ĐỀ TÀI Phát huy bài học về “nghệ thuật quân sự” trong cuộc kháng
chiến chống thực dân pháp 1946-1954 vào chống chiến lược diễn biến
hịa bình hiện nay.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chiến tranh đã qua đi, nhưng nỗi đau vẫn cịn đó. Những gì chúng
ta đã mất mát, hy sinh dường như là quá lớn. Nhưng đều quan trọng hơn
cả là chúng ta phải biết làm những gì để xứng đáng với những gì mà ơng
cha ta đã hy sinh cho dân tộc Việt Nam. Kể từ ngày giải phóng hoàn toàn
đất nước, tổ quốc ta đã phát triển lên một tầm cao mới. Trước vận hội mới
của đất nước, đặc biệt là việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới nhưng cũng không kém phần gian
nan và thử thách. Chúng ta, những con người của thời đại ngày nay phài
làm gì để dóng góp vào cơng cuộc đổi mới của đất nước? Nhìn lại chặng
đường đã qua của dân tộc Việt Nam, chúng ta không khỏi ngưỡng mộ và
thán phục. Từ thời vua Hùng dựng nước đến thời đại ngày nay, đất nước
ta đã trãi qua biết bao nhiêu cuộc chiến tranh gìn nước và giữ nước,
nhưng chúng ta đã chiến thắng dù kẻ thù là mạnh nhất. Mà nói đến đây
khơng thể khơng nhắc tới nghệ thuật qn sự ở Việt Nam, nơi mà những
thành công xuất phát từ con người, con người là nịng cốt chứ khơng phải
là những phương tiện chiến tranh hiện đại. Việt Nam đã chứng minh cho
thế giới rằng chúng ta chiến thắng những nước đế quốc khơng phải là
may mắn mà đó sức mạnh, là truyền thống đã được hun đúc qua nhiều thế
hệ con người Việt Nam.
2
I. Trình bày về nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp 1946-1954
1.1 Nghệ thuật xác định rõ kẻ thù và đánh giá đúng kẻ thù
a.
Xác định đúng kẻ thù, đúng đối tượng tác chiến
Đây là vấn đề quan trọng của chiến tranh cách mạng, nhiệm vụ của
chiến lược quân sự phải xác định chính xác để từ đó có đối sách và
phương thức đối phó hiệu quả nhất. Thực tiễn ở nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, lúc đó xuất hiện nhiều kẻ thù : quân đội Anh,
Tưởng, ấn Độ, Nhật và quân Pháp. Tất cả kẻ thù trên đều cùng chung một
mục đích là tiêu diệt nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ non trẻ. Trước
tình hình đó, Đảng ta xác định kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của cách mạng
Việt Nam là thực dân Pháp. Đây là tư duy chính xác và khoa học của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời điểm lịch sử "ngàn cân treo sợi
tóc". Từ đó, đối tượng tác chiến của quân và dân ta là quân đội Pháp xâm
lược.
b.
Đánh giá đúng kẻ thù
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng mạnh,
yếu của kẻ thù. Bước vào kháng chiến chống Pháp, so sánh lực lượng
địch, ta hết sức chênh lệch, nhưng với phương pháp xem xét biện chứng,
Đảng ta đã phân tích, chỉ ra sự phát triển trong so sánh lực lượng và cho
rằng: "Lực lượng của Pháp như mặt trời lúc hồng hơn, hống hách lắm
nhưng đã gần tắt nghỉ" còn "lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như
suối mới chảy, như lửa mới nhen, chỉ có tiến...".
1.2 Nghệ thuật lựa chọn thời cơ mở đầu cuộc kháng chiến
Sau thời gian hịa hỗn để xây dựng thực lực, Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chủ động tiến cơng kẻ thù, mở đầu tồn
quốc kháng chiến, tạo thế chủ động bước vào cuộc chiến tranh tự vệ, đẩy
Pháp vào thế bị động. Mở đầu tồn quốc kháng chiến bằng một cuộc tiến
cơng đồng loạt ở các đô thị. Thắng lợi to lớn hơn nữa là ta chiến đấu tiêu
3
hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, đồng thời cịn giam chân chúng
trong các đơ thị, khơng cho chúng nhanh chóng mở rộng chiếm đóng ra
các vùng nơng thơn, ngoại thành. Thắng lợi đó góp phần làm tiêu tan mưu
đồ đánh úp của quân Pháp, khiến Pháp từ thế chủ động thành bị động,
làm thất bại âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng. Bên cạnh đó,
thành cơng trong mở đầu toàn quốc kháng chiến đã bảo vệ an toàn cơ
quan đầu não kháng chiến, bảo toàn được chủ lực, tạo ra lợi thế và
khoảng thời gian cần thiết cho đất nước triển khai thế trận chiến đấu trong
thời chiến.
