1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Án ngữ trên đỉnh cao nguyên Pleiku hùng vĩ, tỉnh Gia Lai được coi
như là nóc nhà của đồng bằng Bình Định – Phú Yên và các tỉnh Đông Bắc
Campuchia. Nhắc đến Gia Lai người ta thường hay nói đến những đại ngàn
hùng vĩ với đất đỏ bazan, quê hương đàn đá, xứ sở của cồng chiêng và sử thi...
Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng, là một phần “máu thịt” của
Việt Nam. Nơi đây có đồng bào các dân tộc ít người sinh sống, tài nguyên đa
dạng phong phú, mảnh đất mới màu mỡ với một vị trí chiến lược về quốc phòng
an ninh, kinh tế xã hội đối ngoại. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, sự gia
nhập đầy đủ của vùng đất này vào đại gia đình Việt Nam muộn nhất so với các
vùng miền khác. Cho đến khi Chính quyền Ngơ Đình Diệm xóa bỏ quy chế
“Hồng triều cương thổ” vào giữa thập kỷ 1950, vùng đất Tây Nguyên vốn là
nơi mang danh thuộc đặc quyền của Triều Nguyễn nhưng lại bị thực dân Pháp
giành quyền cai trị. Dưới chiêu bài tôn trọng quyền tự chủ và văn hóa người
bản địa, thực dân Pháp đã thi hành chính sách “ngu dân” và “chia để trị” hịng
tách Tây Nguyên ra khỏi cương vực Việt Nam. Trong quá trình cai trị Tây
Nguyên, một mặt thực dân Pháp cướp đất đai của người bản địa, lập nhiều đồn
điền và đưa nhiều người Kinh khắp cả nước lên làm công nhân, mặt khác, chúng
thi hành chính sách bóc lột, cơ lập người bản địa, gây chia rẽ và không cho tiếp
xúc với người Kinh. Chính vì vậy, cho đến năm 1945, ảnh hưởng của cách
mạng vô sản trong cộng đồng các tộc người bản địa trên địa bàn Tây Nguyên
nói chung, ở tỉnh Gia Lai nói riêng cịn rất hạn chế. Cách mạng tháng Tám ở
đây diễn ra dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Thanh niên và Mặt trận Việt Minh
nên không sôi động như các khu vực khác của đất nước. Sau Cách mạng tháng
Tám, quá trình thành lập tổ chức Đảng và truyền bá cách mạng nơi đây mới
thực sự có điều kiện để thúc đẩy.
2
Trên địa bàn tỉnh Gia Lai, có hai tộc người có số lượng dân cư đơng nhất
và có bản sắc văn hóa điển hình nhất là người Jrai định cư chủ yếu ở phía Tây
và Tây Nam tỉnh và người Bahnar định cư chủ yếu ở phía Đơng và Đơng Bắc
tỉnh. Cũng như các tộc người bản địa khác trên đại ngàn Tây Nguyên, người
Jrai và người Bahnar cũng có tính cách chân chất và khống đạt nhưng do điều
kiện tiếp xúc với người Kinh, với cách mạng rất hạn chế nên công tác truyền
bá, giác ngộ cách mạng cho họ trong bối cảnh hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ cũng có nhiều nét đặc thù riêng có. Đảng bộ và chính quyền cách
mạng các cấp ở tỉnh Gia Lai đã có những cách làm thế nào để thuyết phục được
đồng bào bản địa theo Đảng, theo cách mạng? Do khó khăn về nguồn tư liệu
nên đến nay, việc nghiên cứu về vấn đề này vẫn rất hạn chế, vẫn cịn nhiều
“khoảng trắng” cần nhanh chóng xóa bỏ. Vì vậy, một sự tiếp cận, nghiên cứu
chuyên sâu để giải đáp thỏa đáng vấn đề trên theo chúng tôi là rất cần thiết.
1.2. Một trong những nguyên nhân quyết định sự phát triển và thắng lợi
của công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở Gia Lai chính là nhờ
thông qua truyền bá cách mạng, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Gia Lai đã giác
ngộ cho dân chúng người bản địa để họ tham gia và đóng góp cơng sức của
mình vào sự nghiệp cách mạng chung. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
giác ngộ. Muốn cách mạng thành cơng thì phải giác ngộ cho dân để dân tự giác
tham gia và đóng góp cho cách mạng. Nguyên lý cơ bản này luôn đúng trong
mọi thời đoạn cách mạng.
Những kinh nghiệm dân vận, truyền bá, giác ngộ cách mạng cho các
cộng đồng tộc người bản địa ở tỉnh Gia Lai trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến nay vẫn đang có ý nghĩa thời sự. Trong gần hai thập kỷ qua, các
thế lực phản động không ngừng sử dụng mọi thủ đoạn để chia rẽ, kích động
hận thù, lơi kéo tập hợp một bộ phận người bản địa thiếu hiểu biết gây rối trật
tự xã hội và ra sức thực hiện mưu đồ lập Nhà nước Đề Ga tự trị ở Tây Nguyên
3
để chống phá cách mạng. Bài học dân vận trong đồng bào người bản địa ngày
nào giờ đây vẫn còn ngun giá trị.
Từ góc nhìn này, việc nghiên cứu để thấu hiểu công cuộc truyền bá, giác
ngộ cách mạng cho các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai thời cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân để rút ra những bài học, kinh nghiệm áp dụng
vào thực tiễn thời kỳ đổi mới hôm nay là cấp bách.
1.3. Nghiên cứu lịch sử địa phương có một vị trí, ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với lịch sử dân tộc; góp phần cung cấp thêm tư liệu cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập lịch sử địa phương cũng như lịch sử dân tộc. Là người
con của quê hương Gia Lai đang theo học hệ cao học chuyên ngành lịch sử Việt
Nam, bản thân tơi rất muốn tìm hiểu sâu hơn về Lịch sử quê hương mình vì coi
đó như là một cách thể hiện trách nhiệm với tỉnh nhà. Tôi cho rằng, việc dùng
chuyên môn được học để nghiên cứu, làm rõ vấn đề khoa học cấp thiết về lịch
sử tỉnh nhà nhưng đến nay vẫn chưa có “lời giải” thỏa đáng nêu trên là sự lựa
chọn khả thi nhất với bản thân tôi vào thời điểm này. Kết quả nghiên cứu không
chỉ là tư liệu cho cơng tác tun truyền, giáo dục mà cịn là một gợi ý mang
tính khoa học để các cấp tham khảo trong hoạch định chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương.
Xuất phát từ các lý do trên, trong q trình học ở bậc Cao học, tơi quyết
định chọn vấn đề “Công cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong các cộng
đồng tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai (1945 - 1975)” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ các góc nhìn khác nhau, đã có khơng ít các nghiên cứu, các chuyên
khảo và các bài báo khoa học đề cập hoặc có liên quan đến vấn đề này. Trong
quá trình sưu tầm tư liệu cho Luận văn, chúng tơi đã tiếp cận và sử dụng các
cơng trình, sách và bài báo sau:
4
2.1 Các cơng trình đề cập đến vùng đất và các tộc người bản địa trên
địa bàn tỉnh Gia Lai
Từ thời Pháp thuộc đã xuất hiện một số cơng trình tiêu biểu: Miền đất
huyền ảo của Jacques Dournes (Nguyên Ngọc dịch) 2003, Nxb. Hội nhà văn;
Rừng – Đàn bà – Điên loạn của Jacques Dournes (Nguyên Ngọc dịch) 2006,
Nxb. Hội nhà văn; Rừng người Thượng – Vùng rừng núi cao nguyên miền
Trung Việt Nam của Henri Maitre (Lưu Đình Tuân dịch) 2008, Nxb. Tri thức...
