Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

TIỂU LUẬN NHẬP MÔN NĂNG LỰC THÔNG TIN CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC GIỮA HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.1 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
--------------

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
HỌC PHẦN: NHẬP MƠN NĂNG LỰC THÔNG TIN
ĐỀ TÀI
CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC
GIỮA HOA KỲ VÀ TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Hà Nội, tháng 8/2021


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển Đông từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng đối với sự phát triển của các nước
trong khu vực, bởi vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên phong phú của nó. Những năm
gần đây vấn đề Biển Đơng liên tục nóng lên bởi những hành động diễn tập quân sự đơn
phương, cải tạo đảo đá, xây dựng hệ thống cơng trình quân sự, bố trí hỏa lực trên các cấu
trúc đảo nhân tạo. Những hành động này đã biến Biển Đông trở thành một trong những
điểm nóng, tiêu điểm cạnh tranh chiến lược trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trong suốt thế kỷ XX, vấn đề Biển Đông vốn dĩ chỉ là các tranh chấp giữa những nước
ven Biển Đông đối với việc sở hữu các đảo, bãi đá ngầm, bãi bồi và phân chia vùng biển,
trong đó vấn đề cốt lõi là tranh chấp chủ quyền và tranh giành tài nguyên. Tuy nhiên,
trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, vấn đề tranh chấp đã biến chuyển thành nấc thang
mới khi các cấu trúc địa lý ở quần đảo Hoàng Sa và 7 đảo đá ở quần đảo Trường Sa đã


được Trung Quốc tôn tạo thành các cứ điểm quân sự tiền duyên có tầm quan trọng về
chiến lược.
Cùng với sự can dự của một số nước lớn ngồi khu vực, vấn đề Biển Đơng ngày
càng thể hiện xu hướng quốc tế hóa, vấn đề tranh cãi cũng theo đó ngày càng mở rộng từ
tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, bãi đá ngầm, vùng biển lúc ban đầu đến các vấn đề
ngoài chủ quyền như khai thác biển, an ninh hàng hải, cạnh tranh địa lý và cuộc đấu ngoại
giao giữa các nước lớn. Trong bối cảnh đó, nguy cơ - Biển Đơng trở thành nội dung để
các nước lớn mặc cả, thỏa hiệp với nhau cũng tăng lên.
Tranh chấp Biển Đông đang là một vấn đề quốc tế nóng bỏng, thu hút sự quan tâm
và tham gia ở nhiều cấp độ của tất cả các cường quốc trên thế giới. Chính điều này đã
định hình nên một cục diện chính trị mới trên Biển Đơng, mà tại đó, các cường quốc, với
các tính tốn khác nhau về lợi ích sẽ hoạch định và triển khai những chiến lược vừa mang
tính dài hơi vừa có sự thay đổi linh hoạt, phù hợp với động thái của các nhân tố liên quan.
Trong các chủ thể quốc tế can dự vào vấn đề Biển Đông, Mỹ và Trung Quốc là 2 chủ thể
có ảnh hưởng lớn nhất, đóng vai trị nhất định làm thay đổi cục diện chính trị Biển Đông.

3


Nhận thấy được tầm quan trọng đặc biệt của 2 chủ thể trên với cục diện chính trị ở
Biển Đơng. Nhiên cứu về đề tài: “Cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ở
Biển Đơng” - nhằm góp phần cung cấp cái nhìn tồn diện về những toan tính chính trị,
giằng xé lợi ích, cạnh tranh quyền lực ở Biển Đông của hai quốc gia Mỹ và Trung Quốc
trong bối cảnh lịch sử mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, về các cơng trình nghiên cứu cạnh tranh chiến lược ở Biển Đông: Cuốn
sách “Cục diện châu Á – Thái Bình Dương” của tác giả Dương Phú Hiệp và Vũ Văn Hà,
xuất bản năm 2006; Tập kỷ yếu “An ninh châu Á - Thái Bình Dương những năm đầu thế
kỷ XXI” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh biên tập năm 2008; Cuốn sách “Cục diện thế giới đến 2020” do Phạm Bình

Minh chủ biên, xuất bản năm 2010; Cuốn sách “Các cường quốc và đại chiến lược – Ván
bài mới trên Biển Đông” (Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South
China Sea), do tác giả Anders Corr làm chủ biên, xuất bản năm 2018 bởi Nhà xuất bản
Học viện Hải quân (Naval Institute Presss), Maryland, Mỹ; cuốn sách “Lửa ở trên nước”
(Fire on the Water: China, America, and the Future of the Pacific, Appapolis (MD), do tác
giả Robert Haddick chủ biên, xuất bản năm 2017 bởi Nhà xuất bản Học viện Hải quân
(Naval Institute Presss), Maryland, Mỹ; cơng trình “Institutional Balancing and
International Relations Theory: Economic Interdependence and Balance of Power
Strategies in Southeast Asia” (Cân bằng thể chế và lý thuyết quan hệ quốc tế: sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế và các chiến lược cân bằng quyền lực tại Đông Nam Á), tác giả
Kai He xuất bản năm 2008 trên tạp chí European Journal of International Relations (Tạp
chí châu Âu về Quan hệ quốc tế).
Thứ hai, về các cơng trình về chiến lược của Mỹ; của Trung Quốc ở Biển Đông:
cuốn sách “Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, tác
giả Vũ Dương Huân; cuốn sách “Quan hệ Trung Quốc – ASEAN – Nhật Bản trong bối
cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam” của tác giả Vũ Văn Hà chủ biên, xuất bản
năm 2007; cuốn sách “Châu Á – Thái Bình Dương trong chính sách đối ngoại của Mỹ,
Nhật Bản và Trung Quốc”, tác giả Ngơ Xn Bình, xuất bản năm 2008; Tập kỷ yếu “Biển
Đơng: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” qua các năm 2009 đến 2019;
4


Thứ ba, về các cơng trình nghiên cứu về cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ở
Biển Đông: cuốn sách “Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số nước
lớn hiện nay”, do Nguyễn Hoàng Giáp làm chủ biên, xuất bản năm 2013; Cuốn sách
“Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới”, do Phạm Bình Minh
chủ biên, xuất bản năm 2011; cuốn sách “Biển Đông: Cuộc chiến Quyền lực ở Châu Á”
(The south China sea: The struggle for power in Asia), do tác giả Bill Hayton, bài viết của
ông được đăng trên trang Asia Sentinel, vào năm 2013; Cuốn sách“Chảo dầu Châu Á:
Biển Đông và sự kết thúc một khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ổn định” (Asia’s

