.2.2 Căn cứ về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng
viên Trường ĐH.KHXH&NV- ĐHQGHN..........................................
2.2.3 Thực trạng tình hình và kết quả nâng cao chất lượng đội
ngũ CB, GV Trường ĐH.KHXH&NV- ĐHQGHN............................
2.2.3.1 Nhà trường có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng phát
triển đội ngũ giảng viên và nhân viên; quy hoạch bổ nhiệm cán
bộ quản lí đáp ứng mục tiêu chức năng, nhiệm vụ và phù hợp
với điều kiện cụ thể của đơn vị đào tạo đại học; có quy trình,
tiêu chí tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng minh bạch.............................
2.2.3.2 Nhà trường có chính sách, biện pháp tạo điều kiện cho
đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên tham gia các hoạt động
chuyên mơn, nghiệp vụ ở trong và ngồi nước..................................
2.2.3.3 Đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức, năng
lực quản lý chun mơn, nghiệp vụ và hồn thành nhiệm vụ
được giao...........................................................................................
2.2.3.4 Nhà trường có đủ số lượng giảng viên để thực hiện
chương trình giáo dục và nghiên cứu khoa học; đạt được mục
tiêu của chiến lược phát triển giáo dục nhằm giảm tỷ lệ trung


bình sinh viên/ giảng viên..................................................................
2.2.3.5 Đội ngũ giảng viên đảm bảo trình độ chuẩn được đào
tạo của nhà giáo dục được quy định. Giảng dạy theo chuyên
môn được đào tạo; đảm bảo cơ cấu chun mơn và trình độ
theo quy định; có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu
về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học........................................
2.2.3.6 Đội ngũ giảng viên được đảm bảo cân bằng về kinh
nghiệm cơng tác chun mơn và trẻ hóa của đội ngũ giảng viên
theo quy định......................................................................................
2.2.3.7 Đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên đủ số lượng, có năng

lực chun mơn và được định kỳ bồi dưỡng chun mơn,
nghiệp vụ, phục có hiệu quả cho việc giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học..........................................................................
1. Đối với trường Đại học Quốc gia Hà Nội..........................................68
2. Đối với trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn...................68
3. Đối với cán bộ, giảng viên...................................................................69


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

GD&ĐT

:

Giáo dục và đào tạo

ĐHKHXH&NV

:

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn

ĐHQGHN

:

Đại học Quốc gia Hà Nội

NCKH


:

Nghiên cứu Khoa học

CB

:

Cán Bộ

GV

:

Giảng viên

GDĐH

:

Giáo dục Đại học

CNTT

:

Công nghệ thông tin

KHCN


:

Khoa học công nghệ

BMTT

:

Bộ môn trực thuộc

TT

:

Trung tâm

NC

:

Nghiên cứu


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử dụng nước và giữ nước của dân tộc ta đã có
biết bao nhiêu vĩ nhân, anh hùng mà cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và nhân
cách của họ tiêu biểu cho lý tưởng, ý chí, khát vọng của dân tộc và xu hướng
phát triển của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người như
vậy. “Hồ Chí Minh” - những chữ ấy đã trở thành một biểu tượng, một niềm tự

hào của dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
Dân tộc ta sinh ra Hồ Chủ Tịch, và chính Người - Anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới - người mà tổ chức Giáo dục - Khoa học
- Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đánh giá là đã “để lại dấu ấn trong
quá trình phát triển của nhân loại” - đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta,
non sông đất nước ta. Tư tưởng và lý luận cách mạng mà Người để lại cho
dân tộc ta và nhân loại là một di sản vơ cùng q giá. Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân
loại” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Chính vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân
Việt Nam.
Tư tưởng của Người bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn, phong phú, trong
đó vấn đề nhân lực chất lượng cao và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
chiếm một vị trí quan trọng. Người xem “vơ luận việc gì đều do người làm ra
và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Con người là chủ thể kiến tạo nên
toàn thể xã hội, nếu là con người có đủ đức và tài thì họ sẽ làm được nhiều
1


việc có ích, và nếu những người đó tham gia vào các công việc của nhà nước,
được tạo điều kiện để phát huy đạo đức và tài năng, thì họ sẽ làm được nhiều
việc “ích quốc, lợi dân”. Từ quan niệm “vơ luận việc gì đều do người làm ra”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tới kết luận: “cán bộ quyết định mọi việc”, “muôn
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là chân lý nhất