Đó là nguồn tài liệu đáng quý cho chúng ta hình dung một cách tổng thể đời
sống của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX về đời sống kinh tế, tổ chức xã hội, truyền thống văn hóa...
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, ngày càng có nhiều cơng trình về các
dân tộc thiểu số Việt Nam và ở khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên của các nhà
nghiên cứu mác xít Việt Nam được xuất bản. Gs. Đặng Nghiêm Vạn đã cho ra
mắt hai tác phẩm: Các dân tộc ở Gia Lai – Kon Tum (1981), Cộng đồng quốc
gia ở Việt Nam (2003), nội dung hai tác phẩm này đã giúp người đọc hiểu rõ
nguồn gốc tộc người, đặc điểm kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên. Cuốn Truyền thống yêu nước và đặc trưng văn hóa của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam do Hoàng Xuân Lượng chủ biên và Tây Nguyên
dấu ấn một thời của Hồ Đệ (2005), Nxb. Quân đội nhân dân... đã làm rõ đặc
trưng văn hóa và lịch sử đấu tranh anh dũng của các dân tộc Tây Ngun.
2.2 Các cơng trình đề cập đến chính sách dân tộc của Đảng; tiến
trình và phương thức truyền bá, giác ngộ cách mạng
Đáng chú ý nhất là cuốn sách Lịch sử Gia Lai từ nguồn gốc đến năm
1975, Nxb. Khoa học xã hội và các cuốn sách Lịch sử Đảng bộ địa phương
được xuất bản bởi Nxb. Chính trị quốc gia gần đây, như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Gia Lai (1945-2005), (2009); Lịch sử Đảng bộ thành phố Pleiku (1945-2005),
(2006); Lịch sử Đảng bộ huyện Kbang (1945-2000), (2003); Lịch sử Đảng bộ
5
huyện Ia Grai (1945-2014), (2014) v.v... Các cơng trình trên đã phục dựng lại
khá rõ nét chính sách dân tộc thiểu số của Đảng và một phần nào đó về tiến
trình và phương thức truyền bá, giác ngộ cách mạng trong cộng đồng tộc người
bản địa tỉnh Gia Lai.
2.3 Các cơng trình đề cập đến các nhân vật lịch sử trong công cuộc
truyền bá, giác ngộ cách mạng
Đề cập đến phong trào đấu tranh của nhân dân trên địa bàn tỉnh Gia Lai
qua các giai đoạn lịch sử có các đề tài luận văn thạc sĩ đã bảo vệ như: “Căn cứ
địa cách mạng ở Gia Lai trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1965)”
của Tạ Mạnh Hà; “Đấu tranh binh vận ở Gia Lai trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước (1961-1975)” của Ngô Trọng Hiệu; “Phụ nữ Gia Lai trong kháng
chiến chống Pháp (1945-1954)” của Phạm Thị Diệu... Các cơng trình trên đã
phần nào khắc họa được hình ảnh các nhân vật tiêu biểu đã giác ngộ, truyền bá
cách mạng trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ngồi ra, cịn có các bài báo viết về các nhân vật lịch sử tiêu biểu đã nêu lên
những tấm gương dũng cảm về người thật, việc thật trong công cuộc truyền bá, giác
ngộ cách mạng trong cộng đồng tộc người Jrai và Bahnar, như:“Ký ức của cựu du
kích PleiMe” của Phương Dung; “Người con Jrai kiên trung với Đảng” của Nay
Ly Hương; “Nay Phin – một đảng viên kiên trung”của Hùng Tấn v.v....
Từ số lượng và nội dung các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
được chúng tơi cập nhật cho thấy: Chưa có thật nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu và cũng chưa có nhiều cách tiếp cận vấn đề này. Tuy nhiên, về cơ
bản các cơng trình nghiên cứu ở những mức độ khác nhau đã phân tích các góc
nhìn khác nhau để khái quát hoặc làm rõ về đặc điểm các tộc người, về một
phần nội dung trong hoạt động truyền bá, giác ngộ cách mạng cho đồng bào
bản địa tỉnh Gia Lai… Chúng tôi coi đây là những nguồn tư liệu quý, gợi mở
và giúp hình thành ý tưởng, cung cấp cho chúng tôi các luận điểm, luận cứ…
6
để triển khai đề tài.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng cho
đồng bào người Jrai và Bahnar trên địa bàn tỉnh Gia Lai (1945-1975).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng nghiên cứu trên, phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác
định:
Về quy mơ: đề tài nghiên cứu tiến trình, phương thức và kết quả hoạt
động truyền bá, giác ngộ cách mạng cho hai cộng đồng tộc người bản địa đông
dân nhất và tiêu biểu ở Gia Lai là tộc người Jrai và tộc người Bahnar.
Về không gian: đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động truyền bá diễn
ra trên địa bàn tỉnh Gia Lai ngày nay. Tuy nhiên, đề tài cũng đề cập đến cả các
nhân tố truyền bá cách mạng khởi phát hoặc diễn ra bên ngồi khơng gian lãnh
thổ tỉnh Gia Lai, ví như những chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và lời
dạy, thư của Bác Hồ, hoặc các cá nhân người Jrai, Bahnar cư trú ở Gia Lai
nhưng được truyền bá và giác ngộ cách mạng ở các địa phương khác.
Về thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề trong giai đoạn có tính
“bản lề” (1945 - 1975). Tuy nhiên, để đảm bảo tính xuyên suốt và logic, đề tài
cũng có đề cập đến thời gian trước và sau khoảng thời gian trên.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục tiêu chính là để phục dựng lại và nhìn
nhận đúng hơn phương thức vận động cách mạng trong cộng đồng các tộc
người bản địa trên địa bàn tỉnh mà Đảng bộ và chính quyền tỉnh Gia Lai đã thực
hiện trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngoài ra, đến với
đề tài này, tác giả cũng muốn học hỏi, làm quen và tập luyện kỹ năng nghiên
7
cứu chuyên sâu một vấn đề lịch sử phục vụ cho công tác sau này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu chính của đề tài, Luận văn tập trung thực hiện các
nhiệm vụ chính sau:
- Tìm hiểu đặc điểm văn hóa của các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh
Gia Lai và tình hình chính trị - xã hội khu vực Tây Nguyên nói chung, tỉnh Gia
Lai nói riêng cho đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Tìm hiểu đường lối cách mạng nói chung và chính sách dân tộc nói
riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam; tìm hiểu các nhân vật liên quan và đóng
góp của họ, nhất là của các nhân vật người bản địa, trong công cuộc vận động
cộng đồng người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai đi theo cách mạng.
