BÀI KIỂM TRA TIỂU LUẬN
Môn: TIẾP CẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Câu hỏi: Chọn một tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn phổ thơng để
tiếp cận và làm rõ đặc trưng thi pháp của tác phẩm ấy?
Bài làm
MỞ ĐẦU:
Thi pháp học là bộ môn khoa học xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, gắn liền
với tên tuổi của Aristone và cuốn Nghệ thuật thi ca của ông. Thi pháp học là bộ
môn lâu đời nhất nghiên cứu về văn học. Thi pháp học được vận dụng trong bài
giảng của giáo viên, bài làm văn của học sinh sẽ trở thành một hướng đi hiệu quả
nhằm tiếp cận, khám phá tác phẩm văn học.
Vậy thi pháp là gì ? Thi pháp là hệ thống các phương thức, phương tiện thủ
pháp thể hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Thi
pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của
tác giả và thời kì văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm.
Trong các thể loại văn học, đáng chú ý là thể loại tác phẩm tự sự: Tác phẩm
tự sự là một trong những thể loại văn học cơ bản lấy nguyên tắc khách quan làm
nguyên tắc sáng tạo để phản ánh bức tranh hiện thực đời sống và con người trong
thuộc tính khách quan của nó thơng qua lời kể của một nhân vật hư cấu là người kể
chuyện.
Trong những tác phẩm tự sự được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông,
đáng chú ý là những tác phẩm của nhà văn Nam Cao.Trong nền văn học Việt Nam
hiện đại, nhà văn Nam Cao có vị trí rất quan trọng. Nam Cao là một trong số những
nhà văn hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Ông là một trong số những
cây bút hiếm hoi của nền văn xi hiện đại có tư tưởng, phong cách và thi pháp
sáng tạo riêng độc đáo, có những cách tân lớn lao góp phần quan trọng vào tiến
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao khơng dài,
chỉ gói trọn trong 15 năm (1936 – 1951), gia tài văn chương Nam Cao để lại cho
hậu thế không mấy đồ sộ song chúng đã thành “mẫu số vĩnh hằng” trong nền văn
học dân tộc. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của
thời gian, có sức sống mạnh mẽ trong lòng người đọc.Tác phẩm Lão Hạc của Nam
Cao trong chương trình THCS là một truyện ngắn rất đặc sắc về đề tài người nông
dân Việt Nam. Bên cạnh những tác phẩm có cùng đề tài như: Tắt đèn (Ngơ Tất Tố),
Chí Phèo (Nam Cao)…
NỘI DUNG:
1. Nội dung truyện ngắn Lão Hạc là nội dung mang tính biểu tượng và
khách quan:
2
Truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực và cảm động về số phận
đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng
của họ. Qua truyện, người đọc còn thấy tấm lịng u thương trân trọng đối
với người nơng dân của Nam Cao.
2. Về cốt truyện:
Cốt truyện Lão Hạc của Nam Cao kể về cuộc đời nghèo khó bất hạnh của
một lão nông là lão Hạc dưới thời thực dân, phong kiến trước Cách mạng tháng
Tám 1945. Vợ chết, con thất tình phẫn chí bỏ nhà vào tận Nam Kì làm công nhân
đồn điền cao su, mong “ Kiếm được bạc trăm mới về khơng thì sống ở cái làng này
nhục lắm”, lão Hạc sống cô đơn thui thủi dưới mái tranh xiêu vẹo, chỉ có con chó
vàng làm bạn sớm hơm. Cuộc sống ngày một khốn khó. Để giữ cho con trai mảnh
vườn lão phải bán đi con chó mà lão yêu như một đứa cháu và số tiền ít ỏi lão gửi
lại ông giáo và bà con làng xóm lo hậu sự sau này cho lão, sau khi đã lo liệu xong
xuôi và cuối cùng, lão tự chọn cái chết để giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau.
