Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI GIẢNG LỊCH sử ĐẢNG CHUYÊN đề CUỘC vận ĐỘNG THÀNH lập ĐẢNG 1920 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.83 KB, 13 trang )

1
Chuyên đề 2

CUỘC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG (1920-1930)
1. Mục đích, u cầu:
- Nắm vững q trình đồng chí Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước,
chuẩn bị thành lập Đảng và những nội dung cơ bản về sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và ý nghĩa của việc thành lập Đảng.
- Chấp hành đúng qui chế huấn luyện.
2. Nội dung: Gồm 3 phần (trọng tâm phần 2)
3.Thời gian: 04 tiết.
4. Phương pháp: Quy nạp, diễn dịch
5.Tài liệu:
MỞ ĐẦU
Ngày 03.02.1930 Đảng Cộng sản Việt nam ra đời. Đó là kết quả của cuộc
đấu tranh dân tộc và cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại mới: là kết quả của sự
lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử về con đường cứu nước giải phóng
dân tộc; Đó là kết quả của sự chuẩn bị tích cực và đầy đủ về chính trị tư tưởng, tổ
chức; là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lê nin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt nam.
Ngay từ khi ra đời, với cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo,
Đảng Cộng sản Việt nam đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc,
mở đường đi tới CNXH.
I. Tình hình thế giới và trong nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1. Tình hình thế giới
a. Tình hình thế giới.
- Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa). Các nước tư bản đế quốc, bên
trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức
nhân dân các dân tộc thuộc địa.
- Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống giữa các




2
dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Năm 1917, cách mạng Tháng mười Nga thành cơng có ảnh hưởng sâu
sắc tới phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II Quốc tế
cộng sản (1920), sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin được công bố. Luận cương đã chỉ ra phương hướng đấu tranh
giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
2. Sự phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam
Từ giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược nước ta, xã hội Việt nam
trở thành xã hội thuộc địa nữa phong kiến( Phong kiến phụ thuộc vào tính chất
thuộc địa, là tay sai chịu sự điều khiển của thực dân Pháp ) - Biểu hiện:
- Về chính trị:
+ Thực hiện chính sách chuyên chế cai trị trực tiếp.
+ Thực hiện chính sách chia để trị làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
- Về kinh tế: Thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế đối với các lĩnh
vực và duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp thiết lập hạn chế phương
thức sản xuất TBCN.
- Về văn hố: Thi hành chính sách ngu dân dể trị.
+ Mở rất ít trường học, mà chủ yếu chỉ để dạy cho con em giai cấp
thống trị.
+ Gây tâm lý tự ti vong bản
+ Du nhập văn hoá thực dân và ngăn cản tư tưởng văn hoá tiến bộ
nhằm làm cho nhân dân ta bị đồi phong bại tục
Do chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với nước ta nên kết cấu xã hội
Việt nam có sự biến đổi sâu sắc: Ngồi hai giai cấp vốn có trong xã hội là nông

dân và địa chủ phong kiến, nay xuất hiện thêm giai cấp công nhân, tư sản và tiểu


3
tư sản, từng giai cấp có địa vị kinh tế, thái độ chính trị, xã hội khác nhau.
Nên xã hội Việt nam xuất hiện hai mâu thuẩn cơ bản ngày càng gay gắt là:
Dân tộc ta > < thực dân Pháp và tay sai.
Nhân dân ta (Nông dân) > < Địa chủ, phong kiến.
Hai mâu thuẩn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn:
Dân tộc ta > II. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX
1. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân
chủ tư sản
Phong trào yêu nước của nông dân và các sĩ phu tiến bộ.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn bạc nhược,
ươn hèn, từng bước đầu hàng, nhưng nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên kháng
chiến dưới ngọn cờ của các sĩ phu yêu nước để bảo vệ Tổ quốc, điển hình là:
- Phong trào chống Pháp ở Nam kỳ 1861 - 1868.
- Phong trào Cần Vương ở Bắc kỳ và Trung kỳ 1885 - 1896.
- Phong trào khởi nghĩa Nông dân Yên thế 1883 - 1913.
Và nhiều cuộc khởi nghĩa khác diễn ra ở khắp nơi nhưng cuối cùng đều
thấy bại do khơng có đường lối cứu nước đúng đắn và một giai cấp tiên tiến
lãnh đạo.
* Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản.
- Phong trào bạo động của Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ 1905 1912.
+ Mục tiêu: Giành độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển lên TBCN.
+ Phương pháp: Dựa vào Nhật để đánh Pháp.
HCM: “Đưa Hố cửa trước, rước Beo cửa sau”
Nhật Pháp đã cấu kết với nhau trục xuất những người yêu nước Việt