- Nghiên cứu sâu về phương thức, giải pháp và kết quả của công tác dân
vận cách mạng trong cộng đồng các tộc người bản địa trên địa bàn của Đảng
bộ và Chính quyền các cấp ở tỉnh Gia Lai trong những năm 1945 -1975.
5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tư liệu
Luận văn được hoàn thành dựa trên 72 tài liệu tham khảo chính với các
nguồn sau:
- Các tài liệu gốc bao gồm Văn kiện của Đảng, Thư gửi đồng bào các
dân tộc thiểu số của Bác Hồ, các công văn liên quan của Liên khu V, của Tỉnh
ủy và chính quyền tỉnh Gia Lai.
- Nguồn tài liệu thứ cấp: Các cuốn sách lịch sử Đảng của tỉnh Gia Lai và
của các huyện, các ngành trong tỉnh.
- Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Các bài báo giấy, báo mạng đề cập đến các khía cạnh khác nhau của
công tác dân vận cách mạng trong cộng đồng người Jrai và người Bahnar trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
8
- Nguồn tài liệu điền dã: quan sát, ảnh chụp thực địa, các cuộc phỏng vấn
nhân chứng do tác giả thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở dựa chắc vào phương pháp luận duy vật
biện chứng mác xít, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Để phục dựng lại một cách sinh động và nhìn nhận chân xác hơn bức
tranh tồn cảnh cơng cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong đồng bào bản
địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai những năm 1945 - 1975, chúng tôi chủ yếu sử
dụng hai phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Ngoài ra, chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp liên
ngành như: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp…
6. NHỮNG ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI
Với tư cách là cơng trình đầu tiên nghiên cứu tồn diện và có tính chuyên
sâu về công cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong cộng đồng các tộc người
bản địa trên địa bàn của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Gia Lai trong những năm
1945-1975, đề tài có hai đóng góp chủ yếu sau:
Về khoa học: giúp người đọc có một hình dung tương đối rõ nét bức
tranh tồn cảnh cơng cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong cộng đồng các
tộc người bản địa trên địa bàn của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Gia Lai trong
những năm 1945-1975. Từ đó, có những hiểu biết sâu hơn về một thời kỳ cách
mạng gian lao nhưng đáng ghi nhận của quê hương, của dân tộc.
Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể dùng để làm tư liệu
tuyên truyền ở địa phương, hoặc để phục vụ cho học tập, giảng dạy và nghiên
cứu lịch sử địa phương. Đề tài cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị
thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách đối với dân tộc thiểu số trên địa
bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
9
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, kết
cấu nội dung chính của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Đặc điểm tộc người bản địa và thực trạng giác ngộ cách mạng
giai đoạn 1930-1945
Chương 2: Công cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong cộng đồng
các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 1945-1954
Chương 3: Công cuộc truyền bá, giác ngộ cách mạng trong cộng đồng
các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 1954-1975
10
CHƯƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỘC NGƯỜI BẢN ĐỊA
VÀ THỰC TRẠNG GIÁC NGỘ CÁCH MẠNG
GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
1.1. ĐỊA BÀN CƯ TRÚ VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC TỘC NGƯỜI Ở TỈNH
GIA LAI
Tỉnh Gia Lai thuộc khu vực Bắc Tây Nguyên, nằm trong vùng tọa độ từ
12o59’40 đến 14o37’00 vĩ độ Bắc và từ 107o27’30 đến 108o54’90 kinh độ Đơng;
phía Bắc tiếp giáp tỉnh Kon Tum; Nam giáp tỉnh Đăk Lăk; Đông giáp các tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Tây giáp tỉnh Ratanakiri của Campuchia
trên chiều dài 90km đường biên giới.Với diện tích 15.536,92 km2, Gia Lai là
tỉnh rộng nhất trong năm tỉnh Tây Nguyên, là địa bàn cư trú từ lâu đời của nhiều
tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo.
Cư dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: bộ phận cư dân bản địa và
bộ phận cư dân mới đến, bao gồm cả người Kinh lẫn các dân tộc ít người từ
miền Bắc vào. Trong bộ phận cư dân bản địa sinh sống trên địa bàn tỉnh Gia
Lai, người Jrai và người Bahnar là hai tộc người chiếm tuyệt đại đa số. Theo
những tài liệu dân tộc học và khảo cổ học, thì có thể giả định địa bàn cư trú gốc
của người Jrai là cao nguyên Pleiku và lưu vực hai con sông Ayun và sơng Ba.
Rồi từ địa bàn đó dần dần người Jrai tiến xa lên phía Tây và về phía Bắc. Cịn
người Bahnar thì cư trú chủ yếu ở Đơng Bắc tỉnh Gia Lai (huyện Kbang, Kông
Chơro, Mang Yang, thị xã An Khê). Jrai và Bahnar là hai tộc người bản địa có
số dân khá đơng đảo, có ý thức rõ về địa vực cư trú và là hai nhân tố tạo nên
nét văn hóa riêng có của tỉnh Gia Lai.
Người Jrai là một trong năm tộc người thuộc dòng ngữ hệ Mã Lai – Đa
11
Đảo (Malayo – Polinesien)1 hiện đang sinh sống trên vùng đất Nam Trường
Sơn – Tây Nguyên và đồng bằng ven biển Trung bộ Việt Nam. Địa bàn cư trú
của người Jrai là từ Nam tỉnh Kon Tum đến Bắc tỉnh Đăk Lăk (theo chiều dài
Bắc – Nam) và từ Tây Bắc tỉnh Phú Yên đến vùng biên giới tiếp giáp với
Campuchia (theo chiều Đông – Tây). Trong khu vực này, tỉnh Gia Lai là địa
bàn người Jrai sinh sống tập trung nhất.
Cho đến nay, vẫn cịn có nhiều cách gọi khác nhau về tộc người Jrai như:
Jarai, GiaRai, Jơrai nhưng cách gọi chính thức là Jrai có nghĩa là thác nước.
Khu vực cư trú chính của người Jrai trên địa bàn tỉnh Gia Lai là phía Tây
cao nguyên Pleiku (thuộc các huyện Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ, Chư Prông,
Chư Sê, thành phố Pleiku) và vùng trũng Cheo Reo – Phú Túc ở phía Đơng
Nam tỉnh (gồm: thị xã Ayun Pa và các huyện Ia Pa, Phú Thiện, Krông Pa).
Tộc người Jrai có nhiều nhóm, trong đó người Jrai ở tỉnh Gia Lai được chia
thành 5 nhóm chính:
Nhóm Jrai Chor (còn gọi là Cheo Reo hay Phun) cư trú trong khu vực
thung lũng lòng chảo Cheo Reo (nay thuộc hai huyện Ayun Pa và Ia Pa). Chor
có nghĩa là thung lũng lòng chảo mà J. Dournes – một nhà nghiên cứu người
Pháp đã dịch là vùng thấp. Đây là nhóm cịn bảo lưu được nhiều đặc điểm điển
hình nhất của tộc người Jrai.