định”. Đây là lôgic tư tưởng độc đáo, đặc sắc của Hồ Chí Minh về vấn đề
nhân lực chất lượng cao và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế cũng như trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành
động lực chủ yếu đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vấn đề
này đang đặt ra cho nền giáo dục đại học Việt Nam một nhiệm vụ hết sức to
lớn và cấp bách. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phát triển,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao
và coi đây là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền
vững đất nước”
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN luôn được
Nhà nước Việt Nam coi là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học xã
hội nhân văn lớn nhất của đất nước. Là một cơ sở giáo dục đầu ngành trong
hệ thống trường Đại học Quốc gia Hà Nội chiếm tỷ lệ Giáo sư, Phó Giáo sư,
Tiến sĩ nhiều nhất trên cả nước.
Từ nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực chất lượng
cao trong xã hội nói chung và đội ngũ cán bộ giảng viên trong giáo dục đại
học nói riêng, cùng với quá trình thực tập tốt nghiệp tại Trường Khoa học Xã
hội và Nhân văn - ĐHQGHN tôi lựa chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao vào việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại
học quốc gia Hà Nội”
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản quý báu của Đảng và nhân dân Việt
2


Nam. Với tính cách nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng đã được nhiều học giả

nghiên cứu và phân tích. Đã có nhiều tác phẩm, đề tài khoa học với nhiều
cách tiếp cận khác nhau về sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực
chất lượng cao được tiếp cận thông qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức nói chung, về đạo đức của cán bộ, đảng viên nói riêng; hoặc thông qua
nghiên cứu những vấn đề về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; hoặc được
vận dụng nghiên cứu trong sự nghiệp Cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước….
Nói chung, vấn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao đã được tiếp
cận, nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau và cũng đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được áp dụng
trong lĩnh vực giáo dục và cụ thể về đội ngũ cán bộ, giảng viên trong cơ sở
giáo dục đại học tôi thấy việc nghiên cứu trực tiếp vận dụng những quan điểm
của Hồ Chí Minh về nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn là vấn đề
cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Chính vì thế, tơi đã lựa chọn đề tài nói
trên với mong muốn góp phần tìm hiểu một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn to lớn trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN sau quá trình trải
nghiệm thực tế qua đợt thực tập tại trường này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn
nhân lực chất lượng cao để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ
nghiên cứu được xác định là nghiên cứu, làm rõ:
3


- Các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng

cao và việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường ĐH.KHXH&NV ĐHQGHN.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao vào
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguồn nhân lực chất lượng cao.
4.2 Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu: Cán bộ quản lý, giảng viên, chuyên viên Trường
Đại học KHXH&NV - ĐHQGHN.
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN.
Phạm vi về nội dung: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN trên nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận và các văn bản có liên quan
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
4



5.3. Các phương pháp bổ trợ xử lý số liệu:
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của việc nghiên cứu
- Xét về ý nghĩa khoa học: Khóa luận tốt nghiệp đã giúp tôi trao dồi
thêm kinh nghiệm thực tế, sự vận dụng những kiến thức đã được học trên
giảng đường vào trong quá trình thực tập, đặc biệt nâng cao khả năng nghiên
cứu, khả năng tiếp cận, phân tích vấn đề cho bản thân tơi.
- Xét về thực tiễn: Khóa luận tốt nghiệp đã phản ánh rõ được thực trạng
đội ngũ cán bộ, giảng viên và quá trình quy hoạch cán bộ, giảng viên Trường
ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN. Đó là kết quả phản ánh của quá trình tiếp cận
thực tế trong đợt thực tập tốt nghiệp của tôi, thông qua việc vận dụng những
kiến thức lý thuyết đã được học trên giảng đường vào thực tiễn, sự tận tình
giúp đỡ và chỉ bảo của các chuyên viên Trung tâm đảm bảo chất lượng đào
tạo để tăng thêm sự hiểu biết về lĩnh vực xây dựng, phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, bài nghiên
cứu khoa học này còn được cấu tạo gồm 3 chương:
Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của nguồn nhân lực
chất lượng cao và việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực
chất lượng cao vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên
tại Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao tại Trường ĐH.KHXH&NV - ĐHQGHN.

