Tiếp cận giảng dạy bài thơ “Nói với con” của Y Phương
Xin được bắt đầu từ lối tư duy nghệ thuật trong bài thơ. Bài thơ có
nhiều hình ảnh ngỡ phi lí, là kết quả của sự hịa hợp rất nhuyễn giữa
tư duy nghệ thuật dân gian miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu
thực hiện đại. Nếu tư duy nghệ thuật dân gian miền núi ưa dùng lối
trùng điệp thì tư duy nghệ thuật của thơ Tượng trưng và Siêu thực lại
thích tìm đến sự giao thoa giữa các cảm giác và sự coi trọng nhạc tính
của ngơn ngữ thơ. Có thể nhận diện sự hịa hợp ấy ngay trong những
câu thơ đầu:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Bốn câu thơ này là bức tranh về cảnh gia đình đầm ấm. Trong đó
có ba nhân vật: người mẹ, người cha và đứa trẻ mà trung tâm là hình
ảnh đứa trẻ đang tập đi. Sự hòa hợp giữa tư duy nghệ thuật dân gian
miền núi và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực đã được hóa thân
thành các thủ pháp nghệ thuật để tái hiện những cử chỉ của đứa trẻ:
có thủ pháp trùng điệp, có nghệ thuật sử dụng đối ý (chân phải - chân
trái, một bước - hai bước, cha - mẹ, tiếng nói - tiếng cười) và có nghệ
thuật tạo nhạc tính bằng sự phối thanh, bốn câu thơ dùng đến 15/20
thanh trắc. Sự cộng hưởng của những thủ pháp nghệ thuật và nhất là
sự phối thanh đã tạo nên những âm điệu gân guốc. Âm điệu ấy thích
hợp với việc tái hiện hình ảnh đứa trẻ đang lẫm chẫm tập đi, cứ “chân
phải” rồi “chân trái” một cách chập chững khó khăn. Khó khăn nhưng
đầy phấn khích vì sự khích lệ nhiệt thành của cha mẹ. Cách dùng số
đếm: “một bước”, “hai bước” cho thấy ánh nhìn của cha mẹ thật chăm
chú, quan sát từng cử chỉ, trông chờ, đếm từng bước đi của con.
Những bước chân lẫm chẫm được bao bọc bởi tình yêu thương của
cha mẹ, tạo ra sự đáng yêu của đứa trẻ. Cứ như mỗi bước đều là một
“thành tựu”, một dấu mốc cần được đếm để ghi nhớ. Nhưng điều lí thú
hơn khơng phải là cách dùng số đếm mà là lối liên tưởng có vẻ phi lí,
ngộ nghĩnh kiểu tư duy thơ Tượng trưng: “Một bước chạm tiếng nói /
Hai bước tới tiếng cười”. Tiếng nói, tiếng cười vốn vơ hình nhưng lại
được hữu hình hóa để trở thành “cọc tiêu” định vị cho đứa trẻ “bước
tới”. Thực ra, đó là hình thức “lạ hóa” ngơn từ để diễn tả khơng khí
hạnh phúc trong ngơi nhà. Cơ hồ như khi đứa trẻ “cán đích” cũng là
lúc cả ngôi nhà như rung lên, cả không gian xung quanh tan thành
tiếng nói cười.
2
Đến những câu thơ tiếp theo, bài thơ bắt đầu chuyển mạch,
chuyển giọng. Sau tiếng nói, tiếng cười ran lên từ “thành quả” tập đi,
từ những bước đi đầu tiên của bé, chất thơ bắt đầu đọng vào sự sâu
lắng suy tư khi nhân vật trữ tình - người cha “nói với con” về những
điều ấp ủ. Từ đây, mạch thơ cứ đan cài giữa lòng yêu thương con và
niềm tự hào về quê hương xứ sở.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời.