Cauldron: the South China Sea and the End of a Stable Asia - Pacific) của Robert Kaplan.
3. Mục đích, và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là làm rõ cạnh tranh chiến lược giữa hai chủ thể Trung Quốc và
Hoa Kỳ ở Biển Đông Việt Nam
Để thực hiện những mục đích trên, đề tài đặt ra một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích những lợi ích, toan tính của 2 chủ thể Trung Quốc và Mỹ đang tìm
kiếm, kiến tạo, cũng như cơ cấu và sự tương tác quyền lực giữa hai chủ thể này ở biển
Đông.
- Nhận định về tình hình ở biển Đơng dưới sự tác động của Trung Quốc và Mỹ
trong tương lai. Theo đó tập trung phân tích tác động của hai chủ thể Trung Quốc và Mỹ
với Việt Nam trong giải quyết vấn đề Biển Đông, cuối cùng đưa ra một số khuyến nghị
cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các vấn đề trên Biển Đông; các chiến lược
của hai chủ thể Trung Quốc và Mỹ trong lợi ích địa chính trị, địa chiến lược ở Biển Đơng
Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Đề tài này, tiếp cận Biển Đông ở những vấn đề về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ,
tranh chấp các vùng biển và vấn đề tự do hằng hải, hàng không.
5


Các cạnh tranh chiến lược thường được các chủ thể thể hiện trên nhiều khía cạnh,
lĩnh vực như: ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội,…Ở đề tài này, nghiên cứu chúng tơi tập
trung vào những lợi ích quốc gia cơ bản, các chính sách, hành động trên các lĩnh vực kinh
tế, quân sự, ngoại giao của các chủ thể kể trên.
- Về khơng gian:
Bao gồm tồn bộ Biển Đơng và các nước có liên quan (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Việt

Nam, Philippin, Malaixia, Nhật Bản, Hàn Quốc,…)
- Về thời gian:
Đề tài nghiên cứu từ năm 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận cơ bản kết hợp với
việc vận dụng chủ nghĩa hiện thực trong nghiên cứu quốc tế để phân tích, làm rõ cạnh
tranh chiến lược Biển Đông của hai nước Trung quốc và Hoa Kỳ. Các quan điểm đánh giá
tình hình quốc tế và khu vực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các văn kiện đại hội
được coi là căn cứ lý luận, định hướng cho tư tương trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu, vì đối tượng của bài nghiên cứu là một vấn đề chính
trị mang tính lịch sử sâu sắc, nên các phương pháp nghiên cứu khoa học chính trị và lịch
sử sẽ là những phương pháp quan trọng. Các phương pháp khác như phương pháp tổng
hợp, thống kê, hệ thống, mô tả, so sánh được sử dụng ở mức độ khác nhau hỗ trợ cho các
phương pháp chủ yếu nêu trên.

6


7


Chương 1.
THỰC TIỄN VỀ BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG
1.1. Thực tiễn về Biển Đơng
1.1.1. Khái qt về Biển Đơng
Về vị trí địa lý
Biển Đông là vùng biển được Việt Nam đặt tên đã có từ rất lâu trong lịch sử, cịn
gọi theo tên tiếng Anh là The South China Sea và tiếng Pháp Mer de Chine Méridionale.
Đây là một biển nửa kín, nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương, có diện tích khoảng 3,5 triệu

km vng, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đơng.
Ngồi Việt Nam, Biển Đơng được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippines,
Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Theo ước tính sơ bộ,
Biển Đơng có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các
nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong
khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Về Tài ngun thiên nhiên
Biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho
đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên
sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về
bảo vệ môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải
sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và
Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới. Biển Đông được
coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa
có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney - Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái,
Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước
trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc,
Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan… trong đó Indonesia là thành viên của
OPEC. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển
8


vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Cơn Sơn được đánh giá có
triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự
báo địa chất về dầu khí của tồn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi,
trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét
khối [37].
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở
Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của
Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đơng khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu

tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai
thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vịng 15 - 20 năm tới [9]. Các
khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản
lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái
Lan và Malaysia. Ngồi ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hồng Sa và
Trường Sa cịn chứa đựng tài ngun khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài ngun này
trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay
thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là
một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Về lưu thơng hàng hải
Biển Đơng có tầm quan trọng, mang ý nghĩa địa chính trị rất to lớn. Biển Đông
nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ
Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Năm trong số mười tuyến đường biển
thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ
qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân;
tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi
Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam
Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày
9


có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đơng, trong đó có khoảng 50% là tàu có
trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực
Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất
thế giới là cảng Singapore và Hồng Kong. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày
càng gia tăng ở khu vực. Nhiều nước ở khu vực Đơng Á có nền kinh tế phụ thuộc sống
còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung
Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại

từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90%
lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải
đi qua vùng Biển Đơng [7].
Lượng dầu lửa và khí hố lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần
lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đơng có những eo biển quan
trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu
vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca
là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Hàng năm có khoảng
70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của
Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải
và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận
chuyển bằng đường biển qua Biển Đông [8]
1.1.2. Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tranh chấp các vùng biển
Các vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, tranh chấp các vùng biển tại Biển Đông
vốn đã xảy ra trong một khoảng thời gian dài, đặc biệt là giữa các bên có yêu sách ở khu
vực này. Gần đây, những vấn đề trên trở nên phức tạp hơn do những tính tốn chiến lược
khơng chỉ của các bên có tranh chấp, mà cịn của cả các nước lớn bên ngồi khu vực. Biển
Đơng có 4 nhóm đảo, gồm quần đảo Đơng Sa, quần đảo Hồng Sa, bãi Trung Sa và quần
đảo Trường Sa. Hiện khu vực Biển Đông đang tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu: tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa; và tranh
chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện
hoặc liền kề. Hai loại tranh chấp này được hình thành vào các thời điểm khác nhau, có nội
10


dung, mức độ khác nhau và diễn ra trên những phạm vi đại lý có liên quan đến các bên
tranh chấp cũng khác nhau. Điển hình là tranh chấp trên quần đảo Trường Sa có mặt lực
lượng của 4 nước 5 bên và yêu sách chủ quyền có 5 nước 6 bên, cụ thể như sau:
- Việt Nam: Thực hiện chủ quyền ở 21 đảo: gồm 9 đảo nổi, 12 đảo đá ngầm với 33
điểm đóng quân (9 đảo nổi: Đảo Trường Sa, Trường Sa Đông, An Bang, Sinh Tồn Đông,

Phan Vinh, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca). 12 đảo đá ngầm: Đá Nam, Đá
Lớn, Đá Đông, Đá Tây, Đá Thị, Thuyền Chài, Cô Lin, Len Đào, Tiên Nữ, Núi Le, Tốc
Tan).Và nắm giữ các đảo, các bãi cát ven đó khơng có người những đã nằm trong tầm
kiểm soát của Việt Nam.
- Trung Quốc: Đánh chiếm 7 đảo đá: Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma, Xubi, Huy
Gơ, Ga Ven năm 1988, và tháng 1/1995 đánh chiếm bãi đá Vành Khăn.
- Đài Loan: Chiếm đóng đảo Ba Bình năm 1956, cắm mốc bãi cạn Bàn Than năm
2005.
- Philippines: Chiếm đóng 9 đảo: Song Tử Đơng, Thị Thứ, Đảo Dừa, Loại Ta, Loại
Ta Tây, Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, Cơng Do, bãi cạn Cỏ Mây.
- Malaysia: Chiếm đóng 7 đảo: Lusia, Sắc Lốt, Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ Vân, Én
Ca, Thám Hiểm.
Xung đột, mâu thuẫn ở Biển Đông xoay quanh việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ,
quyền tài phán của các quốc gia ven biển đối với các vùng biển, vùng đất liền dưới đáy
biển, các đảo và quần đảo, vùng trời trên Biển Đông; tranh giành quyền được thăm dị,
khai thác nguồn lợi kinh tế: dầu mỏ, khí đốt, khống sản, thủy sản,..; và đồng thời cịn là
sự cạnh tranh quyền lực giữa các quốc gia, các cường quốc, các chủ thể quan tâm đến
biển Đông [30].