Nhóm Jrai Hdrung (gồm cả hai nhóm nhỏ Chon và HơBau) cư trú ở khu
vực từ núi Hdrung đến Đông Bắc thị xã Pleiku và Tây huyện Đăk Đoa. Nhóm
này mang tên Hdrung vì họ tụ cư quanh ngọn núi cùng tên nằm ở ngã ba Quốc
lộ 14 và Quốc 19, cách trung tâm thành phố Pleiku 8km về phía Nam (người
Việt gọi là Hàm Rồng). Đây là nhóm bảo lưu được khá đầy đủ kiến trúc nhà ở
cổ truyền của tộc người Jrai.
Nhóm Jrai Aráp cư trú ở khu vực Tây Bắc thành phố Pleiku và một phần
1
Gồm: Chăm, Êđê, Jrai, Raglai và Churu.
12
huyện Chư Păh. Aráp là tên con voi bốn ngà trong truyền thuyết của đồng bào.
Khu vực cư trú của họ tiếp giáp với người Bahnar nên có ý kiến cho rằng họ là
người gốc Bahnar được Jrai hóa. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng họ là người
Jrai nhưng ít nhiều chịu ảnh hưởng văn hóa người Bahnar. Hiện nay, đồng bào
nhóm này tự nhận là người Jrai.
Nhóm Jrai Tbuăn (Puôn) cư trú dọc biên giới Việt Nam – Campuchia,
thuộc huyện Chư Prông, huyện Đức Cơ và một số xã thuộc huyện Ia Grai như
xã Ia O, Ia Krăi – khu vực dọc sơng Sê San. Cũng vì lẽ đó nên đồng bào tự nhận
là nhóm gọi theo tên dịng sơng Sê San. Tiếng nói của họ có sự giao thoa, pha
trộn về mặt từ ngữ và ngữ âm của tiếng Khơme. Phong tục, tập quán của họ
cũng có nhiều điểm khác biệt so với nhóm Jrai Hdrung.
Nhóm Jrai Mthur cư trú chủ yếu ở huyện Krông Pa - khu vực tiếp giáp
với người Chăm và người Êđê. Do có sự giao thoa, tiếp biến văn hóa sâu đậm
với hai tộc người trên nên nhóm này thường tự nhận là người Êđê, hoặc khơng
tự biết mình thuộc tộc người nào, ví như người dân Jrai ở xã Krơng Năng.
Với số lượng dân cư chiếm ưu thế trong cộng đồng các dân tộc thiểu số,
với ý thức về tộc người và vùng lãnh thổ tộc người khá rõ, lại sinh sống trên
địa bàn án ngữ các huyết mạch giao thông nối khu vực Bắc Tây Nguyên với
các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ nên người Jrai ở Gia Lai chiếm giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của tỉnh.
Cùng với tộc người Jrai tạo nên bản sắc văn hóa tỉnh Gia Lai ngày nay
là tộc người Bahnar. Tộc người Bahnar thuộc ngữ hệ Môn – Khơme. Địa bàn
cư trú chủ yếu của họ là phía Đơng cao ngun Pleiku thuộc các huyện: Mang
Yang, Đăk Đoa, Đăk Pơ, Kông Chro và các xã Hà Tây, Ia Khươl (phía Bắc
huyện Chư Păh), Tú Thủy (phía Đơng Bắc thị xã An Khê). Người Bahnar ở
tỉnh Gia Lai được chia thành năm nhóm:
Nhóm Bahnar Gơlar (Roh – tức người bản địa, người trên núi) là nhóm
13
Bahnar có số lượng dân cư đơng nhất. Địa bàn sinh sống của nhóm này chủ yếu
thuộc huyện Mang Yang và Đăk Đoa.
Nhóm Bahnar Bơnâm cư trú chủ yếu trong vùng rừng già, phần lớn thuộc
các xã Lơ Ku và Krong, huyện Kbang. Do sống trong vùng địa lý có nhiều cách
trở, ít giao lưu với thế giới bên ngồi, nên cho đến giữa thế kỷ XX nhóm này
vẫn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa cổ xưa. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, khu vực này là trung tâm căn cứ của tỉnh Gia Lai nên nhóm Bahnar này
tiếp nhận phần nào lối sống, tập quán canh tác và văn hóa của người Kinh.
Nhóm Bahnar Tơlơ có số lượng dân cư đơng và tự cho mình là nhóm
Bahnar gốc. Nhóm này cư trú ven sơng Ba (Pa), trên những vùng đất khá bằng
và rộng thuộc huyện Kơng Chro.
Nhóm Bahnar Kon Kơđeh (có nghĩa là người vùng thấp – Ala kơng) có
thể xem là phân nhóm trung gian giữa nhóm Bahnar Bơnâm và Bahnar Tơlơ,
sinh sống chủ yếu ở Đăk Pơ và phía Nam huyện Kbang.
Nhóm Bahnar Chăm (gần dân tộc Chăm) tiếp giáp vùng Vân Canh, Bình
Định. Nhóm dân tộc này địa bàn cư trú chủ yếu là các xã Đăk Song và Sơró
thuộc huyện Kơng Chro.
Cư dân bản địa Jrai và Bahnar có tập quán sống thành từng làng mà người
Jrai gọi là bon hay bn cịn người Bahnar thì gọi là plei, đe hay kon. Làng đảm
nhiệm chức năng điều hịa, tập hợp các gia đình thành một khối cộng cư thống
nhất trên cơ sở sở hữu tập thể. Trước năm 1945, các làng của người Jrai và
người Bahnar khá thưa thớt, cách biệt nhau; trong khơng gian lãnh thổ 100km2
trung bình chỉ có 7,2 làng Jrai và 4,8 làng Bahnar. Làng của người Jrai và người
Bahnar thường ở gần nguồn nước để thuận tiện cho việc sinh hoạt và sản xuất.
Quy mô của làng lớn hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và mơi trường
sống cụ thể gắn với cảnh quan địa hình và trình độ kinh tế.
Những ngơi nhà sàn là đặc trưng rõ nét nhất trong một làng Jrai và
14
Bahnar cổ truyền. Nhà của người Jrai thường được bố trí, sắp xếp theo hướng
Bắc – Nam và thường quây quần bên nhau. Nhà trong làng được dựng theo một
trật tự nhất định ln có cửa chính hướng về phía Bắc. Trong khi đó, hướng
nhà của người Bahnar được bố trí linh hoạt hơn, chỉ trừ việc mở cửa về hướng
Tây. Nhà trong làng được xây dựng tùy theo thế đất, dựa vào địa hình tại chỗ;
nếu ở khu vực sơng suối thì nhà cửa phân bố dọc theo dịng chảy.
Mỗi làng Jrai và Bahnar đều có tên riêng và mang một ý nghĩa nhất định.
Tên làng Jrai thường được đặt theo tên nguồn nước trong khu vực hoặc tên
người lập làng hoặc được đặt dựa theo một truyền thuyết cụ thể. Còn tên làng
Bahnar thường đặt theo tên một loại cây (có nhiều hoặc điển hình), theo từ chỉ
hình thù hay đặc điểm tự nhiên của vùng được chọn lập làng. Người Bahnar ít
dùng tên người để đặt tên cho làng như người Jrai.
Làng Bahnar và Jrai trên cao ngun Pleiku đều có nhà Rơng. Với mái
lá cao vút vươn lên trời và vơ vàn họa tiết trang trí độc đáo, nhà Rơng là
cơng trình thể hiện tài năng và nghệ thuật kiến trúc của đồng bào các dân tộc
Tây Nguyên. Đây là nơi dân làng tổ chức những lễ hội, lễ nghi tín ngưỡng của
cộng đồng.