5


NỘI DUNG
Chương 1:

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CỦA
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ VIỆC
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO.
1.1 Quan niệm về con người, nhân tố con người, nguồn nhân lực hay
nguồn lực con người.
1.1.1 Khái niệm con người
Khái niệm con người là khái niệm gốc có tính chất bao trùm. Theo quan
điểm triết học Mácxít: con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực
thể xã hội. Bản chất con người được thể hiện:
- Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa “cái sinh học” và “cái
xã hội”.
“Cái sinh học” đó là những cái thiên về những yếu tố hữu sinh, hữu cơ,
những cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con người, những
cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể, một hệ thống
phục tùng các quy luật sinh học.
“Cái xã hội” của con người là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất
hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về
mặt xã hội tạo nên mỗi cá nhân con người (ý thức, tư duy, tâm lý, phẩm chất
đạo đức, năng lực…) của con người thuộc cái “cái xã hội”.
“Cái sinh học” là cái có trước, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển
của “cái xã hội”. Cịn “cái xã hội” là cái quyết định, nhờ nó mà “cái sinh học”
trong con người được nâng lên trên trình độ của con vật. “Cái xã hội” được
hình thành và phát triển từ sự tác động qua lại giữa con người và hồn cảnh
thơng qua hoạt động thực tiễn và giao lưu của con người.
6


- Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa “cái cá nhân” và “cái
cộng đồng”.
“Cái cá nhân” là cái riêng, cái không lặp lại ở người khác, là cơ sở để

phân biệt người này với người khác.
“Cái cộng đồng” là cái chung của mỗi người khi con người cùng sống
trong một thời đại lịch sử-xã hội nhất định.
- Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân
tộc và tính nhân loại.
Khi xã hội có giai cấp, mỗi con người đều thuộc một giai cấp nhất định,
có cùng lợi ích và bảo vệ cho lợi ích chung đó.
Mỗi con người đều là con người thuộc một dân tộc nhất định mang trong
đó bản sắc văn hóa, phong tục tập qn, ngơn ngữ của dân tộc đó.
Khi con người tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế, tiếp thu nền văn hóa
nhân loại sẽ mang tính nhân loại.
- Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa tính thời đại và tính
lịch sử.
Con người mang tính thời đại là con người mang những đặc trưng xã hội
của thời đại đó mà con người đang sống.
Con người mang tính lịch sử là con người đang sống trong một giai đoạn
lịch sử nhất định, vừa kế thừa những tinh hoa của quá khứ và những khuyết
tật phản ánh những nét lạc hậu, tiêu cực của quá khứ.
- Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử.
Con người là sản phẩm của xã hội vì suy cho đến cùng mơi trường xã hội
(đặc biệt là giáo dục) có vai trị chủ đạo quyết định việc đinh hướng và phát
triển nhân cách con người.

7


Con người là chủ thể của lịch sử vì con người biết chủ động tác động
trong nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan phục vụ cho mục đích của
mình. Con người tạo ra hồn cảnh đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy.

Như vậy, có thể hiểu khái quát về bản chất con người như sau: Bản
chất con người là một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa các mặt: sinh
học và xã hội; cá nhân và cộng đồng; tính giai cấp và tính nhân loại; tính
thời đại và tính lịch sử; đồng thời con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể
sáng tạo lịch sử. Như Các Mác đã chỉ ra rằng: trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
1.1.2 Khái niệm nguồn nhân lực hay nguồn lực con người
1.1.2.1 Khái niệm nguồn nhân lực
Về khái niệm nguồn nhân lực, trước hết là khái niệm dùng để phân biệt
với các khái niệm khác trong hệ thống các nguồn lực tạo ra phát triển kinh tế xã hội (bao gồm vật lực, tài lực, nhân lực).
Các nguồn lực quan trọng phát triển ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Nguồn lực con người;
- Tài nguyên thiên nhiên;
- Vị trí địa lý;
- Cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật;
- Các nguồn lực nước ngoài.
Nguồn nhân lực là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau, tùy theo những cách tiếp cận khác nhau mà có những quan niệm khác
nhau về nguồn nhân lực.
Trên phạm vi quốc gia, nguồn nhân lực là bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định và có khả năng tham gia vào quá trình lao động. Nguồn nhân lực
của quốc gia phụ thuộc chặt chẽ vào việc quy định tuổi lao động của nhà
nước và khả năng tham gia lao động của từng cá nhân cụ thể. Để làm sáng
8


tỏ bản chất, nội dung, cấu trúc của khái niệm nguồn nhân lực cần xem xét
nó trong mối quan hệ tương quan với các khái niệm “yếu tố con người” và
“nhân tố con người”.
Khái niệm nhân tố con người có ý nghĩa hẹp hơn khái niệm yếu tố con