1.3 Nghệ thuật xây dựng kế hoạch và điều hành tác chiến
Từ ngày 7/10 đến 22/12/1947, quân và dân ta mở cuộc phản công
đánh bại cuộc tiến công của quân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc. Đây là
chiến dịch đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp và của cả cuộc
kháng chiến 30 năm đã được hình thành và là một chiến dịch phản cơng
có ý nghĩa chiến lược, được cơ quan chiến lược trực tiếp điều hành phù
hợp với tình hình, điều kiện của ta lúc đó.
Ngay trong chiến dịch đầu tiên, một số nội dung cơ bản của nghệ thuật
chiến dịch phản công đã bước đầu hình thành.
-
Đề ra mục đích chiến dịch đúng đắn, kiên quyết và tồn diện.
Chọn loại hình chiến dịch đúng.
Xác định đúng hướng (khu vực) phản công, tổ chức thế trận chiến
dịch phù hợp (ba mặt trận), bẻ gãy từng gọng kìm của địch, phá thế
-
hợp vây chiến dịch của chúng.
Tổ chức binh lực thích hợp, chỉ đạo vận dụng chiến thuật sáng tạo,
hạn chế chỗ mạnh của địch, khoét sâu mặt yếu của chúng.
Từ tháng 3/1948 đến giữa năm 1950, bộ đội ta ở khắp Bắc, Trung,
Nam đã mở khoảng 20 chiến dịch nhỏ, chủ yếu là chiến dịch tiến công.
Chiến dịch Biên Giới (Thu Đông - 1950) đánh dấu bước phát triển nhảy
vọt của nghệ thuật chiến dịch tiến cơng trong kháng chiến chống Pháp.
Đó là nghệ thuật chọn đúng cách đánh chiến dịch, xác định chính xác
4
hướng tiên công và mục tiêu tiên công, bảo đảm chắc thắng trận mở màn
chiến dịch, nổi bật nhất là nghệ thuật triển khai thế trận và bố trí lực
lượng đánh địch tăng viện để tiêu diệt .
Chiến thuật du kích (du kích chiến) được lực lượng vũ trang ba thứ
quân và nhân dân các địa phương vận dụng với nhiều cách đánh cụ thể
khác nhau. Chiến thuật du kích của ta vừa kết hợp cơ động đánh địch với
bám trụ đánh địch ngay tại địa phương. Xây dựng làng chiến đấu dựa vào
dân để đánh địch, bảo vệ dân, đã xuất hiện nhiều làng đánh giặc nổi tiếng.
Chiến thuật du kích đánh địch mọi lúc mọi nơi, đánh bằng mọi thứ vũ
khí: giáo mác, gậy tầm vơng, địn gánh, dao kiếm, chơng, mìn, cạm bẫy...
đã tỏ rõ hiệu lực chiến lược. Trong chiến đấu tiến cơng, chiến thuật phục
kích được vận dụng tương đối phổ biến theo nguyên tắc: nắm chắc địch
và thời cơ, bí mật triển khai thế trận hiểm, bất ngờ, tiến công nhanh,
mạnh, lui quân mau lẹ, bảo toàn lực lượng. Trong các trận đánh đồn, bộ
đội ta đã từng bước làm quen với tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh với
pháo binh, giữa bộ phận phá vật cản, mở cửa với xung kích và giữa các
hướng với nhau.
Từ năm 1951 đến giữa 1953, (Chiến dịch Hịa Bình đến Chiến dịch
Thượng Lào) là thời kỳ nghệ thuật chiến dịch của ta phát triển với những
nội dung ngày thêm phong phú. Mục đích chiến dịch đề ra cụ thể, kiên
quyết, phù hợp với so sánh lực lượng địch, ta nhất là phù hợp với trình độ
bộ đội. Do đó, các chiến dịch trong thời kỳ này đều đáp ứng yêu cầu
chiến lược cả về tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai, giải phóng
nhân dân.