Sinh sống trên những địa hình khác nhau nên người Jrai, Bahnar có nhiều
loại hình canh tác khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là canh tác rẫy và ruộng.
Kỹ thuật canh tác của người Jrai và Bahnar còn thấp chủ yếu dùng những chiếc
rìu, rựa để canh tác. Bên cạnh trồng trọt, họ đã sớm biết chăn ni, trong đó
chăn ni gia đình là một trong những ngành kinh tế phát triển. Săn bắn, hái
lượm để có thêm lương thực, thực phẩm là một việc làm rất phổ biến trong khu
vực cư dân bản địa Tây Nguyên.
Về tín ngưỡng dân gian, người Jrai và Bahnar tin rằng, trong thế giới tự
nhiên muôn hình mn vẻ, có một lực lượng siêu nhiên,vơ hình luôn tác động
đến mọi mặt đời sống của đồng bào. Lực lượng vơ hình ấy được gọi chung là
15
yang (thần). Đối với người Bahnar thì bok Kei Dei (thần nam) và yă Kung Keh
(thần nữ) là 2 vị thần tối cao sáng tạo ra vũ trụ và muôn lồi rất được người
Bahnar kính trọng. Cịn người Jrai xem trọng hơn cả là yang sang (thần nhà),
yang bôn và yang pin ia (thần làng và thần bến nước), yang Bhet tơngia và yang
Pơtao (thần bản mệnh trẻ em và thần gọi mưa). Trong cuộc sống thường ngày
của người Jrai, những yang này luôn được nhắc đến trong tất cả các lễ cúng
hàng năm hoặc nhiều năm theo định kỳ.
1.2. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TRONG TRUYỀN BÁ,
GIÁC NGỘ CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG CÁC TỘC NGƯỜI
BẢN ĐỊA Ở TỈNH GIA LAI TRƯỚC NĂM 1945
1.2.1. Khó khăn trong truyền bá, giác ngộ cách mạng đối với cộng
đồng các tộc người bản địa ở tỉnh Gia Lai trước năm 1945
Trong vòng nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp dùng vũ lực quân sự
xâm lược nước ta và các nước Đơng Dương. Đến năm 1884, bằng một hịa ước
đầu hàng bán nước của triều đình Nguyễn, thực dân Pháp đã căn bản đặt ách
đơ hộ tồn bộ Việt Nam. Chúng chia nước ta ra 3 kỳ với các hình thức cai trị
khác nhau và gộp chung với 2 xứ Ai Lao (Lào), Cao Miên (Campuchia) lập
thành Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.
Tây Nguyên nói chung và địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng là vùng đất
bazan màu mỡ, nơi chủ yếu vẫn do các tộc người bản địa với số dân thưa thớt
cư ngụ nên thực dân Pháp sớm có dã tâm độc chiếm. Để chiếm được Gia Lai,
nơi núi rừng sông suối hiểm trở, cư dân các dân tộc vốn có truyền thống đồn
kết, bất khuất chưa bao giờ chịu khuất phục trước bất kì kẻ thù xâm lược nào,
lại tỏ rõ quyết tâm chống đối ngay từ đầu kẻ thù mới từ phương Tây kéo đến,
thực dân Pháp buộc phải hết sức thận trọng và dùng nhiều thủ đoạn thâm độc.
Trước tiên, chúng cho các phái bộ điều tra, thăm dị dưới hình thức truyền
giáo. Năm 1838, Giám mục Taberd đã xâm nhập vào Tây Nguyên vẽ bản đồ
16
địa hình phân vùng đất đai và dân cư. Theo chân các giáo sĩ, các phái bộ thám
hiểm, các phái bộ quân sự điều tra, thăm dò, mua chuộc cư dân địa phương
trước đó nhiều năm, đến năm 1884, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân
đánh chiếm Gia Lai. Từ nhiều hướng, thực dân Pháp liên tiếp mở nhiều cuộc
hành quân tàn sát nhân dân mà chúng gọi là “đánh giặc Mọi” để chiếm Gia Lai.
Đánh chiếm đến đâu, quân Pháp lập đồn binh, tuyển mộ binh lính người địa
phương, chốt giữ những nơi trọng yếu tới đó, để một mặt trấn áp những cuộc
nổi dậy của nhân dân, mặt khác làm công cụ, chỗ dựa thiết lập bộ máy cai trị.
Từ năm 1910, thực dân Pháp bắt đầu bắt lính người địa phương để bổ
sung cho quân đồn trú. Chúng lập ra “Vương quốc Xê Đăng” có vua và tể tướng
là người dân tộc thiểu số địa phương, liên minh các bộ lạc phía Bắc Tây Nguyên
là Bahnar, Xê Đăng, Brâu... nhằm chia rẽ gây thù hằn dân tộc. Tháng 10/1898,
Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ đưa yêu sách địi triều đình Huế để cho nước Pháp
phụ trách các vấn đề chính trị, an ninh – quốc phịng và kinh tế toàn vùng các
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Thực dân Pháp từ chỗ hạn chế, đi đến gạt bỏ
ảnh hưởng của triều đình nhà Nguyễn ra khỏi đời sống chính trị, kinh tế ở Tây
Nguyên. Chúng xóa bỏ chế độ sơn phịng của triều Nguyễn đặt ra cho Tây
Nguyên, thay vào đó thiết lập chế độ cai trị trực tiếp của Pháp trong toàn bộ
vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Năm 1913, thực dân Pháp thiết
lập bộ máy cai trị ở Gia Lai từ cấp tỉnh đến cấp huyện, làng.
Trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bộ máy cai trị của Pháp cũng theo
đơn vị làng, tổng, huyện. Chủ làng, chánh, phó tổng, “huyện thừa” là người dân
tộc thiểu số Jrai, Bahnar... đảm trách theo chính sách mua chuộc của Pháp, để
giúp người Pháp bắt xâu thuế. Song trên thực tế chỉ là những người giúp việc,
tay sai cho tên chủ hạt, kiêm chủ đồn binh một vùng. Bộ máy quan lại của Pháp
từ làng, tổng, huyện đến tỉnh tạo thành một hệ thống cai trị chặt chẽ kết hợp với
bọn chỉ huy binh lính ngày một tăng cường kìm kẹp, o ép, vây ráp người dân
17
địa phương trong vòng kiềm tỏa của chúng, làm cho nhân dân trong vùng dân
tộc thiểu số khơng có chút quyền tự do dân chủ nào.