3. Hình thức tổ chức kết cấu (chuyện lồng trong chuyện, lời kể lồng vào lời
kể); ở cách thức kể chuyện giàu tính nghệ thuật:
Giọng văn trong câu chuyện biến hóa phong phú: giọng tâm tình, giản dị,
mộc mạc, tự nhiên mà giàu chất trữ tình, triết lí; ở ngơn ngữ giàu hình tượng, giàu
sắc thái biểu cảm; ở bút pháp nhiều màu sắc: vừa miêu tả vừa biểu hiện, vừa tự sự
3
vừa trừ tình; ở ý nghĩa nhiều tầng nhiều lớp; ở khả năng gợi ra những liên tưởng
phong phú nơi người đọc... tóm lại ở vẻ đẹp đa dạng của nghệ thuật biểu hiện,
trong đó vai trị người dẫn chuyện xưng “tôi” - nhân vật ông giáo - xuất hiện từ
dòng đầu tiên cho đến dòng cuối cùng tác phẩm, giữa một vị trí trung tâm trong
việc liên kết các yếu tố nghệ thuật nói trên để tạo thành một chỉnh thể thống nhất,
trong đó có sự xâm nhập dường như không thể tách rời giữa nội dung tư tưởng và
hình thức biểu hiện.Vai trị người dẫn chuyện xưng •‘tơi" - nhân vật ơng giáo đứng ở bình diện sáng tạo nghệ thuật (thi pháp) xem đó như là sự định hướng để
tiếp cận những vẻ đẹp của nghệ thuật tác phẩm.
Xây dựng nhân vật xưng “tôi” - ông giáo - vừa là người dẫn chuyện, đối
thoại với bạn đọc vừa là một nhân vật sống thực, có số phận, tâm tư, nỗi niềm...
đang tham dự, chia sẻ, chứng kiến đối thoại với các nhân vật trong chuyện: khi thì
hịa nhập hẳn vào những nhân vật, vào những biến cố của câu chuyện; khi thì như
tách ra để một mình độc thoại nội tâm, bình luận triết lí hay hồi niệm... đó là một
thủ pháp nghệ thuật của nhà văn vừa tạo nên một giọng điệu độc đáo, biến hóa
phong phú, vừa làm cho nội dung câu chuyện như được mở ra chứ khơng phải chỉ
đóng khung trong phạm vi không gian và thời gian hạn hẹp của cốt truyện. Do vậy
nội dung của tác phẩm cũng khơng chỉ bó hẹp ở số phận bi thảm của người nông
dân, giá trị nhân đạo khơng chỉ ở thái độ thương xót, cảm thơng hay trân trọng mà
có ý nghĩa sâu rộng hơn nhiều. Bởi vì qua sự tiếp nhận từ nhiều yếu tố: lời lẽ, giọng
4
điệu... của ngôn ngữ người kể chuyện, Lão Hạc đâu chỉ là câu chuyện về số phận bi
thảm của cha con lão Hạc (và “cậu Vàng"). Đó cịn là câu chuyện ơng giáo tự kể về
chính mình với bao nhiêu nỗi niềm, tâm sự, bao khát khao và sụp đổ... qua giọng kể
chất chứa bao tiếc nối xót xa, tác phẩm ám ảnh chúng ta về số phận chung bế tắc
của tầng lớp trí thức trong xã hội đương thời.
Ngồi ra, sự xuất hiện của nhân vật xưng “tôi” cùng một lúc đóng 2 vai trị:
vai trị người dẫn chuyện đang đối thoại với độc giả - nhiều khi dưới hình thức độc
thoại nội tâm - và vai trị của một nhân vật cùng tham dự vào những biến cố của
câu chuyện, đối thoại trực tiếp với các nhân vật, góp phần gây ấn tượng về một câu
chuyện như thật người đọc có cảm giác như câu chuyện khơng phải xảy ra ở trong
quá khứ mà như đang biễn biến, đang xảy ra, đang chia sẻ, cùng hồi hộp như nhau.
Ở đây nhân vật người kể chuyện đã đóng vai trò gắn liền tác giá, nhân vật và độc
giả. Khoảng cách giữa tác giả và người đọc được rút ngắn lại hầu như bằng không.
Tác giả, nhân vật và người đọc gần như có mối quan hệ bình đẳng. Đó là dấu hiệu
của một ngịi bút hiện đại ít thấy trong văn học đương thời. Có thể xem đây cũng là
một trong những đóng góp của Nam Cao về mặt thi pháp.