người. Nhân tố con người chỉ là những đặc trưng tâm lý-xã hội trong yếu tố
con người. Khi con người tham gia với tư cách là “yếu tố con người”, trở
thành một tiềm năng, một điều kiện cần phát huy, tạo động lực phát triển của
một quá trình xã hội thì được coi là “nguồn nhân lực”. Khái niệm nguồn lực
con người bao gồm các tiêu chí về số lượng, chất lượng con người và quản lý
nguồn nhân lực; là việc cụ thể hóa khái niệm nhân tố con người. Trong các
nguồn lực thì nguồn nhân lực là quan trọng nhất, quyết định nhất.
Khi nói đến nguồn nhân lực, có người thường đồng nhất với sức người
trong sản xuất. Quan niệm như thế dẫn đến ngộ nhận sức người trong sản xuất
chỉ là sức cơ bắp. Nguồn nhân lực con người trước tiên thể hiện ở sức người
trong sản xuất, song không phải chỉ là sức cơ bắp mà là cái cốt lõi, cái chủ
yếu trong nguồn lực con người ở thời đại ngày nay với đặc trưng là xu thế
toàn cầu hóa, phát triển kinh tế trí thức đó chính là hàm lượng trí tuệ, trình độ,
năng lực lao động sáng tạo, là những phẩm chất tâm lý của con người trong
nền sản xuất hiện đại; là tập hợp chỉ số phát triển của con người, là chất lượng
văn hóa mà bản thân nó và xã hội có thể huy động cho phát triển xã hội.
Như vậy, khi nói đến nguồn nhân lực là muốn đề cập đến một tài sản,
một nguồn vốn-vốn người có khả năng sinh sơi, nảy nở và khơng ngừng phát
triển trong q trình khai thác và sử dụng.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng định nghĩa về nguồn nhân lực
của Liên hợp quốc có tính khái quát hơn cả: “Nguồn nhân lực là tổng thể sức
dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động
của con người trong việc cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội”1.
1

Dẫn theo: Georget T.Milkovich, John W. Boudreau: Quản trị nguồn nhân lực, Nxb.Thống

kê, Hà Nội, 2005, tr.21

9



Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia hay mỗi tổ chức có một số đặc điểm
cơ bản sau đây:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực cơ bản nhất, nó có tính quyết định.
- Nguồn nhân lực chỉ được phát huy hiệu quả thơng qua q trình
lao động.
- Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm có ảnh hưởng lớn đến quá trình tổ
chức, quản lý và sản xuất.
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức được cấu thành bởi ba
yếu tố cơ bản sau đây:
- Số lượng nguồn nhân lực là con số biểu thị sự có nhiều hay ít người lao
động đang làm việc trong nền sản xuất xã hội. Số lượng người lao động cho ta
thấy quy mô sử dụng lao động của xã hội.
- Cơ cấu nguồn nhân lực là cách tổ chức, phân bố lực lượng lao động
trong nền sản xuất xã hội.
- Chất lượng nguồn nhân lực là những yếu tố cấu thành nên những năng
lực, giá trị của nguồn lực lao động ở con người trong quá trình sản xuất.
Lý luận và thực tiễn phát triển xã hội ở nhiều nước, trong đó có Việt
Nam đã chỉ ra rằng trong nhiều nguồn lực, thì nguồn nhân lực có vai trị
quyết định nhất đối với phát triển kinh tế - xã hội, vì con người vừa là một
nguồn lực của phát triển, vừa là chủ thể chủ động để phát huy một nguồn lực
khác. Mặt khác, do tính đặc thù lao động của con người mang tính sáng tạo và
khơng cạn kiệt, muốn có khả năng phát triển bền vững thì phải quan tâm phát
triển cả về trí tuệ, năng lực và đạo đức cho con người..
1.1.2.2 Các nhân tố tác động tới việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
Theo Từ điển tiếng Việt thì hiệu quả là “kết quả như yêu cầu của việc
làm mang lại”1. Trong cuốn Quản lý nguồn nhân lực của tác giả Paul Harsey,
Ken Blan Hard, thuật ngữ hiệu quả được hiểu một cách ngắn gọn đó là đó là
sự đạt tới của các mục đích đã được định hướng2.


Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.324
Xem: Paul Harsey, Ken Hard: Quản lý nguồn nhân lực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.45
1
2

10


Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu về hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là
sự đối chiếu các kết quả đạt được với toàn bộ nguồn nhân lực mà xã hội hay
tổ chức đã sử dụng, nhằm đánh giá mức độ đạt tới các mục đích đã đề ra..
Có nhiều nhân tố tác động tới việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực,
song chủ yếu vẫn là các nhân tố sau:
- Chính sách sử dụng nguồn nhân lực;
- Công tác hoạch định nguồn nhân lực;
- Công tác tuyển dụng nguồn nhân lực;
- Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
- Bố trí, sử dụng nguồn nhân lực;
- Chế độ đãi ngộ và khen thưởng;
- Môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến.
Trong chiến lược phát triển và sử dụng nguồn nhân lực của các quốc gia
hiện nay, vấn đề phát hiện, đào tạo, thu hút, trọng dụng nguồn lực chất lượng
cao là then chốt và có ý nghĩa quyết định.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
biết có bao vĩ nhân anh hùng, mà cuộc đời, sự nghiệp. tư tưởng và nhân cách
của họ tiêu biểu cho lý tưởng, ý chí khát vọng của dân tộc và xu hướng phát
triển của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người như vậy.