Tứ của những câu thơ này tập trung xoay quanh ba hình
ảnh. Thứ nhất là hình ảnh con người quê hương (được gọi bằng cái
tên mộc mạc mà thân thương - người đồng mình). Hình ảnh này được
miêu tả qua đơi bàn tay đan lờ bắt cá và ken vách làm nhà. Đó là bàn
tay tài hoa. Hai động từ “đan” và “ken” vốn chẳng có gì sáng tạo, vậy
mà ở đây chúng lại có một sức ám gợi đặc biệt. Hai động từ này đều
có nét nghĩa tạo sự bện kết nhưng khi được liên tưởng tới “cài nan
hoa” và “ken câu hát” thì chúng lập tức diễn tả một sự bện xoắn giữa
3
giá trị lao động và giá trị nghệ thuật, bàn tay lao động cũng đồng thời
là bàn tay tạo tác, mỗi thứ đồ vật cũng là một tạo tác văn hóa. Nhất là
lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát”. Cũng như tiếng nói, tiếng cười ở
bốn câu đầu, câu hát vốn phi vật thể lại được hình hài hóa thành vách
nhà. Y Phương giải thích rằng: “Một điều nữa “vách nhà ken câu hát”
là yếu tố văn hóa phi vật thể. Người con trai ngồi ngoài vách. Người
con gái ở bên trong vách. Họ hát cho nhau nghe. Hát tràn đêm đến
sáng bạch. Bởi thế, bức vách ở đây không chỉ là một bức vách cụ thể
bằng đất, bằng đá nữa. Nó đã trở thành một chủ thể văn hóa”(1). Vậy là
chỉ cần miêu tả đơi bàn tay với những chi tiết ngỡ phi lí, Y Phương đã
tái hiện một nét tính cách đặc trưng của người Tày, ấy là lòng yêu ca
hát, là sự tài hoa, lãng mạn. Và hơn thế, “vách nhà ken câu hát” đã
làm bừng dậy một khơng gian văn hóa riêng miền cao. Thứ hai là hình
ảnh mảnh đất quê hương (được chấm phá bởi hai biểu tượng: “rừng”
và “con đường”): “rừng cho hoa / con đường cho những tấm lịng”. Có
thể diễn ý thơ thế này chăng: “Rừng cho hoa” là biểu tượng của thiên
nhiên thơ mộng, cũng là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu tượng của
sức sống (hiểu theo nghĩa đơm hoa - kết trái). Con đường cũng là
biểu tượng quen thuộc trong thơ ca để chỉ sự xóa nhịa các lằn ranh.
“Con đường cho những tấm lịng” bởi nhờ nó mà con người có thể
đến được với nhau. Vì thế, con đường là sợi dây nối liền tình cảm,
cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và
mẹ. Bằng điệp từ “cho”, cũng là động từ chỉ sự trao tặng, dâng hiến,
4
tác giả đã dành những lời ngợi ca ngắn gọn mà giàu cảm xúc về hình
ảnh một mảnh đất quê hương hào phóng - mảnh đất đã ban tặng cho
con người những gì tinh túy nhất: “cho hoa” và “cho những tấm
lịng”. Thứ ba là hình ảnh “ngày cưới” của cha mẹ, là “ngày đầu tiên”,
là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ba hình ảnh này: con
người - mảnh đất quê hương - ngày cưới của cha mẹ ngỡ chẳng liên
kết gì và mạch thơ ngỡ như tản mạn nhưng xét kĩ lại khá tập trung.
Chúng đều là những hình ảnh thơ nằm ở độ “thăng hoa”. Con người
thì tài hoa, thiên nhiên thơ mộng hào phóng và nỗi nhớ thì gắn với
ngày “đẹp nhất trong đời”. Cả ba hình ảnh đều đồng lịng gợi thức dậy
ở đứa trẻ tình u thương, lịng gắn bó với cội nguồn sinh dưỡng.
Rằng, con được sinh ra và được nâng niu trong một thế giới đầy sắc
màu cổ tích. Đó là thế giới của những con người tài hoa, những tâm
hồn lãng mạn, là thế giới của những con đường xuyên những cánh
rừng đầy hoa và gần gũi hơn nữa, con được sinh ra từ tình yêu tha
thiết giữa cha và mẹ (bằng chứng là nỗi nhớ “ngày đầu tiên đẹp nhất
trong đời”). Một thế giới như thế sẽ đủ sức bao bọc con trong những
êm đềm, những yêu thương; đủ sức nuôi lớn tâm hồn con và xứng
đáng để con khơng phụ lịng.