nam ra khỏi nước Nhật ( 12.1909 Phan Bội Châu phải rời Nhật bản sang Thái


4
lan đến năm 1912 phong trào hoàn toàn bị thất bại )
- Phong trào Cải lương của Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh
Thúc Kháng (1906 1908) với tư tưởng “Bạo động là tắc tử”
+ Mục tiêu: giành độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển theo con
đường TBCN.
+ Phương pháp: Dựa vào Pháp để canh tân đất nước, sau đó u cầu
Pháp trao trả độc lập mà khơng cần bạo lực cách mạng.
HCM: “Xin giặc rủ lòng thương..
Các phong trào yêu nước trên đã cổ vũ động viên lịng u nước của nhân
dân ta, đã kích vua quan thối nát, bài trừ hủ tục, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản
với yêu cầu khai dân trí, chấn dân khí,hậu dân sinh tiến tới đuổi qn Pháp khơi
phục nền độc lập của Tổ quốc.Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp, các phong trào
yêu nước đó lần lượt thất bại.
Thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
đã khẳng định: Con đường dân chủ tư sản cũng không thể cứu được đất nước.
Tóm lại: Lịch sử cho thấy trước năm 1930, các phong trào yêu nước
Việt nam theo nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau diễn ra sôi nổi đều khắp
trong cả nước, chứng tỏ tinh thần quật cường của dân tộc Việt nam.
Đồng thời chỉ rõ những hạn chế lịch sử của phong trào yêu nước Việt nam.
Một trong những hạn chế và nguyên nhân cơ bản, dẫn tới sự thất bại
của các phong trào yêu nước đương thời, là những người u nước lúc đó chưa
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội. Cách
mạng Việt nam đứng trước một cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và sự phát triển
phong tào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, quê ở xã Kim Liên,

huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc còn nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi
học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan đau xót


5
trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 5/6/ 1911 Nguyễn Tất Thành rời dất
nước ra đi tìm đường cứu nước.
Từ tháng 6 năm 1911 đến tháng 12 năm 1920, là quá trình từng bước
chuyển biến về lập trường quan điểm của Nguyễn ái Quốc, từ giác ngộ dân tộc
đến giác ngộ giai cấp, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Những kết luận quan trọng đánh dấu các mốc về sự chuyển biến
tư tưởng của Người là:
- Kết luận thứ nhất (1911 - 1916): Ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô
nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức bóc lột dã
man. Bởi vậy, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở đâu cũng là bạn.
Kết luận này được rút ra khoảng năm 1916. Sau nhiều năm đi nhiều nơi
như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ- la- tinh và làm nhiều nghề khác nhau như:
phụ bếp, làm vườn, quét tuyết, đốt lò...Qua khảo sát thực tiễn Nguyễn ái Quốc
đã phát hiện cảnh bất công trong các nước tư bản chủ nghĩa và sự cùng khổ của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước không phân biệt màu da. Đây
là kết luận quan trọng đầu tiên, đặt cơ sở cho quan niệm đúng đắn về bạn – thù,
xác định đúng đối tượng, lực lượng cách mạng, về sự kết hợp cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới.
- Kết luận thứ hai (1917 - 1919): Những lời tuyên bố tự do, dân chủ,
bình đẳng của bọn đế quốc chỉ là luận điệu giả dối. Muốn có tự do, độc lập
thực sự, các dân tộc bị áp bức phải trơng cậy vào lực lượng của chính bản
thân mình, người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình.
Kết luận này rút ra cuối 1918 đầu 1919 khi người tham gia Đảng xã hội