Tư tưởng và lý luận cách mạng Người để lại cho dân tộc ta và nhân loại là
một tài sản vô cùng quý giá, bao quát trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề
về lĩnh vực nguồn nhân lực chất lượng cao. Từ việc nhận thức sâu sắc vai trò
của nhân tài trong xã hội nói chung cũng như trong sự nghiệp cách mạng nói
riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt trân trọng và trọng dụng nguồn nhân
lực chất lượng cao, đồng thời cũng xây dựng nên một hệ thống quan điểm về
viêc phát hiện đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
nhằm đáp ứng những yêu cầu trong từng giai đoạn cách mạng.
11


“Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh
mà hưng thịnh. Ngun khí suy thì đất nước yếu mà thấp hèn”. Đoạn văn trên
do Thân Nhân Trung soạn và được khắc trên bia đá đặt tại văn miếu Quốc Tử
giám đã nói lên tầm quan trọng của nhân tài – nhân tố quyết định đến sự hưng
vong của quốc gia, sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Tiếp nối và phát
huy truyền thống của cha ơng, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trị và
vị trí của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp cách mạng. Người
xem “vô luận việc gì đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều
thế cả”. Nếu con người làm ra tất cả, thì con người có tài năng - đức độ
(nguồn nhân lực chất lượng cao) lại càng có vai trị quan trọng.
Để phát hiện đúng những nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước,
đầu tiên phải hiểu rõ khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao. Khái niệm
nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ dùng cho tất cả những người có
học vấn cao, hoặc có bằng cấp cao về mặt chun mơn mà khái niệm này còn
bao hàm nhiều đối tượng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, những người thực
sự tài năng trong xã hội. Có thể hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là
những người có tài năng trội hơn, có những đóng góp lớn hơn nhiều so với
người bình thường trong xã hội. Nguồn nhân lực chất lượng cao trước hết
phải là những người có nhân cách tốt, mang đầy đủ những giá trị tốt đẹp của

một xã hội nhất định, có trí thơng minh, trí tuệ phát triển, có một số phẩm
chất nổi bật mà ít người đó, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có
những tư duy độc đáo, sắc sảo mà người thường khơng có, có khả năng dự
báo và suy diễn tốt và giải quyết cơng việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu
quả cao, là người gây được ảnh hưởng lớn trong xã hội… nguồn nhân lực
chất lượng cao có thể xuất hiện ở nhiều lứa tuổi, nhiều địa phương, ở các
tầng lớp người trong xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ tầm quan trọng của nguồn nhân
lực chất lượng cao đối với tiến trình phát triển đất nước. Người đã đánh giá
12


rất cao vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của lực lượng trí thức, nhân tài hay
cịn gọi đó là nguồn nhân lực chất lượng cao. Người nói: “ Đảng và Chính
phủ ta rất quý những người trí thức của dân, vì dân”. Để hiểu rõ được khái
niệm nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hết chúng ta cần đi sâu tìm hiểu
khái niệm trí thức và nhân tài.
- Thứ nhất, là về trí thức:
Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học Liên Xơ thì “trí thức là một
nhóm xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và có học vấn
chun mơn cần thiết cho ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính
cách là một nhóm xã hội đặc biệt gắn liền với sự phân công lao động xã hội
giữa lao động trí óc và lao động chân tay”1.
Từ điển chủ nghĩa khoa học xã hội Việt Nam xác định: “Trí thức là một
nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có
học vấn chuyên mơn cần thiết cho ngành lao động đó”.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu
hỏi “Trí thức là gì?”. Trả lời câu hỏi này Người chỉ rõ: “Trí thức là hiểu biết.
Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản.
Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh

đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngồi hai cái đó, khơng có trí thức
nào khác” 2.
Trong bài Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc, Người xác định
tri thức là “những người lao động trí óc”. Vậy “lao động trí óc là ai?”. Câu trả
lời của Hồ Chí Minh: “Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học,
văn nghệ, những người làm bàn giấy,...”3
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về
Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, Nxb.Sự thật, Hà Nội,
1986, tr.360.
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 275.
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 7, tr. 71
1