Có thể thấy rõ vai trị của nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm, chẳng hạn:
- Cử chỉ ân cần, vài suy nghĩ của ông giáo trước nỗi đau của lão Hạc: “Tơi
muốn ơm chồng lấy lão mà ịa lên khóc. Bây giờ thì tơi khơng xót xa năm quyển
sách của tôi quá như trước nữa...”
5
- Những đoạn văn như sau (hầu như nằm ngoài hệ thống của cốt truyện):
“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta khơng cố tìm mà hiểu họ, thì ta
chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn
nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta
thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào
qn được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu. Khi người ta
khổ q thì người ta chẳng cịn nghĩ đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta
bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tơi biết vậy, nên tôi chỉ buồn
chứ không nỡ giận...”
- Những bổ ngữ, những thán từ “Lão Hạc ơi!... Hỡi ơi lão Hạc!...” mà bao lần ơng
giáo khơng sao kìm giữ nổi trong trái tim mình... ta thấy tác phẩm Lão Hạc thật
phong phú, biến hóa, xúc động, hấp dẫn. Những cử chỉ, lời nói, nhưng dịng suy tư
triết lí trên (nằm ngoài hệ thống sự kiện, biến cố của cốt truyện) không những chỉ
hấp dẫn về văn phong ngữ điệu... mà còn là những câu văn chan chứa xúc cảm, xót
xa mà nồng ấm... có khả năng nối liền mãi mãi tác phẩm với người đọc bởi chúng
nói về cái tình người mn thuở, về cách ứng xử đầy nhân ái giữa những con
người... Những dịng suy tư triết lí mà ông giáo nghĩ về “thị” đâu chỉ là để nói về
vợ mình. Đó cịn là chuyện của người đời, hầu như ai đọc cũng dường như cảm
thấy bản thân mình trong đó. Đó là những triết lí nhân văn sâu sắc mà tác giả muốn
qua nhân vật ông giáo gửi tới người đọc với cái nhìn soi tỏ, chiếu rọi để người đọc
tự tìm ra cách ứng xử nhân văn nhất với những người sống ở quanh ta.
6
Nội dung nhân vật toát ra trong từng câu từng chữ, từ lời kể, âm điệu, từ
những suy tư trăn trở, tự vấn lương tâm... của nhân vật ông giáo khiến cho câu
chuyện bi thảm mà chan chứa tình người, góp phần xoa dịu nỗi đau của con người,
có khả năng kích thích cái phần cao quý đẹp đẽ tiềm ẩn trong con người. Nội dungtư tưởng, hiệu quá thẩm mĩ của Lão Hạc vượt ra ngoài phạm vi cốt truyện để gợi ra
những liên tưởng phong phú nhiều tầng ý nghĩa là thế.
Do vậy, giảng tác phẩm Lão Hạc mà bỏ qua nhân vật ông giáo, không phải
chỉ là lu mờ màu sắc phong phú của nghệ thuật biểu hiện mà còn làm nghèo đi biết
bao những giá trị tư tưởng mà tác phẩm có thể gợi ra trong thế giới tâm hồn của
người đọc.
4. Về ngôn ngữ tự sự:
Cuối cùng, khơng thể khơng nói tới một hướng tìm hiểu từ bình diện ngơn
ngữ, vì ngơn ngữ là “yếu tố thứ nhất” tạo thành tác phẩm. Đó có nhiều cơng trình
phân tích tỉ mỉ biệt tài của Nam Cao trong việc chọn lựa những từ rất đắt để miêu tả
ngoại hình hay biểu hiện chiều sâu nội tâm nhân vật.