Pháp, nghiên cứu công xã Pari và cách mạng Tháng Mười Nga. Tại Hội nghị Véc
xây (các nước thắng trận thế chiến I hay chia lại thị trường). Đồng chí Nguyễn ái
Quốc đưa bản yêu sách 8 điểm, đời Pháp và chủ nghĩa thực dân phải thừa nhận
quyền tự do bình đẳng của dân tộc Việt Nam, nhưng khơng được chấp nhận. Đây là
địn tấn cơng trực diện đầu tiên của Người vào bọn trùm đế quốc, là người Việt


6
Nam đầu tiên dám nói tiếng, nói chính quyền, những khát vọng cháy bỏng của các
dân tộc bị áp bức, nên dã có tiếng vang rất lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân
Pháp và các nước thuộc địa của Pháp. Kết luận này có ý nghĩa quan trọng là vạch
trần bản chất phản động không thay đổi của chủ nghĩa đế quốc, nhận rõ bộ mặt thật
của chúng, khẳng định tính chủ động cách mạng của các dân tộc thuộc địa. Phê
phán quan điểm hy vọng của kẻ thù ban ơn cho độc lập dân tộc hoặc tư tưởng coi
trọng cách mạng chính quyền, coi nhẹ cách mạng thuộc địa của Quốc tế II.
- Kết luận thứ III (1920): Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng
có con đường nào khác, con đường cách mạng vô sản. Chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Trong thời đại ngày nay giai cấp
công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi đến
thắng lợi cuối cùng.
Đây là kết luận rút ra sau khi người đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin trên báo Nhân đạo (7/1920),
từ đó tạo ra bước chuyển căn bản trong nhận thức của Nguyễn ái Quốc. Tháng
12/1920, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản
đầu tiên của Việt Nam. Kết luận này đã khẳng định dứt khoát con đường cứu nước
ở Việt Nam là con đường cách mạng vơ sản. Khẳng định vai trị sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, mở đường đưa chủ nghĩa
Mác – Lênin vào Việt Nam, tạo ra bước ngoặt lịch sử của dân tộc.
. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và Việt Nam và

chuẩn bị thành lập Đảng.
Từ năm 1920, sau khi đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn ái Quốc vừa tiếp tục hoạt
động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu học tập, bổ sung và hoàn thiện tư
tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện về chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng tiền phong cách mạng.
* Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc từng bước phác thảo đường lối cứu nước


7
từ sau năm 1920, thể hiện tập trung trong tập bài giảng của Người cho những cán
bộ cốt cán của “Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên” tại Quảng Châu (Trung
Quốc). Đường lối cứu nước Hồ Chí Minh thể hiện những nội dung cơ bản sau:
- Một là, chỉ có cách mạng vơ sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của
đại đa số dân chúng. Đây chính là điểm xuất phát của con đường cách mạng
Nguyễn Ái Quốc và nó khác hồn tồn với các con đường cứu nước trước đó.
- Hai là, mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là sau
khi hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc phải đưa nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.
- Ba là, về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mạng, học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mạng là việc
chung của dân chúng, không phải là việc của một hai người.
- Bốn là, về phương pháp cách mạng muốn thắng lợi phải giác ngộ và tổ
chức quần chúng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng
tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải biết cách làm, lúc
nào làm và lúc nào chưa nên làm.
- Năm là, đoàn kết quốc tế “cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận
của cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân
An Nam cả”.

- Sáu là, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có vững
cách mạng mới thành cơng. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai
cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sáu điểm trên thể hiện sâu sắc tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi trong đường lối cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc. Thực hiện đã chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã
mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng đường lối ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
* Về tư tưởng: Sau khi tiếp thu được lý luận Mác - Lênin và trở thành
người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin về nước bằng sách, báo...do Người viết trong thời kỳ này như: Báo
“Người cùng khổ”, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách


8
mệnh”, truyện ngắn “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, vở kịch “con Rồng
tre”...để truyền bá một cách có hệ thống tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đồng thời qua sách
báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp; liên kết cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa với cách mạng vô sản ở các nước đế quốc; vạch ra phương hướng
hành động của nhân dân các nước thuộc địa; kêu gọi nhân dân Việt Nam và
nhân dân các thuộc địa phải tự đứng dậy giải phóng cho mình.
* Về tổ chức: Từ năm 1925 trở đi, Nguyễn ái Quốc tập trung vào vấn đề
lớn có ý nghĩa quyết định là huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng, lực lượng
nịng cốt để hình thành tổ chức tiền thân của Đảng. Tháng 6/1925, khi điều kiện
đã chín muồi, Người lập ra tổ chức “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”, nịng
cốt là “Cộng sản đồn”. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ báo
“Thanh niên”, phần lớn các cán bộ trẻ tuổi đã qua huấn luyện trở về nước để
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Người vào phong trào công
nhân, phong trào nông dân các tầng lớp nhân dân lao động khác. Từ năm 1926
đến năm 1929, Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước.
Năm 1928, Hội đề ra chủ trương “vơ sản hố” để rèn luyện những trí thức tiêu tư
sản về lập trường giai cấp công nhân và từng bước kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin

với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là cách làm sáng tạo của
Người khi sáng lập Hội nhằm cuẩn bị tiền đề về tổ chức để tiến tới thành lập
Đảng.
Cách mạng Việt Nam thực sự chuyển biến mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức
thiết phải tổ chức ra chính đảng của giai cấp công nhân, những điều kiện về chính
trị, tư tưởng, tổ chức dần dần chín muồi vào cuối năm 1929 đầu năm 1930
3. Các tổ chức Cộng sản Việt Nam ra đời
- Ngày 17.06.1929, tại số nhà 312 Khâm thiên, Hà nội đại biểu cơ sở
cộng sản ở Bắc kỳ đã tổ chức Đại hội và quyết định thành lập Đơng Dương
Cộng sản Đảng, thơng qua chính cương, tun ngơn mang tính thống nhất


9
trong cả nước.
- Mùa thu 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam kỳ.
- 01.01.1930, Đông Dương Cộng sản Liên đồn được thành lập ở
Trung kỳ.
Tóm lại: Trong một thời gian ngắn ở Việt nam đã có ba tổ chức Cộng
sản tuyên bố thành lập, phản ánh yêu cầu khách quan và xu thế tất yếu của
phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt nam.
Nhưng sự tồn tại cùng lúc của ba tổ chức Cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn cần phải được khắc phục
để bảo đảm sự phát triển của phong trào cách mạng Việt nam. Đặt ra yêu cầu
bức thiết cần có một Đảng thống nhất trong cả nước.
Trước tình hình phát triển của phong trào cách mạng ở Việt nam Quốc tế
Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức Cộng sản ở Đông dương nêu rõ: Nhiệm vụ
quan trọng và cấp bách của tất cả những người Cộng sản ở Đông dương là sáng
lập một Đảng cách mạng của giai cấp vơ sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính
quần chúng ở Đông dương. Đảng ấy phải là một Đảng duy nhất ở Đơng dương,
chỉ có Đảng ấy là tổ chức Cộng sản mà thơi.

NAQ là người duy nhất có đủ uy tín và năng lực để được giao nhiệm
vụ lớn lao tổ chức hợp nhất ba tổ chức Cộng sản ở Đông Dương. Người đã
được uỷ nhiệm làm việc
III. Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930)
Họp từ 06.01- 07.02.1930 tại bán đảo Cửu long, Hương cảng (TQ)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là đại diện của Quốc
tế Cộng sản. Hội nghị đã đi đến thống nhất:
- Nhất trí hợp nhất tất cả các tổ chức Cộng sản ở Đông dương thành
một Đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt nam (03.02.1930 ).
- Thơng qua chính cương vắt tắt, sách lược vắn tắt, chương trình tóm
tắt và điều lệ vắn tắt của Đảng.


10
- Thơng qua điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng do NAQ soạn thảo.
- Định ra kế hoạch lập ra UBTƯ lâm thời của Đảng.
- Ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng của NAQ được viết sau đó ít ngày.
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
* Nội dung cơ bản của chánh cương, sách lược vắn tắt (Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng )
- Mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt nam: chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản
Cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản chính là
làm cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên CNXH, giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng xã hội gắn liên với nhau nhằm mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH.
(Đây chính là sự lựa chọn dứt khoát của lãnh tụ NAQ và Đảng ta ngay
từ đầu).
- Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến làm cho nước nam hoàn toàn độc lập.