Chính sách chia rẽ các dân tộc là chính sách chủ yếu cơ bản trong âm
mưu “chia để trị” của thực dân Pháp. Chúng ban bố những luật lệ để ngăn cách
quan hệ giữa dân tộc Kinh và dân tộc ít người trong khu vực, kích động chủ
nghĩa bài Kinh. Nổi bật là chính sách “đóng cửa” dưới chiêu bài bịp bợm “đất
Thượng là của người Thượng”, chúng cấm sự giao lưu giữa các vùng trong tỉnh
và giữa Gia Lai với các tỉnh lân cận. Chúng đặt trạm kiểm soát tại Củng Sơn
trên tuyến đường số 7 nối Gia Lai đi Phú Yên; chỉ những ai có giấy phép của
tịa sứ mới được qua lại. Ngày 01/01/1926, trong Hội nghị các trưởng làng Tây
Nguyên, thực dân Pháp thông qua một số quy chế xem người Kinh là người
“ngoại quốc”, không được phép cư trú trên đất Tây Nguyên, và “chỉ có người
Pháp mới được quyền có mặt ở Tây Nguyên để khai hóa, che chở bảo vệ người
Thượng”. Người dân tại chỗ bị chúng dồn vào một vùng nhất định để dễ quản
lý và cướp đất. Chính sách “đóng cửa” của chúng nhằm kìm hãm mọi sự phát
triển xã hội của các dân tộc trong tỉnh làm cho dân bần cùng, lạc hậu.
Song song với thiết lập bộ máy cai trị theo xu hướng ngày càng phát xít
hóa, thực dân Pháp thi hành khai thác thuộc địa, chiếm đoạt tài nguyên, chiếm
đất đai lập đồn điền, chiêu tập nhân cơng bóc lột sức lao động thu lợi nhuận,
thu gom sản vật, áp đặt và thu các loại thuế. Theo các lệnh của Chính phủ Pháp
liên quan đến chế độ “cưỡng bức lao động” ở Đông Dương và các thuộc địa
Pháp ban hành 21/8/1930, chế độ lao động cưỡng bức vẫn được duy trì ở Đơng
Dương. Chúng đặt ra các loại thuế thân, đi xâu các đồn điền của Pháp. Chúng
lập ra nhà tù ở Trà Kê (Phú yên) để bắt bớ các chiến sĩ cộng sản hoạt động trong
vùng trên trục đường 7, mục đích là “tách cá khỏi nước”, để ngăn chặn lực
lượng cách mạng ta, phá vỡ sự chi viện giữa miền núi và miền xi; giữa Bình
Định, Phú n và Gia Lai.
18
Ngồi ra, chúng cịn dùng chính sách “muối” và “ký ninh” để lừa bịp
nhân dân. Thực chất, chính sách đó là lừa mị, mua chuộc, khống chế và kìm
kẹp nhân dân, mà công cụ chủ yếu là quân đội và hệ thống cứ điểm của chúng.
Đi đôi với việc thành lập chính phủ liên bang, về mặt quân sự, chúng lập ra Bộ
chỉ huy khu tự trị Tây Nguyên, trực thuộc Bộ chỉ huy miền Nam Đông Dương.
Quân khu Tây Nguyên gồm 3 phân khu và 1 chi khu trực thuộc, mỗi chi khu
đều có lực lượng lính khố xanh, khố đỏ tham gia. Chúng tăng cường đóng thêm
đồn bốt từ Pleiku đi khắp nơi, kể cả đường 14, đường 19, đường 7, tu bổ lại
đường sá cầu cống.
Thực dân Pháp cịn thực hiện triệt để chính sách “ngu để trị”. Chúng chỉ
lựa chọn những học sinh giỏi để đào tạo thành tay sai người bản địa theo nguyên
tắc đề ra tại thông tư ngày 30/7/1923: “Những người thông minh được dạy bằng
tiếng Pháp. Tất cả những học sinh này được đào tạo để phục vụ công việc quản
lý của chúng ta. Sau khi về làng chúng đảm trách công việc hành chính của
chính quyền” [8, tr. 90]. Vì thế, cho đến năm 1933, số học sinh trên địa bàn tỉnh
rất ít; trường học ít, chế độ thi tuyển khắt khe, chi phí tốn kém.
Núp dưới chiêu bài “Bảo vệ và phát triển các chủng tộc Thượng”, “không
đụng chạm đến tập tục văn hóa bản địa”, chính quyền thực dân Pháp đã duy trì
và khuyến khích tái hiện những tập tục cổ xưa lạc hậu có tính mê tín dị đoan,
thần linh để mê hoặc đồng bào. Chúng thực thi chính sách phát triển “tơn giáo
hóa đời sống văn hóa” nhằm phân rõ lực lượng và tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, dân tộc của đồng bào. Hội thánh Bahnar được Pháp thành lập ở Kon
Tum từ năm 1851 đã lan đến Pleiku ngay sau đó.
Như vậy, dưới ách thống trị của đế quốc và phong kiến, đi đến đâu dù là
chốn hang cùng, ngõ hẻm, dù đã chịu khó hai sương một nắng thì người dân
vẫn khơng thốt khỏi cảnh sống nô lệ mất tự do dân chủ, bị bóc lột, nơ dịch và
gánh chịu sưu cao, thuế nặng. Với những chính sách về kinh tế, chính trị của
19
thực dân Pháp và nét văn hóa riêng của đồng bào dân tộc Jrai và Bahnar đã
gây cho ta những khó khăn gay gắt trong cơng cuộc truyền bá, giác ngộ cách
mạng và trong việc xây dựng những cơ sở cách mạng tại các vùng dân tộc Jrai
và Bahnar trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.
1.2.2. Thuận lợi trong truyền bá, giác ngộ cách mạng đối với cộng
đồng các tộc người bản địa ở tỉnh Gia Lai trước năm 1945
Cũng như đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tộc người Jrai và Bahnar ở
Gia Lai mang tính cách mộc mạc chất phác, sống gần gũi với thiên nhiên, núi
rừng nên họ giữ được bản chất sơ khai, thật thà, giản dị, tính cần cù, nhẫn nại,
chịu khó trong lao động, đảm đương cơng việc gia đình. Tình yêu thương đùm
bọc nhau trong cộng đồng làng xóm là một đức tính q của người Jrai và
Bahnar. Dù thân thuộc hay không, nhưng đã sống gần nhau thì họ khơng để có
một người nào đói khi trong làng có người cịn lúa trong kho. Ln có một tình
u tha thiết với xóm làng, nương rẫy, núi rừng, nhà cửa, nơi họ đã từng sống
bao đời nên người dân bản địa ở Gia Lai có sự gắn bó với vùng đất quê hương
đến mức “thà chịu khổ, chứ khơng chịu lìa khỏi bn làng”.
Trong q trình đẩy mạnh khai thác đất đai, tài nguyên, lập đồn điền và
các cơng trình làm đường, xây dựng nhà cửa của tư bản Pháp thì vơ hình chung
đội ngũ cơng nhân ở Gia Lai (trong đó có cả người bản địa) đã hình thành. Tuy
số lượng khơng đơng, nhưng đây là một lực lượng mới có nhiều khả năng quy
tụ lực lượng, giác ngộ quyền lợi giai cấp lao động, quyền lợi dân tộc, giác ngộ
cách mạng để chống chính quyền đế quốc thực dân, áp bức, bóc lột. Cơng nhân
là chỗ dựa cho phong trào yêu nước, cách mạng và phong trào cộng sản. Trong
số công nhân ở Gia Lai, có những người đã từng tham gia các phong trào cách
mạng do Đảng ta phát động, lãnh đạo từ sau năm 1930, làm cơ sở để phát huy
ảnh hưởng của Đảng, của phong trào cả nước đến Gia Lai.