13


xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, có đoạn: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ
học vấn cao về lĩnh vực chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và
vật chất có giá trị đối với xã hội”. 1
- Thứ hai, về nhân tài:
Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học viết: “Nhân tài là người có tài
năng xuất sắc”. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “nhân tài là người có tài”.
Nhân tài là bộ phân ưu tú của trí thức. Họ là những người tài giỏi, có
những cống hiến, những cơng trình về lý luận, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, cơng nghệ, có khả năng lãnh đạo quản lý. Đó là những người học rộng,
học sâu, giàu óc sáng tạo, tư duy sâu sắc, có khả năng phán đốn, dự báo tốt,

làm việc độc lập, tự chủ. Đó là những người có tài năng thực sự, có những
cống hiến cho đất nước và nhân loại. 2
Từ những tìm hiểu trên có thể nhận định nguồn nhân lực chất lượng cao
là những người có phẩm chất cá nhân xuất chúng, hiệu quả cơng việc của học
có tác động lớn đến xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm nguồn nhân lực
chất lượng cao là những “người tài đức có thể làm những việc ích nước lợi
dân”, “là những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên
quyết dũng cảm nhất”3. Như vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực
chất lượng cao khơng phải chỉ do họ có phẩm chất, năng lực gì, mà quan
trọng hơn, là phẩm chất và năng lực ấy có hướng đến phục vụ lợi ích cho xã
hội, cho đất nước hay khơng. Nếu có năng lực mà khơng làm được những
việc có lợi cho dân, cho nước, thì khơng đủ để được coi là nguồn nhân lực
chất lượng cao.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương
khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 81-82
1

2

Nguyễn Khánh Bật: Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 9
3

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 5, tr. 262

14


Ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, trong quá khứ cũng như trong

hiện tại, nguồn nhân lực chất lượng cao có một vai trị rất quan trọng. Chính
vì vậy, ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, chính trong lúc phải đối
phó với mn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao quan điểm
trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó nổi bật là những bài viết
về trí thức, nhân tài.
Người nói: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như
thế, ở Việt Nam càng như thế”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cái thiếu lớn
nhất sau khi giành chính quyền là trí thức. Người chỉ rõ chương trình kiến
thiết của nước Việt Nam trước tiên là làm cho dân khỏi khổ, khỏi dốt. Muốn
thế thì phải ra sức tăng gia sản xuất, muốn tăng gia sản xuất và có kết quả tốt
cần có tư bản, trí thức và lao động. Người khẳng định: Chúng tơi có tài
ngun, dân chúng tơi cần cù chịu khó, chúng tôi đủ sức lao động. Người kêu
gọi các nhà tư bản Pháp và các nước đầu tư vào Việt Nam làm ăn theo nguyên
tắc hai bên cùng có lợi. Vấn đề còn lại, cái thiếu lớn nhất lúc này là trí thức.
Người cịn nói: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến
kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ
nghĩa lại càng cần”2. Chính xuất phát từ thực tế ấy chúng ta mới thấu hiểu
mong ước của Người có được nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp kiến quốc.
Ngày 14/11/1945, Người ra viết bài “Nhân tài và Kiến quốc”, trong đó
nhấn mạnh: “sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái
gì cũng kém cỏi, chỉ có lịng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững
nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lịng hăng hái đó vào con đường kiến
quốc. Kháng chiến phải đi đơi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì
kiến quốc mới thành cơng. Kiến quốc có chắc thành cơng, kháng chiến mới
mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t. 5, tr. 184.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 56, 59.

15


lắm nhưng khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày
càng phát triển nhiều thêm”1. Trong kháng chiến cũng như trong kiến quốc,
đặc biệt là trong kiến thiết ngoại giao, kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết
giáo dục đều cần nhân tài cùng với trí thức là nguồn nhân lực chất lượng cao
chung tay góp sức. Khơng có sự đóng góp tài năng và sức lực của nguồn nhân
lực chất lượng cao này thì kháng chiến và kiến quốc khó thành cơng. Chính vì
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “đồng bào ai có tài năng và sáng kiến
về những cơng việc đó, lại sẵn lịng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế
hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tơi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách
kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay” 2. Qua bài viết trên của
Hồ Chí Minh, có thể thấy, Người đã đặc biệt đánh giá cao vai trò của nguồn
nhân lực chất lượng cao đối với đất nước, đồng thời cũng thể hiện rõ quan
điểm của Người cho rằng, muốn giải quyết được những vấn đề khó khăn
trong bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước phải thực
sự trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, phải tạo điều kiện để đội ngũ
này đóng góp tài năng của họ.
Nói đến vai trị của nguồn nhân lực chất lượng cao, Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ Nhà
nước có tài, đức. Cơng việc Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực, có tác động
mạnh mẽ nhất đến mọi mặt của đời sống xã hội, địi hỏi phải có một đội ngũ
cán bộ, cơng chức tốt để thi hành cơng vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định
cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” 3. Như
vậy, theo quan điểm của Người, người cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ với