Trong ba hình ảnh kể trên, tơi muốn bàn nhiều về vẻ đẹp của con
người quê hương. Điều đó khơng hẳn do những liên tưởng thơ độc
đáo mà là vị trí của hình ảnh này trong tồn tác phẩm. Điệp ngữ
5
“người đồng mình” lặp lại bốn lần, tuy mỗi lần diễn tả một nét phẩm
chất riêng song tổng gộp lại, “người đồng mình” là hiện thân đầy đủ
nhất của truyền thống quê hương. Không chỉ tài hoa lãng mạn, “người
đồng mình” cịn là nơi hội tụ của ý chí, nghị lực, sự trong sáng nghĩa
tình: “Người đồng mình thương lắm con ơi / Cao đo nỗi buồn / Xa ni
chí lớn”; “người đồng mình” có thể “sống trên đá khơng chê đá gập
ghềnh / Sống trong thung không chê thung nghèo khó” nghĩa là sống
thủy chung, ơn nghĩa sâu nặng với q hương, nghĩa là có khả năng
thích nghi kỳ lạ trong bất cứ hoàn cảnh nào, như cây rừng có thể sinh
sơi trên đá, xanh tốt trong thung, “người đồng mình” có thể bình thản
đối mặt với gian khổ mà “khơng lo cực nhọc”, có thể vượt lên những
cực nhọc bằng tính cách nhẫn nại phi thường:
Người đồng mình tự đục đá kê cao q hương
Cịn q hương thì làm phong tục.
Trong hai câu này, câu trên có ba thanh trắc liền nhau “tự - đục đá”. Sự liên hoàn của ba thanh trắc tạo nên âm điệu trúc trắc, nặng
nhọc. Âm điệu ấy có tác dụng đắc địa trong việc tái hiện sự cặm cụi,
nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương
trên đá. Tiếp sau đó, bốn thanh bằng liên tiếp lại tạo ra một âm điệu
nhẹ nhàng “kê - cao - quê - hương”. Sự liên hoàn của thanh bằng lại
mở ra hình ảnh một thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương
6
giữa mênh mang đất trời. Từ âm điệu trúc trắc đến nhẹ nhàng cũng
tựa như một khúc thức trong một bản nhạc, mơ phỏng hành trình của
q hương từ sự khó nhọc nặng nề khi dựng nghiệp đến khi ung
dung, khoan khoái trước thế đứng vượt lên trên những “gập ghềnh”
của đá. Câu thơ dưới có 6 chữ mang thanh bằng và cuối câu lại là
thanh trắc: “Còn - quê - hương - thì - làm - phong - tục”. Sự chuyển đổi
âm điệu bằng trước - trắc sau ở câu này cũng là sự chuyển điệu từ
êm nhẹ trước (bằng), nặng lắng (trắc) sau, là hướng chuyển điệu
ngược lại với câu trên. Kết thúc bằng thanh trắc, câu thơ đã gợi được
sự kết dệt, lắng đọng của những giá trị văn hóa bền vững. Nói rằng
hai câu thơ này chứa đựng niềm tự hào về con người quê hương
cũng được mà nói rằng đó là một triết lí được đúc rút từ bề dày truyền
thống chắc cũng chẳng sai. “Sống trên đá không chê đã gập ghềnh” là
thế, “tự đục đá kê cao quê hương” cũng là thế. Đó là sự hình tượng
hóa q trình khơng ngừng nghỉ của bao thế hệ “người đồng mình”
nhằm tạo ra những giá trị sống. Đó là q trình đầy cực nhọc và trong
q trình ấy, tâm hồn, trí tuệ của những con người “sống trên đá” đã
lắng đọng lại thành những tập quán, phong tục hay nói rộng hơn là
thành một bản sắc văn hóa riêng. Khơng biết có phải dụng ý của Y
Phương hay không nhưng hai câu thơ này cứ như một khái quát về
hành trình dựng nghiệp của tổ tiên từ thuở “khai thiên lập địa” đến giờ.