20
Ngoài tinh thần chiến đấu dũng cảm, người bản địa sống trên cao ngun
hùng vĩ nên cịn có tính cách khoáng đạt, yêu quý sự tự do. Mặc dù trước đây
nhân dân thường dời làng, mỗi khi thấy điều kiện cư trú không phù hợp hoặc
bỏ nương rẫy khi thấy sản xuất bất lợi, nhưng họ là người có ý thức bảo vệ
nương rẫy, bảo vệ vùng đất mà họ được sống tự do phóng khống. Do đó, bất
kỳ một thế lực nào xâm phạm đến điều thiêng liêng đó thì khơng phân biệt gái
trai, già trẻ, họ kiên quyết đứng lên chống lại.
Trong môi trường phần đông cư dân trình độ dân trí thấp; tầng lớp trí
thức, cơng chức học sinh ở địa phương đồng bào Jrai và Bahnar là lực lượng
đóng vai trị quan trọng, vì họ rất nhạy cảm với thời cuộc. Họ nắm bắt thông
tin và đi đầu trong việc tuyên truyền những điều mới lạ đến với dân chúng địa
phương trong vùng. Khi được cách mạng giác ngộ, họ trở thành lực lượng yêu
nước, tiến bộ, có tinh thần dân tộc, hăng hái hoạt động thúc đẩy phong trào
quần chúng nhân dân. Lực lượng này đã có những đóng góp quan trọng trong
q trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc.
Tuy là tự phát, song phong trào đấu tranh chống bọn thực dân xâm lược
của đồng bào các tộc người bản địa trên địa bàn tỉnh Gia Lai từ khi Pháp xâm
lược đến năm 1930 đã thể hiện tinh thần yêu nước yêu quê hương. Ở những
vùng sâu trong núi rừng, nhân dân vẫn làm chủ, không chịu hàng phục, sống
hiên ngang trong những bn làng bất khả xâm phạm, ngồi vịng kiểm sốt,
kiềm tỏa của thực dân Pháp. Đó là điều kiện tốt, là miếng đất màu mỡ để ươm
mầm hạt giống phong trào cách mạng.
Đảng cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân và của
cả dân tộc ra đời là một điều kiện chính trị vơ cùng quan trọng đánh dấu bước
ngoặt căn bản trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời đã chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước kéo dài nửa thế kỷ; đồng thời
đáp ứng đúng yêu cầu lịch sử của dân tộc, nguyện vọng tha thiết độc lập, tự do
21
dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân ta.
Ngay từ khi mới thành lập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin vào điều kiện xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, Đảng đã xác
định đường lối đúng đắn chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam. Đảng
chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Trước mắt là Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh đánh đuổi đế
quốc thực dân xâm lược, đánh đổ phong kiến tay sai làm cho đất nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập, thống nhất, nhân dân được tự do hạnh phúc. Để
thực hiện mục tiêu đó, Đảng đặt rõ nhiệm vụ trước mắt là tuyên truyền, vận
động, tổ chức công nhân, nông dân, các dân tộc thiểu số, mọi tầng lớp nhân dân
lao động. Cách mạng phải dựa vào sức mạnh của nhân dân được tập hợp trong
các tổ chức quần chúng rộng rãi. Công nhân và nơng dân là lực lượng chính
của cách mạng. Đảng của giai cấp công nhân phải được tổ chức chặt chẽ, liên
hệ mật thiết với nhân dân. Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết tương trợ
giữa các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam. Đường lối đúng đắn của
Đảng đã chiếu sáng khắp nước, lan đến cả cộng đồng dân tộc bản địa trên địa
bàn tỉnh Gia Lai.
1.3. PHƯƠNG THỨC VÀ KẾT QUẢ TRUYỀN BÁ, GIÁC NGỘ
CÁCH MẠNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG CÁC TỘC NGƯỜI BẢN ĐỊA Ở
TỈNH GIA LAI GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
1.3.1. Các phương thức truyền bá cách mạng chủ yếu đối với cộng
đồng các tộc người bản địa ở tỉnh Gia Lai trong giai đoạn 1930-1945
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, chấm dứt thời gian dài bế tắc, khủng
hoảng đường lối cứu nước, đồng thời đáp ứng đòi hỏi chủ yếu yêu cầu lịch sử
Việt Nam trong thời đại mới. Giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ với khẩu
hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”, Đảng đã nhanh chóng tập hợp
22
được đông đảo quần chúng yêu nước, phát động cao trào cách mạng chống đế
quốc và phong kiến mạnh mẽ khắp cả nước trong những năm 1930 - 1931. Đỉnh
cao của cao trào đó là phong trào Xơ viết Nghệ - Tĩnh, thu hút hàng ngàn công
nhân, hàng vạn nông dân, giáo viên, học sinh, hàng trăm binh lính đấu tranh
đánh thẳng vào kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp và bọn vua quan phong kiến.
Tại Gia Lai, lúc đó đã có những hạt giống cách mạng mởi nảy mầm,
nhưng cịn yếu ớt. Đó là một số cơ sở của Đảng Tân Việt xuất hiện trong giáo
viên, tiểu học, viên chức nhỏ làm việc trong nhà thương, tòa sứ... nhưng chưa
gây được ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
Đầu năm 1930, đồng chí Hà Phú Hương (tức Hà Thế Hạnh) là một đảng
viên cộng sản từ Huế đi “vơ sản hóa” đến đồn điền chè Bàu Cạn tìm việc làm
và vận động cơng nhân. Trong vỏ bọc “cai đồn điền”, đồng chí đã nhanh chóng
gây được cảm tình trong cơng nhân và vận động thành lập tổ chức “Công hội
đỏ”. Đây là tổ chức cộng sản đầu tiên trong công nhân đồn điền. Những cuộc
đấu tranh của công nhân đồn điền chè Bàu Cạn từ tháng 6 đến tháng 8 năm
1930 dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản đã ảnh hưởng tới các đồn
điền trong tỉnh; trong đó có đồn điền Ia Châm, một bộ phận người Jrai ở vùng
Ia Pếch (huyện Ia Grai) bị bắt đi làm xâu trong đồn điền Bàu Cạn.
Những năm cuối thập niên 30 của thể kỷ XX, đồng chí Nguyễn Lượng
(Đào Xuân Dương), nguyên là đảng viên bị tù ở Lao Bảo trốn ra đã tìm đến Gia
Lai và làm việc trong đồn điền Cố Hiển (ở Hà Bầu), sau chuyển sang đồn điền
Biển Hồ. Ở đây, được chủ đồn điền giao giữ kho gạo và thực phẩm. Đồng chí
đã tổ chức các lớp học truyền bá chữ quốc ngữ, xây dựng các phường tương tế
để cơng nhân đồn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, lúc khó khăn hoạn nạn...
nhằm chống chủ trương chia rẽ giữa công nhân miền Bắc, Trung, Nam; chống
thủ đoạn dung túng cho các tệ nạn nhằm tha hóa cơng nhân, cột chặt họ vào
đồn điền của chủ sở Henri De Guenyveau. Trong tình hình kẻ thù khống chế,
23
kìm kẹp, thực hiện chính sách ngu dân, việc truyền bá quốc ngữ như gieo ánh
sáng vào quần chúng lao động nghèo khổ, là một dạng tuyên truyền yêu nước
giác ngộ chính trị cho quần chúng cơng nhân.