Bảng 1.1: Các tầng xung đột ở Biển Đơng

Tần
g
trên
Tần
g
dưới

Chủ thể chính
-Trung Quốc và Mỹ

-Văn minh Trung Hoa và văn minh
11
phương Tây (Mỹ và các đồng minh)
5 nước – 6 bên: Trung Quốc, Việt
Nam, Philippines, Đài Loan, Brunay,
Malayxia

Loại xung đột chính
-Xung đột quyền lực: tranh giành
khu vực ảnh hưởng và ưu thế thống
trị (bá chủ)
-Xung đột lãnh thổ
-Xung đột lợi ích kinh tế (tài nguyên
biển, giao thông hằng hải, vùng biển)


Thời gian gần đây, quan hệ Trung Quốc – Mỹ về vấn đề biển Đơng có nhiều thay
đổi, trong thời gian cịn cầm quyền, Obama và chính quyền của ơng dường như đang sử
dụng nhiều kênh ngoại giao đa phương hơn để lên án Trung Quốc; tiếp đến là thời kì cầm
quyền của Donal Trump và Joe Biden đã có những động thái mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn
đối với Trung Quốc và hành động của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương, cịn
Trung Quốc vẫn duy trì các u sách trên Biển Đơng, thậm chí cịn mạnh mẽ và rõ ràng
hơn. Sau một thời gian dài im lặng, Nga đã thể hiện vai trò trung lập khi ủng hộ các giải
pháp hịa bình và khơng quốc tế hóa tranh chấp biển Đơng. Ở Đài Loan, chính quyền do
bà Thái Anh Văn lãnh đạo cho thấy những động thái mềm dẻo hơn, mặc dù vẫn duy trì
yêu sách đối với đảo Ba Bình (hịn đảo mà Đài Loan chiến đóng bất hợp pháp thuộc chủ
quyền của Việt Nam).
Trung Quốc tiếp tục trở thành trung tâm của xung đột trên Biển Đông. Bắc Kinh đã
đẩy mạnh hơn bao giờ hết các chiến lược nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra toàn châu
Á. Bằng việc triển khai kết hợp các phương thức khác nhau, Trung Quốc tìm cách cân

bằng lợi ích với Mỹ, kiềm chế Nhật và Hàn Quốc, giữ ASEAN trong vịng ảnh hưởng, lơi
kéo Nga can dự, đồng thời hạn chế tối đa tác động cộng hưởng từ nhiều điểm nóng, tiếp
tục kiểm sốt tranh chấp Biển Đông để tránh các hệ lụy bất lợi cho các mục tiêu chiến
lược mà Trung Quốc đã đặt ra [5]. Các động thái gần đây của nước này tập trung việc
biến các đảo ở Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam) thành các căn cứ quân sự - nơi
Trung Quốc có thể mở rộng khả năng tấn cơng hoặc ngăn chặn từ xa các mối đe dọa.
Về phía Mỹ, thời còn đương nhiệm, Obama bị chi phối bởi quá nhiều mục tiêu,
trong bối cảnh chiến lược tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương đang vấp phải sự nghi
ngờ, Oasinhton hoàn toàn nhận thức được rằng việc ngăn chặn Trung Quốc gia tăng sức
mạnh và ảnh hưởng ra khu vực là điều cần phải thực hiện, song việc cân nhắc các lợi ích
ở khu vực với lợi ích Trung Quốc và Mỹ khiến Nhà Trắng có phần thiếu quyết đốn và
thiếu linh hoạt. Mỹ vẫn đóng vai trị cân bằng sức mạnh với Trung Quốc ở châu Á – Thái
Bình Dương, tuy nhiên trong một số vấn đề cụ thể, như xung đột Biển Đông, họ đã lựa
chọn giải pháp thận trọng và chắc chắc hơn, thay sử dụng sức mạnh quân sự có thể làm
gia tăng căng thẳng. Chính quyền Obama đã thúc đẩy các cơ chế đa phương nhằm giải
quyết xung đột ở biển Đông, duy trì trạng thái hịa bình, đảm bảo tự do hằng hải. Một
12


trong những giải pháp như vậy là thúc đẩy các nước Đông Nam Á liên kết lại với nhau để
chống lại Trung Quốc trên bàn ngoại giao, trong chừng mực nhất định có thể hình thành
một liên minh pháp lý được Mỹ hỗ trợ. Song, chiến lược của Mỹ ở Biển Đông chưa thực
sự rõ ràng và không phải trọng tâm trong vấn đề châu Á – Thái Bình Dương của chính
quyền Obama.
1.1.3. Vấn đề về tự do hàng hải, hàng khơng
Trước tình hình các mâu thuẫn, căng thẳng leo thang xoay quanh các yêu sách chủ
quyền của các quốc gia ven Biển Đông, đặc biệt là các động thái hung hăng, quyết đoán
của Trung Quốc trong thời gian những năm gần đây, đã đe dọa nghiệm trong đến môi
trường hịa bình, ổn định của khu vực, trong đó có vấn đề tự do hàng hải, hàng không.
Như đã phân tích, Biển Đơng là một vùng biển có vị trí chiến lược. Vùng Biển Đông nằm

trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương,
Châu Âu – Châu Á, Trung Đông – Châu Á. Nằm trong số mười tuyến đường biển thông
thường lớn nhất thế giới. Năm trong số mười tuyến đường biển thơng thương lớn nhất
trên thế giới. Mỗi ngày có hàng ngàn chuyến tàu và cả các chuyến bay cả dân sự và quân
sự đi qua vùng biển này.
Tuy nhiên, trong một khu vực biển đang có nhiều yêu sách chủ quyền, tranh chấp
giữa các quốc gia, không ai biết trước được điều gì có thể xảy ra. Đây là mối quan tâm
thậm chí là nỗi sợ lớn nhất của các quốc gia có tàu thường xuyên đi qua hoặc phụ thuộc
lớn vào các tuyến hàng hải đi qua vùng biển này. Trong đó, quốc gia quan tâm nhất, có
tiếng nói mạnh mẽ nhất đối với vấn đề tự do hàng hải, hàng khơng trên Biển Đơng chính
là Mỹ. Nếu xung đột, thậm chí là chiến tranh xảy ra trên Biển Đơng, những lợi ích của
Mỹ ở khu vực này sẽ bị ảnh hưởng. Một mối lo ngại đối với an ninh hàng hải tại khu vực
Biển Đơng đó chính là các yêu sách chủ quyền quá mức trên biển, gây bất ổn trong khu
vực. Trong đó, u sách “đường chính đoạn” hình lưỡi bị của Trung Quốc được xem là
mối đe dọa lớn nhất. Đường yêu sách này của Trung Quốc chiến 80% diện tích của biển
Đơng. Một sự hợp tác về an ninh hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc với Mỹ, Nhật và
ASEAN sẽ là lý tưởng cho sự ổn định và phồn thịnh của khu vực. Nhưng việc biến vùng
biển quốc tế đó thành lãnh hải thuộc địa phận Trung Quốc, lại là một bảo đảm an ninh
hơn cho Trung Quốc, với cái giá là chủ quyền của các nước nhỏ hơn trong khu vực bị
13


xâm hại. Nói khác đi, chúng ta đang chứng kiến một tiến trình mà Trung Quốc đang tìm
cách chèn ép các nước nhỏ để vẽ lại bản đồ khu vực [11].
Đơng Nam Á trở thành điểm nóng của thế giới về nạn cướp biển và cướp có trang
bị vũ khí. Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công
khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Theo số liệu của IMB cho
thấy Đông Nam Á chiếm 55% trong số 54 vụ cướp biển trên thế giới kể từ đầu năm 2016.
Ngân hàng Thế giới đánh giá cướp biển gây thiệt hại cho kinh tế toàn cầu mỗi năm
khoảng 18 tỉ đô la, riêng khu vực Đông Nam Á thiệt hại lên đến 8,4 tỉ đô la mỗi năm [27].

Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản. Biển
Đơng cịn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đơng. Vì vậy, việc
Biển Đơng bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
1.2. Các nhân tố tác động đến cạnh tranh chiến lược của các chủ thể
1.2.1. Thay đổi cán cân quyền lực thế giới
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đầu thập niên
90 của thế kỉ XX làm cho cục diện thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách cơ bản.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thối trào, phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế
bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện. Cơ cấu địa chính trị và sự phân bố quyền lực tồn cầu
bị đảo lộn, cán cân so sánh lực lượng trên thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư
bản. Sau gần nửa thế kỉ tồn tại kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới hai
cực chấm dứt, các chủ thể quốc tế đang chuyển mạnh mẽ từ chạy đua vũ trang, quân sự,
tranh giành những khoảng trống quyền lực sang cạnh tranh về kinh tế, chiếm lĩnh thị
trường. Phương thức tập hợp lực lượng trong quan hệ hợp tác đấu tranh, hợp tác cạnh
tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày
càng tăng. Q trình đó chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đốn định, trong đó nổi lên
hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Mỹ tham vọng lập lại trật tự thế giới đơn cực, trong
khi Nga, Trung Quốc và một số nước lớn khác đấu tranh cho trật tự thế giới đa cực.
14


Tồn cầu hóa là xu thế vận động mang tính hệ thống và khách quan của thế giới
trên phạm vi tồn cầu, nó bao trùm tất cả các mặt đời sống kinh tế - xã hội của các quốc
gia trên thế giới. Trục cốt lõi của xu thế toàn cầu hóa đa diện này là tồn cầu hóa về kinh
tế, đang diễn ra mạnh mẽ trên các lĩnh vực sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính…Nền
sản xuất trên thế giới ngày càng mang tính tồn cầu với sự phân cơng lao động quốc tế
hiện đại, tính tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên. Thời gian tới - thời kỳ
hậu Covid, sự chuyển dịch tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu lại trở nên hết sức mạnh
mẽ, đây là thời cơ cũng như thách thức đối với Việt Nam trong việc giành lấy những cơ

hội vàng để phát triển. Theo một số nhà nghiên cứu, tồn cầu hóa có những tác động rất
lớn đối với hệ thống quan hệ quốc tế, như sự biến dạng của các tác nhân trong hệ thống,
trước hết là chủ quyền của nhà nước dân tộc; sự biến đổi mang tính tương phản của các
quan hệ trong hệ thống, vừa gia tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, vừa khơi dậy tính tự quyết
dân tộc. Tồn cầu hóa cũng hàm ý về sự “hình thành nên một trật tự thế giới phụ thuộc lẫn
nhau của các quan hệ siêu quốc tế và xuyên quốc gia [26]. Qua đó tác động mạnh mẽ đến
xu hướng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, làm xuất hiện những hình thái mới, tập
hợp lực lượng mới, đa sắc đa tầng hơn.
1.2.2. Thay đổi tương quan sức mạnh Hoa Kỳ và Trung Quốc
Quốc gia dân tộc (nation-state) – hay quốc gia – tiếp tục là chủ thể cơ bản và quan
trọng nhất của nền chính trị thế giới. Đây là lực lượng truyền thống tác động đến cục diện
chính trị quốc tế. Chủ thể quốc gia thường đi kèm với phạm trù lợi ích dân tộc. Trên chính
trường quốc tế từ hàng nghìn năm nay, các quốc gia vẫn ln sử dụng “lợi ích dân tộc” để
hợp lí hóa và hợp pháp hóa mọi hành động của mình. Theo đó chủ thể chính trị quốc tế
nào cũng có lợi ích riêng, đối với chủ thể quốc gia, lợi ích của nó chính là lợi ích của cả
dân tộc mà nhà nước là kẻ đại diện cho dân tộc ấy và phải có trách nhiệm kiếm tìm, duy
trì và phát triển các lợi ích mà người dân đòi hỏi [22]. Dưới tác động của quy luật phát
triển không đều giữa các quốc gia, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước liên tục
thay đổi. Tương quan sức mạnh kinh tế thay đổi sẽ đưa đến những thay đổi về tương quan
sức mạnh tổng thể của quốc gia, bao hàm cả chính trị và quân sự. Nếu tương quan lực
lượng thay đổi theo hướng tăng cường sức mạnh tương đối của một nước hoặc một nhóm
nước đang giữ vai trò chi phối trật tự thế giới thì cục diện thế giới vẫn thay đổi nhưng ít
15


xảy ra xáo trộn lớn. Còn nếu, sự thay đổi xảy ra theo hướng một số nước đang phát triển
có điều kiện thay đổi sức mạnh kinh tế cũng như sức mạnh tổng thể ngày một mạnh lên,
thì cục diện thế giới sẽ vận động theo hướng vừa đấu tranh vừa thoả hiệp để tiến tới một
trật tự thế giới mới cơng bằng và bình đẳng phù hợp với lợi ích của các trung tâm quyền
lực mới nổi.