Về cách đánh chiến dịch: cấp chiến dịch đã phân tích đánh giá đúng
chỗ mạnh chỗ yếu trong thế trận chiến dịch chiến lược của địch để chọn
đúng hướng tiên công chủ yếu. Chỉ đạo kết hợp đánh địch với phá hoại
giao thông địch, kết hợp tác chiến với địch vận, vũ trang tuyên truyền xây
dựng cơ sở chính trị... là những biểu hiện cụ thể về bước tiến mới trong
5
nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy tác chiến chiến dịch. Cùng với sự phát triển
chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật đã có bước phát triển khá
cao. Để khắc phục “vành đai trắng” của địch ta dùng chiến thuật “bôn
tập”. Bộ đội ta phải vừa cơ động từ xa đến, vừa tiến công dứt điểm, vừa
cơ động về vị trí an tồn trong đêm.
Chiến thuật phục kích là chiến thuật sở trường của lực lượng vũ
trang ta được cả ba thứ quân vận dụng thành thạo. Chiến thuật tập kích ở
giai đoạn trước ít được vận dụng ở quy mơ vừa, thì trong thời kỳ này
được vận dụng cả ở quy mơ tiểu đồn, trung đồn tăng cường đạt hiệu
suất chiến đấu cao. Chiến đấu chống càn diễn ra phổ biến đối với bộ đội
địa phường, dân quân du kích và các đơn vị chủ lực tác chiến trong địch
hậu. Chiến thuật của du kích được phát triển hết sức sáng tạo và phong
phú bằng vũ khí thơ sơ tự tạo và vũ khí lấy được của địch ngày một
nhiều.
Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 -1954, nghệ thuật quân sự Việt
Nam có bước phát triển vượt bậc. Mặc dù kẻ địch cố che giấu giữ kín ý
đồ chiến lược, nhưng ta vẫn phát hiện ra bản chất của kế hoạch Nava là
tăng quân, tập trung quân cơ động chiến lược để giành lại chủ động.
Phương hướng chiến lược của ta là vững quyền chủ động tiến công địch,
trên những hướng mà địch sơ hở nhưng hiểm yếu, buộc địch phải bị động
đối phó lại, phải “đồi từng ngón tay” đến “xịe cả bàn tay” để khơng cịn
khả năng “đấm” vào vùng tự do của ta.
Trong thời gian đầu của chiến cuộc chủ trương tác chiến của ta nhằm
tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phân tán lực lượng
nhưng tránh đánh vào nơi địch phòng ngự mạnh như tập đoàn cứ điểm.
Khi lực lượng cơ động chiến lược của địch đã bị phân tán thì ta có điều
kiện tập trung cao độ chủ lực (gần 5 đại đoàn trên 7 đại đoàn) để kiên
quyết tiến cơng tiêu diệt tập đồn cứ điểm mạnh nhất của quân Pháp trên
chiến trường Đông Dương. Kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích và chiến
6
tranh chính quy, phối hợp nhịp nhàng giữa mặt trận chính diện và mặt
trận sau lưng địch, giữa các hướng chiến lược trên tồn chiến trường
Đơng Dương là thành cơng nổi bật trong chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác
chiến của ta trong chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954. Sự chỉ đạo kết hợp
hai phương thức chiến tranh của ta đã tạo nên thế trận chiến tranh nhân
dân vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, vừa có khả năng tập trung cao
lại có thể nhanh chóng phân tán khi cần.
Thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 khẳng định tầm
nhìn chiến lược và sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng ta trong xây dựng - phát
huy sức mạnh to lớn của hậu phương chi viện đầy đủ và kịp thời cho tiền
tuyến. Chủ trương “vừa kháng chiến vừa xây dựng” là tư duy chiến lược,
sự chỉ đạo sắc bén và khoa học của Đảng, là quy luật phát triển tất yếu
của cuộc kháng chiến của một dân tộc có nền kinh tế chưa phát triển
chống lại mọi kẻ thù mạnh. Thắng lợi to lớn trong Đông Xuân 1953 1954 của ta đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt
chiến tranh xâm lược. Điều đó thể hiện tính nghệ thuật vì nó phản ánh
đúng so sánh lực lượng địch ta trên chiến trường và hồn cảnh quốc tế lúc
đó, đồng thời thể hiện đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế của
Đảng ta, bảo đảm được thắng lợi của kháng chiến.