Người đồng mình “tự đục đá” chứ khơng hề thụ động, chẳng dựa vào
lực lượng siêu nhiên nào để kiến tạo quê hương.
7
Ở một phương diện nào đó, có thể coi, bài thơ Nói với con cũng là
một trong những bằng chứng đánh dấu sự chuyển biến của văn học
từ thời chiến sang thời bình. Trong những năm chiến tranh, truyền
thống văn hóa cũng là đề tài hấp dẫn nhiều nhà thơ. Tuy nhiên, do yêu
cầu của thời đại, người nghệ sĩ nếu có viết về truyền thống cũng
khơng ngồi mục đích nhen lên ở người đọc niềm tự hào dân tộc.
Đánh thức niềm tự hào dân tộc cũng là cách khơi lên sức mạnh tinh
thần mà đánh giặc. Chẳng hạn, Nguyễn Khoa Điềm, song hành với
việc tái hiện dáng vóc đất nước bằng những giá trị văn hóa đã nhắn
nhủ thế hệ trẻ vùng tạm chiếm ở miền Nam: “Khi chúng ta cầm tay mọi
người / Đất nước vẹn tròn to lớn” (Mặt đường khát vọng). Bài thơ Nói
với con được viết khi giặc tan rồi. Chiến tranh được đẩy lùi nhưng
nguy cơ mai một truyền thống lại nhỡn tiền. Như thế nếu điều Nguyễn
Khoa Điềm quan tâm là chủ quyền, là đất nước thống nhất thì điều mà
Y Phương quan tâm lại là bản sắc văn hóa. “Bài thơ Nói với con
tơi viết năm 1980 - Y Phương nói - Đó là thời điểm đất nước ta gặp vơ
vàn khó khăn. Thời kỳ cả nước mới thoát ra khỏi cuộc chiến tranh
chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Giống như một người mới ốm dậy, xã
hội khi ấy bắt đầu xuất hiện người tốt, kẻ xấu để tranh giành sự sống”
và vì thế “cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc
(…) Muốn sống đàng hồng như một con người, tơi nghĩ phải bám vào
văn hóa”(2). Từ những lời tâm sự này mà suy ra thì khi viết bài thơ Nói
8
với con, Y Phương muốn giãi tỏ nỗi lo âu về sự mai một những giá trị
văn hóa truyền thống trước tâm lí “hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc”
của xã hội. Dấu hiệu ít ỏi nhưng dễ thấy nhất của nỗi lo âu ấy là câu
thơ “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”. Câu thơ này chia rõ làm hai trạng
thái tâm tư: vừa là những dự cảm lại vừa đầy những khát khao. Ở
nửa thứ nhất của câu thơ, ba từ “dẫu - làm - sao” là những dự cảm về
sự đổi thay của thời cuộc. Đó khơng chỉ là tâm sự của Y Phương mà
cịn là nỗi niềm của cả một thế hệ nhà thơ ở thời kỳ đầu thống nhất
đất nước.
Trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Nguyễn Duy từng mượn hình
ảnh lời ru để thể hiện hoài nghi về số phận của những giá trị truyền
thống: “Bà ru mẹ, mẹ ru con / Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?”.
Như thế, điều mà Y Phương đặt ra cũng là vấn đề mang tầm thời đại.