Trung Quốc đang trỗi dậy trở lại một cách đầy mạnh mẽ, trở thành một trong
những nền kinh có tốc độ tăng trưởng hàng đầu khu vực với mức tăng trưởng liên tục trên
10% [19]. Sau khủng hoảng kinh tế 2008, địa vị kinh tế Trung Quốc được nâng cao với
GDP đứng thứ 2 trên thế giới sau Hoa Kỳ. Bên cạnh đó sức mạnh quân sự của Trung
Quốc được gia tăng và được hiện đại hóa một cách nhanh chóng, với sự đầu tư mạnh tay
từ chính quyền Trung Quốc, phản ánh tham vọng của họ về một “quân đội đẳng cấp thế
giới”.
1.2.3. Sự chuyển dich trọng tâm của thế giới sang khu vực châu Á – Thái Bình
Dương
Với đặc điểm địa lý, quy mô và tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, châu Á – Thái
Bình Dương đang xem là khu vực năng động nhất thế giới hiện nay. Hiện khu vực này
chiếm khoảng 40% diện tích lãnh thổ, 41% dân số, tập trung 65% nguồn nguyên liệu toàn
cầu và có nhiều tuyến đường giao thơng biển quan trọng [12] Hiện nay, khu vực này tập
trung 10 trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới, chiếm 61% GDP, 47% tổng thương mại
quốc tế và 48% nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới, chiếm 30% tổng kim
ngạch xuất khẩu toàn cầu, dự trữ ngoại hối chiếm 2/3, quy mơ kinh tế chiếm hơn một nửa,
đóng 40% tăng trưởng tồn cầu [31].
Có thể thấy rằng, hơn bao giờ hết, khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện nay
đang tập trong rất nhiều mối quan tâm của các cường quốc khơng chỉ bởi lợi ích tiềm
năng về kinh tế, mà còn cả đối với các vấn đề nổi cộm xoay quanh cạnh tranh chiến lược
tại khu vực này. Bởi vậy, vấn đề cạnh tranh Mỹ - Trung trên thực tế bị tác động rất nhiều
bởi nhân tố khác bên ngoài, và điều này chắc chắn sẽ tác động rất nhiều bởi nhân tố khác
bên ngoài, thúc đẩy cạnh tranh trở thành những hình thái mới, đa tầng, lôi kéo nhiều quốc
gia tham gia.
16


1.2.4. Mâu thuẫn trong nội bộ các nước ASEAN
Khu vực Đông Nam Á vẫn là khu vực phát triển năng động, xu thế hịa bình, hợp
tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng cũng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn

định như: tranh chấp ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới lãnh thổ, biển đảo tài nguyên
giữa các nước, những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước vẫn còn tiếp diễn.
Các nước ASEAN tự hào về phong cách riêng của mình (ASEAN Way), như ngun tắc
đồng thuận, khơng can thiệp vào nội bộ của nhau, và hợp tác tự nguyện. Tuy điều đó giúp
các nước ASEAN gắn kết nhưng cũng bộc lộ các điểm yếu cơ bản, làm vô hiệu hóa khả
năng của ASEAN đối phó với các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đông và ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa các đảo họ chiếm đóng. Giới quan sát cho
rằng các diễn đàn ASEAN chỉ là nơi “tranh cãi” (talk shops) mà không thực sự hiệu quả
về mặt hành động, chính điều này đã gây trở lực rất lớn cho ASEAN trong giải quyết vấn
đề Biển Đông.
Trong khi Việt Nam và Philippines mạnh mẽ ủng hộ một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông, thì Trung Quốc ln tìm cách trì hỗn và giữ lập trường chỉ đàm phán song phương
với từng nước trong vấn đề Biển Đông. Hơn nữa giữa các thành viên của ASEAN là
Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam không chỉ có yêu sách lãnh thổ chồng lấn với
Trung Quốc, mà có cả yêu sách chồng lấn nhau và cho đến nay chưa có được tiếng nói
chung về vấn đề Biển Đơng, chính điều này đã gây trở lực rất lớn cho ASEAN. Do đó,
cho đến nay bản thân các nước ASEAN vẫn không thể đưa ra một lập trường nào rõ ràng
để phản bác những yêu sách vô lý của Trung Quốc đưa ra. Bên cạnh đó, một số nước có
u sách vừa phải tại Biển Đơng như Malaysia và Brunei dường như chỉ muốn sử dụng
vấn đề Biển Đông để “mặc cả” các lợi ích về kinh tế với Trung Quốc hoặc Mỹ hơn là
cùng ASEAN để tìm ra một cơ chế giải quyết tranh chấp một các hiệu quả, thực chất.
Ngồi ra, các các quốc gia khơng có yêu sách, mang quan điểm trung lập như Singapore
và Indonesia, họ không ủng hộ yêu sách của bất cứ bên nào. Còn 4 quốc gia Lào,
Myanmar, Thái Lan và đặc biệt là Campuchia không muốn tổn hại đến mối quan hệ với
Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ kinh tế, với chương trình “vành đai con đường” mà
Trung Quốc khởi xướng, với hứa hẹn đem lại sự thịnh vượng chung cho các thành viên
tham gia.
17



Sự chậm trễ của ASEAN trong việc đưa ra quan điểm chính thức về các tranh chấp
yêu sách ở Biển Đông là lý do để Mỹ và Trung quốc luôn cố gắng lôi kéo các thành viên
ASEAN vào tầm ảnh hưởng của mình trong cạnh tranh chiến lược tại Biển Đơng. Điều đó
được thể hiện thơng qua các chính sách ưu đãi về kinh tế, ngoại giao và tăng cường hợp
tác về các lĩnh vực như văn hóa, xã hội, trong đó hợp tác kinh rế là một khía cạnh và là
nhân tố quan trọng của quan hệ đối tác của cả Mỹ và Trung Quốc với khu vực này [18].
Trung Quốc đã thúc đẩy việc thông qua các kế hoạch chiến lược hợp tác với ASEAN như
Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2025 (MPAC 2025) và Sáng kiến Vành đai - Con
đường (BRI), ACFTA,...kèm theo đó là việc hình thành các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
mà Trung Quốc sẽ cấp vốn với hứa hẹn lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số
nước ASEAN có nguy cơ rơi vào bẫy nợ của Trung Quốc, khi mà tiến độ thi công kéo dài,
cộng với việc đội vốn làm cho gánh nặng nợ nần trở nên quá sức chịu đựng. Đặc biệt, đối
với Campuchia và Lào, Trung Quốc nắm giữ khoảng 50% tổng số nợ của hai nước này.