Trong thời kỳ này nghệ thuật chiến dịch có bước phát triển nhảy vọt
chủ yếu là nghệ thuật chiến dịch tiến công. Quân đội ta đã nỗ lực rất để
tiến hành chiến dịch đúng thời gian, gây bất ngờ cho địch, duy trì được
nhịp độ tiến cơng (hoặc truy kích), đạt được hiệu suất chiến dịch- chiến
đấu cao ở cả ba mục tiêu: tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, thu hút phân
tán địch.
Về mặt nghệ thuật, ta đã giải quyết thành công việc tổ chức tiến hành
chiến dịch trong trường hợp hầu như khơng có thời gian chuẩn bị. Trong
các chiến dịch từ tiến công chuyển sang tập kích, quân ta đã biết lợi dụng
đường tắt, vượt lên trước địch, đuổi địch trên nhiều hướng, chia cắt đội
7
hình rút chạy của chúng. Kết hợp truy kích với chốt chặn, đón lõng, kết
hợp đánh địch với gọi hàng và truy quét tàn quân, kết hợp diệt địch rút
chạy với chặn đánh quân tiếp viện nên đã tiêu diệt được hầu hết các lực
lượng địch rút chạy, rút ngắn được thời gian và đường truy kích. Đỉnh cao
phát triển nghệ thuật chiến dịch trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954
và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp thể hiện tập trung trong chiến
dịch Điện Biên Phủ.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ bộ đội ta đã tiến công vào tập đồn
cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đơng Dương. Một chiến dịch tiến công
trận địa được tiến hành bằng một loạt trận chiến đấu tiêu diệt địch phòng
ngự trong công sự vững chắc. Lúc đầu ta chủ trương “đánh nhanh thắng
nhanh” nhưng sau đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chuyển sang phương
châm “đánh chắc tiến chắc”.
Về mặt nghệ thuật chiến dịch, đánh chắc tiến chắc cho phép ta tạo ra
ưu thế không chỉ về binh lực mà cả về hỏa lực trong từng trận đánh. Đánh
chắc tiến chắc, ta có điều kiện để điều tra, nghiên cứu nắm chắc địch ở
mục tiêu định tiến cơng, có thời gian chuẩn bị chu đáo, bảo đảm chắc
thắng mới đánh, rút kinh nghiệm của trận trước bổ khuyết cho trận sau.
Cách đánh chung của chiến dịch Điện Biên Phủ là: vây hãm kết hợp với
đột phá lần lượt có trọng điểm từ ngoài vào trong, tiêu diệt từng bộ phận,
làm suy yếu địch, tiến tới tổng cơng kích tiêu diệt tồn bộ địch. Để thực
hiện vây hãm, quân ta đã sớm hình thành thế bao vây. Xây dựng trận địa
tiến cơng và bao vây ngày càng siết chặt từng cụm cứ điểm và cả tập
đoàn cứ điểm, chia cắt thế trận liên hoàn của chúng. Hệ thống chiến hào
là trận địa xuất phát tiến công được bộ đội ta đào qua các hàng rào, sân
bay, vật cản của cứ điểm địch, góp phần đột phá để tiêu diệt địch nhanh.
Nó cịn là trận địa ngăn chặn tiếp viện, tiếp tế của địch, chia cắt địch, mới
để ta triển khai bắn tỉa, quấy rối, tập kích. Để đột phá, ta tập trung ưu thế
binh hỏa lực, đánh chắc thắng, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, tiến
8
tới tiêu diệt khu vực trọng yếu của địch. Vây hãm, tạo điều kiện cho đột
phá thắng lợi, tạo cho vây hãm chặt hơn, hiểm hơn.
Quá trình chiến dịch Điện Biên Phủ đã xuất hiện những chiến thuật
mới như vây lấn, tiêu diệt từng cứ điểm, cắt đôi, vô hiệu hóa cả sân bay;
phịng ngự trận địa để giữ vững trận địa bao vây tiến công của ta; đánh
địch phản kích, bắn tỉa, đột kích bất ngờ của từng tổ nhỏ vào vị trí địch
Những chiến thuật độc lập và hiệp đồng của pháo binh, phịng
khơng, cơng binh cũng có sự phát triển, được bộ đội ta vận dụng linh hoạt
phong phú.