Ở đây chỉ nói thêm đơi điều về ngơn ngữ người kể chuyện có liên quan đến
hướng tiếp cận đang nói. Chính việc ơng giáo cùng lúc đóng nhiều vai trị đã góp
phần khơng nhỏ tạo nên màu sắc đa dạng về ngôn ngữ biểu hiện. Chúng ta thấy, khi
ông giáo thâm nhập thực sự vào câu chuyện trong tự cách là người hàng xóm láng
giềng đối diện và đối thoại trực tiếp với lão Hạc... nhà văn sử dụng ngơn ngữ bình
dị, mộc mạc, tự nhiên gần với lời nói thường, đúng là một thứ ngơn ngữ nhân vật
7
đích thực. Khi ơng giáo quay về với chính mình, độc thoại nội tâm, hồi niệm hay
triết lí... nhà văn sử dụng một thứ ngôn ngữ khác trau chuốt, ngân nga sâu lắng, bay
bổng... Ở đây, văn miêu tả kết hợp với văn biểu hiện; phương thức tự sự hòa quyện
nhuần nhuyễn với phương thức trữ tình... sự kết hợp nhuần nhị giữa những phong
cách ngôn ngữ và những phương thức diễn tả khác nhau là một trong những nét tạo
nên bản sắc riêng biệt của bút pháp và phong cách Nam Cao được biểu hiện khá rõ
nét ở Lão Hạc. Phong cách ấy tự nó có sức mạnh lơi cuốn. Tự nó cũng gây được
khối cảm thẩm mĩ nơi người đọc.
5. Về nhan đề và điểm nhìn của tác giả :
Tác phẩm có tựa đề Lão Hạc. Thơng thường, từ lão được sử dụng như một
đại từ nhân xung ngôi thứ 2 hoặc thứ 3 để chỉ một đối tượng bị coi thường, khinh
rẻ. Vậy tại sao Nam Cao lại dùng lão để gọi một con người có nhân cách cao quý,
đẹp đẽ ? Trường hợp này khiến ta liên tưởng tới hàng loạt từ xưng hơ có ý nghĩa
tương tự. Những y, những hắn, những thị mà ta thường gặp trong rất nhiều tác
phẩm quen thuộc của Nam Cao. Hiệu quả thẩm mĩ cũng có thể nẩy sinh từ chính sự
tương phản này.
Trong tác phẩm, từ lão lại được sử dụng với nhiều màu sắc khác nhau: khi
đóng vai trò người kể chuyện, đối thoại với bạn đọc ông giáo dùng lão hoặc lão
Hạc. Trong phần lớn những trường hợp này, từ lão được dùng ở vị trí đại từ nhân
xưng ngơi thứ 3. Nhưng có nhiều khi, người kể chuyện (ơng giáo) hịa nhập hẳn
vào nhân vật lão Hạc thì từ lão mang hai màu sắc: màu sắc của đại từ nhân xưng
8
ngôi thứ 3 (nếu hiểu ông giáo kể với độc giả về lão Hạc) và màu sắc của đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất (nếu hiểu lão Hạc đang kể với ơng giáo và độc giả về
chính bản thân mình).
Chẳng hạn, như trong đoạn văn sau: “Những buổi tối, khi lão uống rượu, thì
nó ngồi ở dưới chân. lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta
gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa
cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này:
- Cậu có nhớ bố cậu khơng, hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm khơng có thư về.
Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm.
Khơng biết cuối năm nay bố cậu có về khơng? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết
cậu. Liệu hồn cậu đấy!
Con chó vẫn hếch mõm lên nhìn, chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt nhìn trừng trừng
vào mắt nó...”
Ở đoạn văn trên (và nhiều đoạn khác trong tác phẩm) người ta bắt gặp giọng kể của
chính nhân vật lão Hạc (với màu sắc riêng không trộn lẫn vào đâu được) nhập hẳn
vào văn mạch của người kể chuyện khiến cho người đọc như được nghe hai giọng
kể trong cùng một lúc. Đặt vào ngữ cảnh cụ thể, ta dễ dàng nhận ra màu sắc trung
tính để gia tăng tính khách quan cho việc miêu tả tính cách lão Hạc của từ xưng hơ
ngơi thứ ba được vận dụng ở đây. Trong trường hợp này, từ lão không mang ý
nghĩa bị coi thường hay khinh rẻ. Có chăng, là sự tự coi thường, theo một kiểu nào
đấy.
9
Mặt khác, ta lại thấy, trong suốt tác phẩm, khi đối thoại trực tiếp với Hạc,
không bao giờ ông giáo gọi bằng lão, bao giờ ông giáo cũng gọi cụ một cách kính
cẩn. Ở cuối tác phẩm, khi tưởng tượng cuộc gặp gỡ người con trai của lão Hạc, ông
giáo gọi lão Hạc bằng ông cụ một cách vô cùng trân trọng.