18


Chương 2.
MỸ - TRUNG CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC Ở BIỂN ĐÔNG
2.1. Tham vọng và hành động chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông
2.1.1. Tham vọng chiến lược
“Giấc mộng Trung Hoa”1, một khẩu hiệu của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình,
đã thu hút được sự chú ý trên tồn thế giới, đề cập đến nguyện vọng về “khôi phục chủ
nghĩa dân tộc và chủ nghĩa ái quốc Trung Quốc, giúp dân thấm nhuần lịng tự hào vì là
người Trung Quốc [44]. Có thể thấy, “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình là sự
kết hợp giữa thịnh vượng và quyền lực, chứa đựng khao khát mãnh liệt của hàng tỷ người
Trung Quốc: trở nên giàu có, hùng mạnh, và được tơn trọng. Tập Cận Bình nhấn mạnh
rằng: “Giấc mộng Trung Hoa” chỉ có thể đạt được thơng qua “Chủ nghĩa xã hội mang
đặc trưng của người Trung Quốc”. Xét trên bình diện quốc tế, “Giấc mộng Trung Hoa”
có thể được xem như là sự tiếp nối chiến lược “trỗi dậy hịa bình” của Trung Quốc, là

thành phần quan trọng trong chiến lược “quyền lực mềm” của Trung Quốc nhằm tìm cách
chống lại lý thuyết cho rằng Trung Quốc là mối đe dọa đối với hịa bình và an ninh khu
vực. Nội dung chính của chiến lược trỗi dậy hịa bình được gói gọn trong chính sách “An
sinh mới” của Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh “sự tin tưởng và hợp tác, và một trật tự
an ninh mới cần được thiết lập để đảm bảo thực sự tôn trọng lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau,
đồng thuận thông qua tham vấn và giải quyết hịa bình các tranh chấp, thay vì bắt nạt, đối
đầu và áp đặt ý chí của mình lên người khác” [39]. Chỉ trong cách đó, các quốc gia có thể
cùng tồn tại thân thiện và đảm bảo sự phát triển của họ. Tập Cận Bình từng nói rằng:
“Chúng tơi, những người Trung Quốc, u chuộng hịa bình. Cho dù có lớn mạnh đến
đâu, Trung Quốc sẽ khơng bao giờ tìm kiếm sự bá quyền hay bành trướng. Trung Quốc sẽ
không bao giờ gây ra đau khổ cho bất kỳ quốc gia nào khác” [42].
Trái ngược với tuyên bố trên, Trung Quốc đã chuyển từ chiến lược “giấu mình chờ
thời” của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình và chấp nhận cách tiếp cận chính sách đối ngoại
quyết đốn, đầy tham vọng.“Giấc mộng Trung Hoa” được thiết kế để xây dựng một nền
tảng vững chắc cho sự phát triển của một chiến lược ngoại giao đa phương diện, với mục
1 Tập Cận Bình thường xuyên gọi cụm từ này trong các sự kiện liên quan đến quân sự. Đối với một trang CCTV
dành cho chủ đề này, xem />
19


đích khơng chỉ thúc đẩy sự đổi mới của đất nước, mà còn tăng cường sự chú ý quốc tế về
tầm vóc, cũng như các “đặc tính mới của quan hệ quốc tế và sự tái định vị trong chiến
lược của Trung Quốc trong nền chính trị thế giới” [45] gắn liền với “khôi phục sự vĩ đại
của Trung Quốc”. Trong nhiều năm, thuật ngữ “khôi phục sự vĩ đại của Trung Quốc”
chính là cách nói tắt hữu ích để bao quát lịch sử hiện đại của Trung Quốc: từ một nạn
nhân nghèo, khơng có tiếng nói tiến lên thành một cường quốc tồn cầu giàu có, vững
mạnh và đầy kiêu hãnh; từ một vai phụ trên vũ đài thế giới trở thành một trong những bên
tham gia chính vượt trội1. Theo đó, các xung đột hay tranh chấp ở Biển Đông và biển
Đông Á những năm gần đây, theo Trung Quốc là một phần trong kế hoạch “giấc mộng
Trung Hoa”, với mong muốn là bảo vệ biên giới lãnh hải và an ninh khu vực, đặc biệt là

khu vực châu Á – Thái Bình Dương, khi mà các chủ thể bên ngoài khu vực đang gia tăng
ảnh hưởng ở khu vực truyền thống của Trung Quốc [13].
Trong quá trình thử thách giới hạn khả năng kiểm soát các thực thể trên biển và các
vùng biển tranh chấp thông qua sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng, Trung Quốc đang
cố gắng xây dựng một trật tự trên biển Đông Á và biển Đông lấy Trung Quốc làm trung
tâm. Việc Trung Quốc ráo riết cải tạo, bồi đắp các cấu trúc địa lý mà nước này đang
chiếm đóng ở Biển Đông trong thời gian gần đây rõ ràng nằm trong mục tiêu hiện thực
hóa tham vọng bá quyền trên biển của Trung Quốc đã khiến cả Châu Á giận dữ và phản
ứng gay gắt từ phía Mỹ. Trung Quốc đang áp dụng một chiến lược kết hợp giữa củng cố
sức mạnh hải quân và cân bằng lợi ích quốc gia: giữ cân bằng giữa việc khẳng định quyền
trở thành một cường quốc biển với việc hành động dựa trên tính toán thực dụng nhằm hợp
tác với các nước láng giềng và Mỹ duy trì ổn định khu vực.
Đầu tiên và rất rõ ràng, Trung Quốc muốn đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược
cường quốc biển với khâu đột phá trước hết là ở Biển Đông. Chiến lược cường quốc biển
của Trung Quốc được Trung Quốc chính thức đưa ra tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung
Quốc lần thứ 18 vào năm 2012. Một trong những mảng quan trọng trong chiến lược biển
đó là cần xây dựng những căn cứ quân sự trên biển, để Trung Quốc kiểm soát được khu
vực Biển Đông rộng lớn.
1 Thông tấn xã Việt Nam (2020), Đại chiến lược cho giấc mộng Trung Hoa, Tài liệu tham khảo đặc biệt, số 205,
ngày 6/8/2020, tr.8 – 16.