1.4 Nghệ thuật sử dụng lực lượng
Trong thời kỳ này ta động viên được đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia một cách sôi nổi, mạnh mẽ; lực lượng chính trị được phát triển
sâu, rộng đã tạo cơ sở để lực lượng vũ trang từng bước phát triển cả ở
nông thôn, thành thị cũng như trung du và rừng núi.
Tiếp đó, ngay sau Lời kêu gọi (Quân lệnh số 1) của Ủy ban khởi
nghĩa toàn quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Ủy ban
khởi nghĩa các cấp, lực lượng chính trị quần chúng tiếp tục được mở rộng
với quy mô lớn hơn, rộng khắp các địa phương trên phạm vi toàn quốc,
tạo sức mạnh to lớn trong cuộc đấu tranh quyết liệt với quân thù.
Lực lượng vũ trang ba thứ quân được sử dụng trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) gồm bộ đội chủ lực, thanh niên
xung phong, dân quân du kích. Với sự tham gia đơng đảo của quần
chúng, cần phải có lực lượng vũ trang bảo vệ lực lượng chính trị, tạo
động lực, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, làm nòng cốt để chiến đấu tiêu
diệt những kẻ chống lại, giành chính quyền.
Nghệ thuật tổ chức tồn dân đánh giặc có tổ chức, có tính khoa học,
tính thống nhất và chặt chẽ, làm cho toàn dân ta triệu người như một, tạo
sức mạnh tổng hợp lớn nhất để đánh địch, thắng địch.
9
1.5 Nghệ thuật vận dụng các hình thức chiến thuật, phương thức
tác chiến
Trong cuộc kháng chiến, tùy thuộc vào tình hình cụ thể, từng trận
đánh mà ta vận dụng các hình thức đánh phù hợp như: tập kích, phục kích
địch, đồng thời thực hành các trận phòng ngự bảo vệ những vị trí quan
trọng. Với cách đánh “trùng độc chiến”, đánh cả mặt trước và mặt sau
lưng địch, khiến quân Pháp ln bị phân tán. Về hình thức, phương thức
hoạt động tác chiến: du kích chiến vẫn là căn bản nhưng tìm mọi cơ hội
để đánh vận động chiến, tiêu diệt địch; triển khai du kích khắp nơi, dùng
binh lực lớn đánh vận động chiến nhưng không mạo hiểm; địa lôi chiến;
phá hoại tiêu thổ đô thị nhỏ; đánh giao thơng vận tải... Nhờ vận dụng
sáng tạo hình thức chiến thuật trong từng trận đánh mà quân dân ta đã
tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giam chân địch dài ngày trong
thành phố, bảo toàn quân chủ lực, tạo điều kiện để cơ quan, kho tàng,
công xưởng và nhân dân di chuyển an toàn lên khu căn cứ, tổ chức kháng
chiến lâu dài.
74 năm trôi qua nhưng sự kiện mở đầu toàn quốc kháng chiến vẫn để
lại những bài học kinh nghiệm q giá. Bài học đó khơng chỉ có giá trị
lịch sử mà cịn có giá trị hiện thực sâu sắc để vận dụng, phát huy trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
II. Bài học rút ra từ quân sự trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp 1946-1954
- Đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối cho
toàn Đảng, toàn qn, tồn dân thực hiện. Đó là đường lối chiến tranh
nhân dân, kháng chiến toàn dân toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là
chính.
- Kết hợp chặt chẽ đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ
chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống
10
cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế
quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ
mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài.
Đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành
chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với
đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và
hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
III. Phát huy những bài học về “Nghệ thuật quân sự” trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 vào diễn biến hịa bình
hiện nay.
Về mặt nghệ thuật, ta đã giải quyết thành công việc tổ chức tiến hành
chiến dịch trong trường hợp hầu như khơng có thời gian chuẩn bị. Việc
giao nhiệm vụ, tổ chức hiệp đồng, tổ chức bảo đảm từ cấp trung đoàn trở
xuống được triển khai ngay trong quá trình hành quân tiếp cận địch.
Trong các chiến dịch từ tiến công chuyển sang tập kích, quân ta đã
biết lợi dụng đường tắt, vượt lên trước địch, đuổi địch trên nhiều hướng,
chia cắt đội hình rút chạy của chúng. Kết hợp truy kích với chốt chặn,
đón lõng, kết hợp đánh địch với gọi hàng và truy quét tàn quân, kết hợp
diệt địch rút chạy với chặn đánh quân tiếp viện nên đã tiêu diệt được hầu
hết các lực lượng địch rút chạy, rút ngắn được thời gian và đường truy
kích.