Nhà nước, nhân dân; là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng. Nhiệm
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 5. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 99.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2004, tr. 99.
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 5. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 269.
2

16


vụ của người cán bộ là truyền đạt và tổ chức nhân dân thực thi đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, đồng thời giúp Đảng và
Nhà nước nắm bắt những thông tin phản hồi từ nhân dân để qua đó Đảng và
Nhà nước điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách. Để làm được như
vậy, người cán bộ phải là người có tài năng và phẩm chất để phổ biến, truyền
đạt cho quần chúng, được quần chúng tin cậy, gửi gắm; nếu cán bộ dở thì
chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được.
Qua việc xác định vai trị vơ cùng quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với
sự phát triển của cách mạng, Người khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”, “cán bộ là tiền vốn của đồn thể. Có cán bộ mới làm ra lãi. Bất cứ
chính sách,cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức là có lãi, khơng có
cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” 1. Xem cán bộ là “gốc”, là “vốn”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh cán bộ là lực lượng chủ đạo tiên phong,
góp phần rất lớn đến sự thành bại của phong trào cách mạng, chính vì vậy, họ
phải là những người có đạo đức và tài năng.
Với tinh thần như thế, Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước phải tập hợp
được vào đội ngũ của mình những người tài đức, và nhân dân cũng phải giúp
nhà nước chọn lọc, phát hiện và giới thiệu người tài đức tham gia các cơ quan

quyền lực. Chúng ta đều biết cuộc Tổng Tuyển cử đầu tiên của nước Việt
Nam mới được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm như thế nào, và thực chất của
cuộc Tổng Tuyển cử ấy đã được Hồ Chí Minh nói rõ: “Tổng tuyển cử là một
dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh
vác công việc nước nhà”2.
Để làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của nguồn nhân lực
chất lượng cao, chúng ta cần xem xét thêm quan điểm của Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa trí thức, nhân tài và quần chúng nhân dân.
Cần phải khẳng định ngay rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quần
1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 46.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2004, tr. 133.

17


chúng nhân dân là lực lượng có sức mạnh (tinh thần và vật chất) to lớn nhất,
không ai sánh nổi. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh khơng chỉ bắt nguồn từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần
chúng nhân dân, mà cịn bắt nguồn từ triết học - chính trị truyền thống của
phương Đông, và đặc biệt là từ nhận thức của Hồ Chí Minh về thực tiễn các
phong trào của quần chúng nhân dân trong quá khứ và hiện tại.
Tuy nhiên, sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi nhân
dân được giác ngộ và tổ chức thơng qua vai trị của trí thức, của nhân tài. Hồ
Chí Minh ln quan niệm, Đảng Cộng sản Việt Nam phải là tổ chức của
những con người ưu tú nhất, cả về đạo đức và tài năng, chẳng hạn Người đã
từng nói: “trong Đảng ta, gồm những người có tài, có đức. Phần đơng những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm

nhất đều ở trong Đảng ta” 1, đồng thời, tài năng của các cá nhân cũng chỉ được
hoàn chỉnh khi làm nên sự nghiệp lớn, mà muốn thế, thì khơng thể khơng dựa
vào nhân dân. Đó là phương diện thứ nhất trong quan hệ giữa trí thức, nhân
tài và nhân dân.
Mặt khác, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tài năng của con người có
phần do bẩm sinh, song những tài năng có ích cho xã hội thì phần nhiều được
hun đúc, rèn luyện từ trí tuệ và kinh nghiệm của chính quần chúng nhân dân
qua hàng nghìn năm lịch sử. Nói cách khác, trí thức và nhân tài là từ nhân dân
mà ra. Quần chúng nhân dân là kho báu nhân tài lớn nhất. Hồ Chí Minh cho
rằng trong quần chúng nhân dân lao động tiềm ẩn một nguồn nhân lực chất
lượng cao cực kì phong phú, là kho báu nhân tài và đồng thời nhân tài nảy
sinh trong thực tiễn, mà quần chúng là chủ thể của thực tiễn. Thực tiễn sinh ra
nhân tài, nhân dân nuôi dưỡng nhân tài, đó là một quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa trí thức, nhân tài và
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 133.