20


Thứ hai, Trung Quốc muốn từng bước khẳng định yêu sách “đường lưỡi bị” phi lý
của mình. Việc Trung Quốc gấp rút củng cố và mở rộng các điểm đóng qn là nhằm
chứng tỏ mình đang kiểm sốt thực tế các khu vực tranh chấp, tạo thuận lợi cho Trung
Quốc về dư luận và phần nào về pháp lý nhằm hợp thức hóa u sách đường lưỡi bị.
Thứ ba, Trung Quốc muốn tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực Biển
Đông để đối trọng với các hoạt động của Mỹ, uy hiếp các nước có yêu sách khác tại khu

vực này. Từ những căn cứ trên các cấu trúc địa lý được cải tạo, Trung Quốc có thể triển
khai nhanh chóng lực lượng giám sát, ngăn chặn sớm các hoạt động do thám của Mỹ,
đồng thời cũng có lợi thế triển khai lực lượng để chiếm các cấu trúc địa lý khác trong khu
vực quần đảo Trường Sa và khu vực lân cận cũng như khống chế tuyến hàng hải, hàng
khơng qua khu vực này. Việc kiểm sốt Biển Đơng đóng vai trị tiên quyết cho tương lai
phát triển và hiện đại hóa của hải quân, cũng như ngành hàng không vũ trụ của Trung
Quốc.
Thứ tư, Trung Quốc muốn tạo hiện trạng có lợi cho mình. Tiến trình xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử của các nước ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (COC) đang
được tiến hành nhưng hiện tại chưa có tiến triển nhiều. Do đó, Trung Quốc muốn tranh
thủ tạo ra hiện trạng mới ở Biển Đơng, tăng cường kiểm sốt thực tế trên thực địa, nhằm
giành lợi thế trong quá trình đàm phán COC cũng như các đàm phán song phương khác.
Điều 5 của Tuyên bố ứng xử của các nước ở Biển Đơng giữa ASEAN và Trung Quốc
năm 2002 (DOC) có quy định: “Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc
thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hịa
bình và sự ổn định, kiềm chế khơng tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hịn
đảo hiện khơng có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và
những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có
tính xây dựng” [24]. Tuy nhiên, các quy định của DOC lại khơng làm rõ tính ngun
trạng của tranh chấp dừng lại ở đâu, trong khi DOC lại là văn bản khơng có tính ràng
buộc.
Thứ năm, Trung Quốc muốn tạo ra một khu vực hợp tác kinh tế lấy Trung Quốc
làm trung tâm, với tham vọng thay thế vai trò của Mỹ trong khu vực châu Á – Thái Bình
21


Dương. Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là một biểu tượng mạnh mẽ cho sự trỗi
dậy của toàn cầu hóa dựa trên Trung Quốc.
2.1.2. Hành động chiến lược
Hành động chiến lược của Trung Quốc ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương là kết

quả của quá trình phục hồi quyền lực và ảnh hưởng mạnh mẽ đang diễn ra của Trung
Quốc ở Đông Á, từ quan điểm của Trung Quốc vị thế của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương
đang suy yếu1. Các hành động của Trung Quốc ở khu vực là nỗ lực nhằm đẩy nhanh quá
trình thối lui này, rõ ràng nhất là tại Biển Đơng. Trung Quốc từ lâu đã áp dụng cách tiếp
cận hai hướng. Một mặt, nước này liên tục tăng cường sự hiện diện và khả năng quân sự
của mình bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo và triển khai các tàu chấp pháp để khẳng
định các quyền và yêu sách hàng hải trong vùng biển tranh chấp. Mặt khác, nó đã tìm
cách thể hiện mình là một đối tác hợp tác của các bên tranh chấp Đông Nam Á.
Đầu tiên và rõ ràng nhất là về mặt quân sự, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng trái
phép các dự án lớn trên Biển Đông, đồng thời xây dựng thêm nhiều quân cảng, đường
băng, trạm radar, hải đăng và các cơ sở hỗ trợ khác 2, tất cả giúp gia tăng sự hiện diện của
tàu chiến và máy bay quân sự và cho phép Bắc Kinh có thể phủ sóng tồn bộ khu vực với
hệ thống radar cùng những trang thiết bị do thám khác. Từ năm 2014, Trung Quốc đã thực
hiện được nhiều hoạt động trên Biển Đông – xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo,
trang bị vững chắc về kinh tế và yêu sách chủ quyền lãnh thổ.
Năm 2019, Trung Quốc bước vào giai đoạn sử dụng một số đảo nhân tạo ở huyện
đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam nhằm phục vụ cho mục đích huấn luyện,
diễn tập quân sự, lắp đặt các thiết bị quân sự tiên tiến với hỏa lực mạnh. Trong đó đặc biệt
phải kể đến việc Trung Quốc nâng cấp cầu cảng ở đá Chữ Thập thành cảng cung ứng dịch
vụ hậu cần, quân sự. Trung Quốc cũng nhiều lần điều máy bay vận tải quân sự tới đá
Vành Khăn, lắp đặt thiết bị gây nhiễu tiên tiến trên đá Vành Khăn và đá Chữ Thập, triển
1 Graham Allison(2019), Định mệnh chiến tranh: Mỹ và Trung Quốc có thể thoát khỏi bẫy Thucydides?, Nxb. Hà
Nội, Hà Nội, tr. 231.
2 Derek Wathins (2015), What China Has Been Building in the South China Sea, New York Times,
truy cập ngày 22/02/2021.

22


khai tên lửa đối khơng cùng tên lửa hành trình diệt hạm trên một số đảo nhân tạo phi pháp

ở cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt
Nam1. Với những hành động kể trên, việc Trung Quốc đang làm là xây dựng một căn cứ
quân sự lợi hại, tăng khả năng mở rộng kiểm soát khu vực, và làm ảnh hưởng đến quyền
lợi các nước khác, càng đẩy tình hình trở nên phức tạp, khó đốn định. Viễn cảnh hai thập
kỷ tới là Trung Quốc sẽ rải đầy các căn cứ trên Biển Đơng để từ đó kiểm sốt chuỗi đảo
thứ nhất đẩy Mỹ ra khởi khu vực.
Thời gian tới, sau khi hoàn thành cải tạo các cấu trúc địa lý tại Biển Đơng, Trung
Quốc có thể sẽ tiếp tục các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thực thi mục tiêu
chiến lược kiểm sốt khu vực Biển Đơng. Một điều rất đáng quan ngại là Trung Quốc
đang tính tốn, thăm dị việc thiết lập vùng nhận diện phịng không ADIZ. ADIZ được đề
xuất bao trùm cả quần đảo Đơng Sa (Pratas) ở phía bắc Biển Đơng, và cả 2 quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam 2. Theo đó, việc các phương tiện hàng hải khi đi qua
vùng này thì phải xin phép Trung Quốc, nếu khơng sẽ bị bắt giữ, thậm chí là bị tấn cơng
với hỏa lực mạnh. Nếu tiến hành các hoạt động này, chắc chắn Trung Quốc sẽ vấp phải sự
phản đối và biện pháp đấu tranh quyết liệt hơn của Việt Nam cùng các nước có yêu sách
chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và phản ứng mạnh mẽ hơn nữa của cộng đồng
quốc tế.
Những hành động trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của
các bên liên quan đối với khu vực này này, vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm DOC, đơn
phương ngăn cấm quyền khai thác tài nguyên biển, hủy hoại môi trường, sinh thái biển,
làm phức tạp tình hình, đe dọa an ninh, an tồn hàng hải trên Biển Đơng, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới hịa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy, hành
động này của Trung Quốc đã phải đối mặt với sự phản đối quyết liệt của Việt Nam,
Philippines và phản ứng mạnh mẽ của ASEAN và cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước
lớn.
1 Nguyễn Thanh Minh (2020), Biển Đông năm 2019 và dự báo trong thời gian tới, Nghiên cứu Biển Đông,
/>Truy cập ngày 23/12/2020.
2 Vũ Hồng Lâm (2020), Will China Set Up an Air Defense Identification Zone in the South China Sea?,
Truy cập
ngày 25/10/2020.