Đỉnh cao phát triển nghệ thuật chiến dịch trong chiến cuộc Đông
Xuân 1953 - 1954 và trong 9 năm kháng chiến chống Pháp thể hiện tập
trung trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ bộ
đội ta đã tiến công vào tập đồn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đơng
11
Dương. Một chiến dịch tiến công trận địa được tiến hành bằng một loạt
trận chiến đấu tiêu diệt địch phòng ngự trong công sự vững chắc.
Lúc đầu ta chủ trương “đánh nhanh thắng nhanh” nhưng sau đó, Bộ
Tư lệnh chiến dịch đã chuyển sang phương châm “đánh chắc tiến chắc”.
Về mặt nghệ thuật chiến dịch, đánh chắc tiến chắc cho phép ta tạo ra
ưu thế không chỉ về binh lực mà cả về hỏa lực trong từng trận đánh. Đánh
chắc tiến chắc, ta có điều kiện để điều tra, nghiên cứu nắm chắc địch ở
mục tiêu định tiến cơng, có thời gian chuẩn bị chu đáo, bảo đảm chắc
thắng mới đánh, rút kinh nghiệm của trận trước bổ khuyết cho trận sau.
Cách đánh chung của chiến dịch Điện Biên Phủ là: vây hãm kết hợp
với đột phá lần lượt có trọng điểm từ ngoài vào trong, tiêu diệt từng bộ
phận, làm suy yếu địch, tiến tới tổng cơng kích tiêu diệt toàn bộ địch.
Để thực hiện vây hãm, quân ta đã sớm hình thành thế bao vây. Xây
dựng trận địa tiến công và bao vây ngày càng siết chặt từng cụm cứ điểm
và cả tập đoàn cứ điểm, chia cắt thế trận liên hoàn của chúng.
Hệ thống chiến hào là trận địa xuất phát tiến công được bộ đội ta đào
qua các hàng rào, sân bay, vật cản của cứ điểm địch, góp phần đột phá để
tiêu diệt địch nhanh. Nó cịn là trận địa ngăn chặn tiếp viện, tiếp tế của
địch, chia cắt địch, mới để ta triển khai bắn tỉa, quấy rối, tập kích.
Để đột phá, ta tập trung ưu thế binh hỏa lực, đánh chắc thắng, tiêu
diệt từng bộ phận sinh lực địch, tiến tới tiêu diệt khu vực trọng yếu của
địch. Vây hãm, tạo điều kiện cho đột phá thắng lợi, tạo cho vây hãm chặt
hơn, hiểm hơn. Quá trình chiến dịch Điện Biên Phủ đã xuất hiện những
chiến thuật mới như vây lấn, tiêu diệt từng cứ điểm, cắt đơi, vơ hiệu hóa
cả sân bay; phòng ngự trận địa để giữ vững trận địa bao vây tiến cơng của
ta; đánh địch phản kích, bắn tỉa, đột kích bất ngờ của từng tổ nhỏ vào vị
trí địch v.v...
12
Những chiến thuật độc lập và hiệp đồng của pháo binh, phịng
khơng, cơng binh cũng có sự phát triển, được bộ đội ta vận dụng linh hoạt
phong phú.