Đó cũng là vấn đề khơng thể xem thưởng bởi một lẽ đơn giản, một
dân tộc đánh mất bản sắc văn hóa cũng đồng nghĩa với việc gương
mặt tinh thần của dân tộc ấy bị xóa nhịa. Y Phương chắc cũng chưa
hình dung hết số phận của những giá trị văn hóa truyền thống sẽ ra
sao nhưng ba từ “dẫu - làm - sao” đã chứa chất đầy những đau đáu lo
âu. Không lo sao được khi một người nặng lòng với cội nguồn mà phải
chứng kiến nguồn cội của mình có vẻ như lung lay. Một trong những
bằng chứng về sự nặng lòng ấy là những câu thơ trong bài Tên
làng của ông: “Ơi cái làng của mẹ sinh con / Có ngơi nhà xây bằng đá
hộc / Có con đường trâu bị vàng đen đi kìn kịt / Có niềm vui lúa chín
9
tràn trề / Có tình u tan thành tiếng thác / Vang lên trời / Vọng xuống
đất / Cái tên làng Hiếu Lễ của con”. Sau ngót 20 năm kể từ khi viết bài
thơ, Y Phương lại than phiền “Tôi thấy, dường như giờ đây, nhiều con
em các dân tộc khơng mấy mặn mà với văn hóa truyền thống. Và họ
đang tự nguyện nhập ngoại, lai căng một cách dễ dãi. Tơi ủng hộ hịa
nhập nhưng khơng thể hịa tan”(3). Ở nửa thứ hai của câu thơ, ba chữ
“cha - vẫn - muốn” lại là một khát khao da diết. Từ “vẫn” nếu đứng độc
lập sẽ chẳng có gì đặc biệt nhưng trong câu thơ này, nó được xem
như một “nhãn tự” thể hiện ý thức bám víu quyết liệt. “Nhãn tự” này đã
tạo cho câu thơ có một sắc thái bản lĩnh. Đó là biểu hiện của tâm thế
ứng xử “dĩ bất biến ứng vạn biến” mà người cha muốn truyền cho con.
Cái “vạn biến” là thời cuộc, là hồn cảnh sống. Hồn cảnh sống có thể
ln biến đổi, mọi chuẩn mực hơm qua có thể khơng thích hợp với
hơm nay,… thì người cha cũng chỉ mong muốn con mình giữ tâm thế
“bất biến” trong ứng xử - cái tâm thế mà “dẫu làm sao” thì con cũng
đừng quên cội nguồn sinh dưỡng: “Sống trên đá không chê đá gập
ghềnh / Sống trong thung khơng chê thung nghèo khó”, “dẫu làm sao”
chăng nữa, dẫu cuộc đời có dâu bể “vạn biến” đến mức như khi “lên
thác”, lúc “xuống ghềnh” thì con cứ “sống như sơng như suối”. Đó là
cách so sánh khá sâu sắc. Sông suối là biến thể của biểu tượng
nước, đối lập với hình ảnh đá trong bài thơ, nếu đá thuộc về “tính
cương” thì nước thuộc về “tính nhu”, là biểu tượng của sự hồn nhiên,
trong sáng, đồng thời cũng là biểu tượng của sức mạnh trí tuệ. Nước
10
mềm mại nhưng “nước chảy đá mòn”, nước mềm mại nhưng có thể
mạnh như thác lũ. Người cha muốn con phải kế thừa được tính cách
truyền thống của “người đồng mình - “sống như sơng như suối” là
sống trong sáng, kiên nghị, mạnh mẽ “không lo cực nhọc”. Hồn nhiên
đấy, tuy “thô sơ da thịt” đấy, chẳng diêm dúa cũng chẳng yêng hùng,
khiêm nhường là vậy nhưng con người quê hương mình “chẳng mấy
ai nhỏ bé đâu con”. Vậy thì, để sống xứng đáng với truyền thống ấy,
khi bước vào đời “không bao giờ nhỏ bé được / nghe con”. Đó là
những câu kết ngắn gọn và chắc nịch, cũng là lời giáo huấn nghiêm
khắc, là niềm hi vọng tha thiết mà người cha kỳ vọng ở con.