Chống ĐQ và phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày.
- Lực lượng cách mạng: Đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng
tiến bộ, cá nhân yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
- Phương pháp cách mạng: Bằng con dường cách mạng, bằng bạo lực
cách mạng chứ không thể bằng con đường cải lương thoả hiệp.
“Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”
- Mối quan hệ của cách mạng: cách mạng Việt nam liên lạc mật thiết và
là một bộ phận của cách mạng thế giới.
“Đảng liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới”
(Nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và mang bản chất quốc tế của giâi
cấp công nhân.)
- Vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai


11
cấp phải thu phục cho được đại bộ phân giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được quần chúng”
->Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải
quyết những vấn đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho
tiến trình phát triển của cách mạng Việt nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt nam có ý nghĩa lịch sử
to lớn, các tổ chức Cộng sản được qui tụ lập nên một Đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt nam, thông qua một đường lối chính trị đúng đắn là cơ sở để
thống nhất về tư tưởng và hành động của phong trào cách mạng Việt nam.
Tóm lại: Sự ra dời của Đảng Cộng sản Việt nam năm 1930 là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở nước ta trong thời đại mới; là
sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lê nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt nam.
2. Ý nghĩa, kinh nghiệm. lịch sử ĐCSVN ra đời

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của
cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới.
- Sự ra đời của ĐCSVN là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt
nam: Đảng ra đời với đường lối đúng đắn ngay từ đầu đã chấm dứt sự khủng
khoảng về đường lối cứu nước trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
“Cách mạng Việt nam đen tối như khơng có đưịng ra, chấm dứt thời kỳ
bế tắc, khủng khoảng về đường lối cứu nước hơn 2/3 thế kỷ”
- Đảng ra đời là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối tồn bộ qúa trình
phát triển của cách mạng Việt nam từ đó về sau.
- Đảng Cộng sản VN ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp
công nhân Việt nam, từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác và xác lập vai trị
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân VN, qui tụ tồn bộ phong trào cơng nhân và
phong trào yêu nước VN dưới sự lãnh đạo của một tổ chức tiên phong.
- Đảng Cộng sản VN ra đời, cách mạng VN trở thànhởboj phận khăng


12
khít của cách mạng thế giới. tạo ra khả năng kết hợp các nhân tố giai cấp, dân
tộc, quốc tế tạo sức mạnh tổng hợp của cách mạng VN để giành thắng lợi.
Lãnh tụ NAQ

Việc thành lập Đảng ta là một bước ngoặt vô cùng

quan trọng trong lịch sử cách mạng VN ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vơ sản ta
đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng..
- Một là, Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, tổng kết thực tiển,
kết hợp tinh hoa của nhân loại với tinh hoa của dân tộc là những yếu tố giúp
NAQ tìm được con đường cứu nước đúng đắn, đặt tiền lệ cho truyền thống độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng từ đó về sau.
- Hai là, Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản tiền bối có phương

pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đúng đắn, sáng tạo vào cả phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Ba là, Đảng Cộng sản VN ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN; là
sản phẩm của sự thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, phù hợp với xã
hội thuộc địa, nữa phong kiến ở VN.
- Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam sớm xác định được đường lối cách
mạng đúng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Năm là, Sự đoàn kết thống nhất Đảng Cộng sản VN là nhân tố quyết
định sự đoàn kết thống nhất phong trào cách mạng cả nước.

KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản VN ra đời là kết quả của sự chuẩn bị công phu và đầy
đủ của lãnh tụ NAQ và các nhà cách mạng tiền bối của VN cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Đảng ra đời trong đấu tranh chống ĐQ Pháp, chống chủ
nghĩa cải lương, chống lại việc giành quyền lãnh đạo của giai cấp TS v TTS.
Vỡ vy, ảng ta đợc tôi luyện, thử thách và sàng lọc trong đấu
tranh, xứng đáng là đội tiên phong và bộ tham mu chiến đấu


13
của giai cấp công nhân; giữ quyền lÃnh đạo đối với toàn thể
dân tộc Việt nam.


14




×