18


thực tiễn; trí thức, nhân tài và quần chúng. Trong bài nói tại Hội nghị bất
thường Ban Chấp hành Trung ương toàn Nga năm 1919, Lênin đã chỉ ra rằng:
nếu nhìn vào quãng đường mà một vị lãnh tụ cách mạng vô sản đi qua, chúng
ta lập tức phát hiện ra rằng tài tổ chức trác việt của đồng chí ấy đã được rèn
luyện nên trong quá trình đấu tranh lâu dài, rằng mọi phẩm chất tốt đẹp của
nhà đại cách mạng có ở vị lãnh tụ cách mạng vơ sản đó đều do đồng chí tự rèn
luyện trong mơi trường cách mạng quần chúng gian khổ.
Tri thức tài năng của nguồn nhân lực chất lượng cao này bắt nguồn từ
thực tiễn mà quần chúng nhân dân lại là chủ thể của thực tiễn xã hội. Do đó,

quần chúng nhân dân là cơ sở để trí thức, nhân tài ra đời và tồn tại. Sự trưởng
thành của trí thức và nhân tài, dù là nhân tài kiệt xuất, nhân tài vĩ đại, đều
không tách rời khỏi kinh nghiệm thực tiễn xã hội, trí tuệ và lực lượng của
quần chúng, khơng tách rời sự nuôi dưỡng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người học trị xuất sắc của chủ nghĩa Mác Lênin, từ sớm đã nắm bắt được quy luật đó. Người tường nói: “một giây,
một phút cũng khơng thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng” 1. Hồ
Chí Minh ln xem trọng sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân. Người
chỉ rõ nhân dân Việt Nam khơng chỉ cần cù chịu khó mà cịn thông minh
sáng tạo, “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề đơn giản mau chóng đầy
đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng trí thức, nhân tài – nguồn nhân lực
chất lượng cao phải luôn gắn bó với quần chúng nhân dân, khơng thể tách
rời họ. Nguồn nhân lực chất lượng cao muốn phát huy hết tài năng, muốn
rèn luyện bồi dưỡng cho khả năng của mình thì phải đi sâu vào phong trào
quần chúng, lắng nghe ý kiến nhân dân, nắm vững tâm tư nguyện vọng và
điều quan trọng là phải học hỏi nhân dân. Nếu có ý thức tìm hiểu nghiêm
1

Hồ Chí MINH: Tồn tập, tập 5. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 693.

19


túc với tinh thần cầu thị thì qua các phong trào quần chúng và các cuộc tiếp
xúc với nhân dân mỗi một trí thức, nhân tài sẽ có thêm kinh nghiệm và sự
hiểu biết. Cách học từ nhân dân là cách học tốt nhất để bồi đắp thêm tài
năng lực, phẩm chất của mình.
Và cũng theo quan niệm của Hồ Chí Minh người tài phải học hỏi quần
chúng đồng thời phải ra sức phục vụ quần chúng. Người xem nguồn nhân lực
chất lượng cao - người cán bộ giỏi là “công bộc”, là “người đầy tớ trung thành

của nhân dân”, và “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại
đến dân ta phải hết sức tránh. Ta phải u dân, kính dân thì dân mới yêu ta
kính ta”1.
Như vậy, Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực
chất lượng cao, trước hết là những người lao động có nhân cách phát triển
tồn diện, vừa hồng, vừa chun- vừa có đức, vừa có tài; trong đó, đức là
gốc, là mục tiêu cao đẹp. Đức và tài gắn bó chặt chẽ với nhau để tạo nên
nguồn nhân lực chất lượng cao. Khi người cán bộ đưa tài năng của mình hết
lịng, hết sức phụng sự tổ quốc , phục vụ nhân dân, tức là có đạo đức cao cả
- đạo đức cách mạng.
Đánh giá cao vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao, Hồ Chí Minh
ln nhấn mạnh về sử dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao.
1.3 Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao từ xưa đến nay vẫn là mối
quan tâm của toàn xã hội. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh, chỉ có sử dụng
tốt nguồn nhân lực chất lượng cao thì đất nước mới thịnh vượng. Thời vua Lê
Lợi, Nguyễn Trãi viết “Chiếu cầu hiền tài”. Chiếu hạ lệnh cho các quan từ
tam phẩm trở lên đều phải tiến cử một người có đức, có tài, ai tiến cử đúng
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 56-57.

20


×