Tại sao có sự chuyển hóa như thế trong việc sử dụng các loại từ nhân xưng? Có lẽ
cũng khó lí giải một cách thỏa đáng những màu sắc biểu cảm khác nhau trong
những trường hợp khác nhau như thế?
Phải chăng là ở đây có sự “phân thân” ngay trong nhân vật ông giáo? Là một
nhân vật hư cấu, đóng nhiều vai trị trong cùng một lúc, nhà văn có thế “đặt” nhân
vật của mình khơng phải chỉ ở một “điểm nhìn” mà nhiều “điểm nhìn” khác nhau.
Như thế sự chuvển dịch những “điểm nhìn” (có thế hiểu điểm nhìn vừa là chỗ đứng
trong khơng gian thời gian, vừa là thái độ tình cảm, quan điểm đánh giá v.v... sẽ kéo
theo sự biến hóa về giọng điệu, thái đơ tình cảm cách sử dụng những đại từ... Nhà
văn có thể tập hợp trong nhân vật ông giáo không chỉ một mà nhiều thái độ đối với
nhân vật lão Hạc: của tác giả của độc giả. Của người đời, của các nhân vât khác (kể
cả “thi”, cả Binh Tư...). Tuy nhiên, dù ơng giáo có “đóng kịch”, có cố tình tỏ ra
khách quan có dùng đại từ với nhiều màu sắc, có dùng giọng kể nhiều biến hố,
người đọc vẫn nhận ra một “giọng điệu” chính có ý nghĩa chi phối: giọng thơng
cảm xót xa, giọng ân cần an ủi, giọng nâng niu trân trọng... và qua giọng điệu này,
người đọc bắt gặp thái độ tình cảm, lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Đó cũng là
“điểm nhìn” mà nhà văn mong muốn tìm thấy tiếng nói tri âm, tri kỉ nơi người đọc.
10
Và với một điểm nhìn có ý nghĩa soi sáng, chiếu rọi như thế, nhân vật lão Hạc
khơng cịn là một kẻ thấp kém, tầm thường, mà là một nhân cách cao quý. Từ lão đi
vào tác phẩm, qua bàn tay sáng tạo của nghệ sĩ ngôn từ đã không cịn mang cái
nghĩa thơng thường vốn có. Nó đã được “chuyển nghĩa” theo những cách thức
riêng góp phần bộc lộ một thái độ, một cách nhìn, một quan điểm đánh giá mang
nội dung nhân văn rỏ nét: đó là thái dộ trân trọng đối với những con người vốn bị
người đời rẻ khinh trong xã hội cũ.
Thông điệp của tác phẩm “ Lão Hạc” cũng là lời nhắn gửi tha thiết của nhà
văn tới bạn đoc: Hãy quên đi nỗi đau chính mình để chia sẻ nỗi đau người khác:
Hãy biết sống một cách nhân ái, vị tha, xứng đáng với con người... Biết cảm
thương chia sẻ với người khác, sẽ vơi bớt nỗi đau chính mình.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1.
Kết luận:
Việc sử dụng các đặc trưng thi pháp và thể loại vào dạy học truyện ngắn Lão
Hạc đem lại hiệu quả lớn cho bài học, đồng thời tạo hứng thú cho học sinh khiến
cho giờ học sinh động và sâu sắc hơn.
2.
Kiến nghị:
Đối với các cấp lãnh đạo: cần quan tâm khuyến khích giáo viên sử dụng
phương pháp mới trong dạy học.
11
Đối với giáo viên: Để học sinh được tiếp cận và cảm thụ sâu sắc tác phẩm
lão Hạc nói riêng và thể loại tự sự nói chung, giáo viên cần định hướng cho học
được trải nghiệm và sáng tạo:
+ Cho học sinh đọc phân vai để học sinh bước đầu đặt mình vào tâm trạng
nhân vật.
+ Chuyển thể tác phẩm thành kịch bản sân khấu hóa để học sinh diễn trong
các buổi ngoại khóa văn học, học sinh được trải nghiệm đưa nhân vật văn học
bước ra cuộc sống.
+ Xây dựng các dự án học tập: (vẽ sơ đồ tư duy, chụp kỉ yếu, Audio ….) về
tác giả, tác phẩm ….
+ Thực hành sáng tác thêm phần kết cho truyện ( Có thể là chi tiết con trai
lão Hạc trở về ….)
12