23


Về mặt thúc đẩy hợp tác với các bên tranh chấp ở Đơng Nam Á, chính sách đối
ngoại của Trung Quốc cũng sẽ giúp tăng cường hơn các liên kết ngoại giao và kinh tế với
các nước láng giềng, làm sâu sắc hơn sự phụ thuộc của họ vào Trung Quốc và sử dụng
địn bẩy kinh tế để khuyến khích (hoặc ép buộc) hợp tác trong những vấn đề khác. Trung
Quốc đã vô cùng khéo léo trong việc sử dụng các biện pháp khuyến khích kinh tế để bịt
miệng các nước Đông Nam Á ở Biển Đông. Với Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI)
là dự án hành lang kinh tế phức tạp và tham vọng nhất của Trung Quốc cho đến nay, và
Đông Nam Á là một đối tác chiến lược quan trọng trong sáng kiến này. Theo một nghiên
cứu năm 2018 của Oxford Economics và Viện Nghiên cứu CIMB ASEAN, các dự án BRI
ở các nước ASEAN lên tới hơn 739 tỷ USD. Indonesia là nơi có tổng vốn đầu tư BRI cao
nhất lên tới 171 tỷ USD, tiếp theo là Việt Nam (152 tỷ USD), Campuchia (104 tỷ USD),
Malaysia (98,5 tỷ USD), Singapore (70,1 tỷ USD), Lào (48 tỷ USD), Brunei (36 tỷ USD),
Myanmar (27,2 tỷ USD), Thái Lan (24 tỷ USD) và Philippines (9,4 tỷ USD)1.
Nguồn: Oxford Economics
2.2. Lợi ích và chính sách can dự của Mỹ ở Biển Đơng
2.2.1. Lợi ích của Mỹ
Biển Đơng có vai trị quan trọng đối với Mỹ trên phương diện quân sự và kinh tế,
hầu hết các đồng minh của Mỹ ở Biển Đông đều dựa vào tuyến đường hàng hải để di
chuyển các lực lượng hải quân và hàng hoá thương mại. Điều này thể hiện rõ nét ở ưu tiên
của nước Mỹ trong duy trì tự do hàng hải gọi tắt là FONOP ở Biển Đơng. Nhìn tổng thể,
Mỹ có ba lợi ích quốc gia quan trọng ở Biển Đơng:
Thứ nhất, Biển Đơng chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược quyền lực biển
truyền thống của Mỹ. Biển Đông không chỉ là tuyến hàng hải quan trọng, mà còn chốt giữ
các eo biển quan trọng như Malacca. Trong 16 tuyến đường thủy chiến lược toàn cầu mà
Mỹ cơng khai tun bố phải kiểm sốt, thì đã có 03 tuyến nằm ở khu vực Biển Đơng, đó
là eo biển Lombok, eo biển Sunda và eo biển Malacca. Chuẩn đô đốc Alfred Thayer

Mahan (1840-1914), nhà lý thuyết chiến lược hải quân người Mỹ, đã mở đường đột phá
1 CIMB ASEAN Research Institute (2018), China’s Belt and Road Initiative (BRI) and Southeast Asia, Percetakan
Zafar Sdn, Kuala Lumpur, p.8

24


trong tư duy khi cho rằng chỉ có sức mạnh trên biển mới giúp các nước trở thành cường
quốc chứ không phải sức mạnh trên đất liền. Alfred Mahan chỉ ra sáu điều kiện để một
quốc gia có thể trở thành cường quốc biển (sea power), đó là: (1) Có vị trí địa lý thuận lợi;
(2) Có bờ biển có thể sử dụng được, nhiều tài nguyên thiên nhiên và khí hậu thuận lợi; (3)
Có lãnh thổ đủ rộng; (4) Có dân số đủ đơng để tự vệ; (5) Có xã hội hướng ra biển và
thương mại đường biển; (6) Có một chính phủ đủ năng lực để làm chủ biển 1. Những nhận
định trên đã đưa Mahan trở thành lý thuyết gia lớn về biển của thế giới, có ảnh hưởng sâu
sắc đến chiến lược phát triển biển của nhiều nước. Thực tế cho thấy, từ năm 1992 lực
lượng hải quân của Mỹ đã bắt đầu thực thi chiến lược biển toàn cầu, phân chia các tuyến
hàng hải quan trọng trên tồn cầu thành 08 nhóm eo biển mang tính liên khu vực nối liền
nhau đồng thời chi viện lẫn nhau. Trong đó có nhóm eo biển khu vực Đông Nam Á bao
gồm eo biển Bashi, eo biển Makassar, eo biển Sunda, eo biển Malacca, những eo biển này
đều nằm ở Biển Đông và vùng biển cạnh Biển Đông.
Ở góc độ chiến lược qn sự, nước nào kiểm sốt được Biển Đơng thì nước đó về
cơ bản sẽ kiểm sốt được quần đảo và bán đảo Đơng Nam Á, đồng thời sẽ đóng vai trị
mang tính quyết định đối với tương lai của Tây Thái Bình Dương, bao gồm cả việc kiểm
soát tuyến đường hàng hải chiến lược giữa Đông Á và mỏ dầu Trung Đông. Hơn nữa, tầm
quan trọng chiến lược của Biển Đông ngày càng gia tăng, Biển Đông được coi là con
đường yết hầu của tuyến đường vận chuyển trên biển của thế giới với khoảng 50% lượng
hàng hóa của thế giới đi qua đây và tất cả các cường quốc biển trên thế giới đều phụ thuộc
vào vùng biển này. Mỹ là nước thương mại lớn nhất trên thế giới, có trên 90% hoạt động
thương mại cần phải vận chuyển trên biển, trong đó có 45% hoạt động thương mại trên
biển phải đi qua Biển Đơng. Do vị trí chiến lược của vùng biển này, Mỹ tất yếu muốn duy

trì vai trị chủ đạo và ảnh hưởng của mình ở khu vực Biển Đơng. Đây là vấn đề xuyên
suốt từ thời Tổng thống Obama đến Tổng thống Trump và hiện nay là Tổng thống Biden.
Thứ hai, Mỹ muốn thông qua việc can dự vào vấn đề Biển Đông để kiềm chế Trung
Quốc trỗi dậy. Mỹ cho rằng, trong tương lai nước có nhiều khả năng thách thức bá quyền

1 Duy Linh (2017), “Trung Quốc học Mỹ trở thành cường quốc biển”, truy cập ngày 10/01/2021.

25


×