Tiếp cận tác phẩm này, cũng khơng nên cứng nhắc bám vào câu
nói của Y Phương: lời thơ “tâm sự với con còn là tâm sự với chính
mình”(4). Y Phương làm thơ khơng phải để để tặng tri kỉ như thời trung
đại (ở thời trung đại, chỉ số ít người được ăn học mới biết chữ nên
người trí thức sáng tác thơ ca không phải hướng đến công chúng mà
chủ yếu để dành cho việc đối đáp, thù tạc trong các buổi yến tiệc hoặc
dành tặng tri âm,…). Cũng như phần lớn thơ hiện đại, bài thơ Nói với
con được sáng tác để đăng báo, để in thành sách. Vì thế, ngồi việc
“nói với con” và “tâm sự với mình”, người nghệ sĩ cịn phải hướng đến
đơng đảo cơng chúng và muốn truyền đến công chúng một thông điệp
từng ấp ủ. Hiểu như vậy thì hình ảnh đứa trẻ trong bài thơ cũng vượt
khỏi giới hạn là cơ con gái đầu lịng của nhà thơ để trở thành biểu
11
tượng của tương lai. Chắc chắn là vậy, con chính là biểu tượng của
tương lai. “Nói với con” do đó còn là lời tâm sự, là di nguyện để gửi
đến các thế hệ tương lai. Thì ra, việc kể cho con nghe về hành trình
của cha ơng phải dựng nghiệp trên đá, phải “tự đục đá kê cao quê
hương” không phải để “ôn nghèo kể khổ” mà - như đã nói trên, để
mong muốn con biết quý trọng thành quả do cha ơng đã để lại. Từ đó,
đặng nhen lên ở con, ở các thế hệ mai sau ý thức bảo tồn, bảo lưu
những giá trị văn hóa mà cha ông đã dày công vun trồng.
Cuối cùng cũng cần nói về kết cấu của tác phẩm. Trong bài thơ, Y
Phương dùng khá nhiều hình tượng lạ nhưng tiêu biểu nhất là cặp
hình tượng đơi chân và con đường. Cặp hình tượng này khi lộ diện,
lúc ẩn mình mà chủ yếu là ẩn mình nhưng có tác dụng quyết định
trong việc tổ chức kết cấu của tác phẩm. Bắt đầu là đôi chân đến với
mẹ cha, là đôi chân “chạm tiếng nói”, “tới tiếng cười”, rồi đơi chân dẫn
đứa trẻ từ gia đình, theo “con đường cho những tấm lịng” đến với
cộng đồng để hít thở, tắm mình trong bầu khí quyển văn hóa của q
hương. Cuối cùng là đơi chân: “lên đường / không bao giờ nhỏ bé
được”. Từ lâu, các nhà lí luận phê bình đã phát hiện thấy kết cấu trong
tác phẩm nghệ thuật cũng là một phương diện tạo nghĩa. Nhìn từ “sơ
đồ” hành trình của đơi chân đứa trẻ mà người cha “phác thảo”, có thể
thấy, đích đến đầu tiên là cha mẹ, đích đến thứ hai là mơi trường văn
hóa q hương và cái đích cuối cùng là vào đời. Tôi ngờ rằng, kết cấu
12
này khơng thể nằm ngồi ý nghĩa triết lí mà Y Phương muốn kí thác.
Nghĩa là, theo Y Phương, mỗi con người muốn trưởng thành thì cần
phải xuất phát từ gia đình, phải biết đến cha mẹ; sau nữa phải thủy
chung với quê hương. Gia đình và quê hương là mơi trường bồi đắp
những giá trị sống nhân văn. Có gắn bó với gia đình, với q hương
tức là biết sống theo đạo lí “uống nước nhớ nguồn” mới tiếp nhận
được vốn văn hóa đủ để khi bước vào đời “khơng bao giờ nhỏ bé
được / nghe con”. Có thể, có người khơng đồng ý với quan niệm này
của Y Phương nhưng tính nhân văn trong đó là điều khơng thể phủ
nhận.
Nói với con của Y Phương là bài thơ cũng “thô sơ da thịt” nhưng
“không bao giờ nhỏ bé được” vì tác phẩm đã làm sống dậy những nét
bản sắc văn hóa của một cộng đồng, đặt ra những vấn đề mang tầm
thời đại - vấn đề bảo lưu và phát triển văn hóa. Đặt vào bối cảnh hội
nhập ngày nay, khi những sản phẩm văn hóa nước ngồi (ngồi mặt
tích cực) đã khiến phần nhiều giới trẻ Việt Nam ngày càng nhạt tình
với vốn văn hóa truyền thống ta mới thấm thía điều mà Y Phương đã
dự cảm./.
13