Công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung của cả hệ
thống chính trị và tồn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và
Quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp. Trong bối cảnh tình hình an ninh
chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhất là việc tranh
chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Ðông, cùng sự chống phá quyết liệt
của các thế lực thù địch, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của lực
lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là Quân đội nhân dân. Trên cơ sở bám
sát chức năng, nhiệm vụ, Quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc nội
dung các chiến lược, phối hợp với các lực lượng liên quan nắm chắc tình
hình thế giới, khu vực, trong nước, dự báo chính xác xu hướng vận động,
phát triển của tình hình, tham mưu cho Ðảng, Nhà nước các đối sách, giải
pháp chiến lược, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của các chiến lược đề
ra; xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phịng, an ninh, khơng để
bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Trong đó,
tập trung vào những khu vực, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh,
nhất là khu vực biên giới, biển, đảo. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân,
đặc biệt là cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trị nịng cốt, tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc
phòng, quân sự, xây dựng khu vực phòng thủ, xác định các biện pháp giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Trong giai đoạn hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đang
tiến hành đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Ðại hội XIII của Ðảng,
toàn quân cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm
các chế độ, nền nếp sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát quyết tâm,
phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống cháy nổ, tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn, phịng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng,
13
hiệu quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng xử lý thắng lợi các tình
huống. Ðặc biệt, cần tập trung xây dựng, tổ chức luyện tập chặt chẽ,
nghiêm túc phương án, kế hoạch bảo vệ đại hội đảng các cấp, quyết tâm
bảo vệ an toàn tuyệt đối đại hội đảng các cấp - nhiệm vụ chính trị trọng
tâm trong năm của Ðảng, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang
và toàn dân. Toàn quân đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phát hiện,
xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, khơng để bị động, bất ngờ, bảo vệ
vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục tổ
chức xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, trong đó có một số lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, bảo
đảm cho quân đội ta có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao,
đúng chủ trương tinh, gọn bộ máy của Trung ương, phù hợp với khả
năng, điều kiện của đất nước, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. - Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tổng kết tồn
diện, trong đó tập trung vào nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc; hoạt
động quân sự, quốc phòng; xây dựng, hoạt động của khu vực phịng thủ;
xây dựng nền quốc phịng tồn dân; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân
dân; nghệ thuật quân sự; đối tượng, đối tác,... Trong quá trình thực hiện,
chú ý tính tồn diện, sâu sắc, nghiêm túc; đánh giá trung thực, khách
quan; chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh
nghiệm, làm cơ sở điều chỉnh mục tiêu, yêu cầu, phương hướng, nhiệm
vụ, giải pháp, khâu đột phá cho giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược
quân sự là kế sách, mưu lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước
chưa nguy; là kết tinh truyền thống dân tộc với ý Ðảng, lòng dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả các chiến lược này là trách nhiệm của tồn Ðảng, tồn
dân, nịng cốt là lực lượng vũ trang trước Tổ quốc; góp phần tăng cường
14
tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng
đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
KẾT LUẬN
Trong mỗi thời kỳ lịch sử, dân tộc ta đều có phương thức đấu tranh
phù hợp để bảo vệ non sơng, gấm vóc và cuộc sống yên bình của nhân
dân. Đây là cơ sở hình thành, phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo Việt
Nam – hệ giá trị văn hóa giữ nước – văn hóa qn sự có một khơng hai
trên thế giới. Nhờ có đường lối, nghệ thuật quân sự đúng đắn, Đảng ta đã
huy động và tổ chức toàn dân tham gia kháng chiến, tạo nên sức mạnh
tổng hợp để đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước,
tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Linh hoạt “thế, lực, thời, mưu” Nghệ
thuật quân sự Việt Nam đặc sắc ở chỗ vận dụng linh hoạt “thế, lực, thời,
mưu”, với nhiều cách đánh sáng tạo để giành thắng lợi với tổn thất ít
nhất.
Đây cũng là nét tiêu biểu nhất thể hiện đậm đà bản sắc văn hóa giữ
nước Việt Nam. Và xuất phát từ đạo lý “thương người như thể thương
thân”, “tương thân, tương ái,” trong các cuộc chiến tranh nói chung, các
trận đánh nói riêng, nghệ thuật quân sự Việt Nam vừa thể hiện quyết tâm
giành thắng lợi, vừa cố gắng hạn chế thấp nhất tổn thất cho cả hai bên. Và
khi thắng lợi luôn ứng xử mang đậm tính nhân văn, bác ái giữa con người
với con người nhằm xóa bỏ thù hận, mau chóng nối lại hòa hiếu bang
giao giữa hai quốc gia, dân tộc.
Mặc dù trong thời đại hiện nay, thời đại hịa bình, hội nhập và cùng
nhau phát triển triển khơng cịn binh đao, đạn pháo nhưng nghệ thuật
quân sự vẫn luôn hiện hữu trong các chính sách chiến lược đường lối về
15
quốc phòng ngoại giao. Nghệ thuật quân sự thời nay cũng như được biến
tấu để thích nghi hịa nhập. Đây là nét đẹp truyền thống, bản sắc văn hóa
quân sự của dân tộc, được các thế hệ duy trì thực hiện và phát triển.
16