Sau khi đồng chí Nguyễn Lượng bị bắt, đồng chí Nguyễn Bá Hịe (quê ở
Thanh Chương – Nghệ An) tiếp tục lãnh đạo phong trào công nhân ở đồn điền
Biển Hồ. Ở đây, đồng chí đã cùng các anh em phát triển các tổ chức biến tướng
trong đồn điền như hội thể dục nhằm tập võ nghệ và lãnh đạo công nhân đấu
tranh trực diện với bọn chủ, đòi giảm giờ làm từ 14 giờ/ngày xuống 10
giờ/ngày, địi tăng tiền cơng, phản đối chủ và các cai đồn điền đánh đập, xúc
phạm nhân phẩm công nhân. Phong trào đấu tranh của công nhân đồn điền Biển
Hồ, thông qua số công nhân là người dân tộc thiểu số đi làm công nhân hay làm
xâu trong đồn điền đã có tác động đến tư tưởng của đồng bào dân tộc Jrai và
Bahnar ở Gia Lai. Mối quan hệ giữa công nhân người Kinh và người dân tộc
thiểu số trong và ngoài đồn điền ngày càng gắn kết hơn.
Trong giới thanh niên, thị xã Pleiku, thị trấn An Khê đa phần là những
người có tiến bộ, khao khát cuộc sống độc lập, tự do. Trước những biến động
trong đời sống xã hội, qua sách báo công khai của Đảng, tin tức tuyền miệng
đã mở mang thêm cho họ về quyền tự do, dân chủ, dân sinh, củng cố niềm tin
vào cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, tin vào sức mạnh cách mạng và
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở phía Tây của tỉnh, nhiều cuộc đấu
tranh chống đi xâu, nộp thuế, chống sự kiểm soát của chính quyền thực dân,
phong kiến vẫn tiếp tục nổ ra. Đồng bào Bahnar vào năm 1936 dưới sự chỉ huy
của ông Keh và ông Lui, một lực lượng nhân dân đã tấn cơng đồn lính Pháp
Kannak ở phía Bắc An Khê. Ảnh hưởng phong trào chống Pháp của ông Săm
Brăm người dân tộc Chăm Hroi ở Phú Yên cũng đã tới đồng bào thiểu số vùng
Tây Nguyên trong những năm 1936 – 1940. Đồng bào các vùng trong tỉnh dọc
24
theo dải Trường Sơn hiểm trở truyền nhau về phép mầu nhiệm của “nước thần”
và tổ chức đi lấy “nước thần”, sắm vũ khí thơ sơ, rào đường đặt bẫy đá, cắm
chơng đánh chặn các tốn lính Pháp đi lùng gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ở
Gia Lai có trung tâm phát “nước thần” ở Bắc An Khê (nay thuộc huyện Kbang)
đã thu hút nhiều người Jrai, Bahnar. Phong trào này tuy mang màu sắc tơn giáo
thần bí, song đã có tác dụng khơi gợi tinh thần yêu nước chống giặc Pháp.
Thực hiện chủ trương của Mặt trận dân chủ Đông Dương về công tác
phụ nữ “Phải bênh vực quyền lợi thiết thực của phụ nữ lao động và buôn gánh
bán bưng, kéo các lớp phụ nữ vào các tổ chức đơn sơ: tương tế, đám cưới, đám
giỗ, ca hát, hội thiện... chỉ có bắt đầu từ những điều thấp đó mới có thể dẫn dắt
họ lên giác ngộ chính trị và tham gia các cuộc vận động giải phóng phụ nữ và
cho cả nhân loại nữa”, nhiều đảng viên cán bộ nữ đã đi vào các hãng xưởng, xí
nghiệp, đồn điền để vận động công nhân và chị em lao động đấu tranh. Ở Gia
Lai, người nữ đảng viên đầu tiên đến với công nhân đồn điền Bàu Cạn là chị
Phan Thủy Tú. Chị sớm giác ngộ tham gia cách mạng từ năm 1936, lúc 16 tuổi.
Năm 19 tuổi chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 3/1939
chị tham gia tổ chức thanh niên dân chủ và hoạt động ở Huế. Tháng 7/1939 chị
tìm cách thốt ly lên làm công nhân ở xưởng chế biến chè khô, đồn điền Bàu
Cạn. Qua quần chúng tốt, chị liên hệ với chị em trong xưởng và chị em hái chè
tươi trong đó có cả chị em người đồng bào Jrai, Bahnar đã tổ chức cơ sở bí mật
trong nữ công nhân.
Cuối năm 1939, một số đảng viên cộng sản bị truy nã đã lên các đồn điền
Gia Lai hoạt động tránh lưới mật thám Pháp. Ở đồn điền Bàu Cạn có đồng chí
Trần Ren (Thạch Hải) q Hải Phịng, đảng viên cộng sản thuộc chi bộ Tân
Định (Sài Gòn); đồng chí Phan Thị Út (Thủy Tú) quê Thừa Thiên, đảng viên
cộng sản hoạt động ở Huế, vì tránh lưới mật thám cả hai người được tổ chức
Đảng cho lên Gia Lai hoạt động và bắt liên lạc với nhau trong thời gian làm
25
cơng ở đồn điền. Tháng 01/1940 hai đồng chí kết nạp thêm chị Lâm Thị Nở
(Tám Cống) một nữ công nhân ưu tú, có tinh thần cách mạng, đã từng lãnh đạo
chị em nữ cơng nhân đấu tranh, hình thành nên nhóm đảng viên của Đảng trong
cơng nhân đồn điền Bàu Cạn. Nhóm này đã vận động xây dựng các hội ái hữu,
hội tương trợ và hội bóng đá... để tập hợp, tổ chức giác ngộ quần chúng công
nhân. Tháng 5/1940 thành lập được “Hội cứu tế đỏ” trong đồn điền gồm 7 hội
viên do các đảng viên làm nòng cốt. Hội cứu tế đỏ đưa hội viên đi tuyên truyền
vận động công nhân ở các đồn điền Ia Pếch, Ia Châm (thuộc công ty SAPKO)
và đồn điền Biển Hồ. Các hình thức tổ chức thấp, sử dụng khả năng công khai
hợp pháp phù hợp với khả năng của mọi tầng lớp, đã vận động được chị em
trong các đồn điền tham gia rộng rãi vào phong trào chung.
Đầu năm 1944, các hội biến tướng ở đồn điền, trong đó có đồn điền
quanh vùng Ia Grai ngày nay như Ia Châm, Bàu Cạn, Biển Hồ... phát triển.
Nhiều tổ chức tập hợp được đông đảo công nhân, gây được phong trào sôi nổi.
Quan hệ giữa thanh niên công nhân với thanh niên các làng đồng bào Jrai quanh
đồn điền khá tốt, qua mối quan hệ này, ta đã đẩy mạnh tuyên truyền chống bắt
lính, bắt xâu, thu thuế trong đồng bào Jrai.
Cùng với hoạt động của những người cộng sản trong đồn điền, các cuộc
đấu tranh của những người tù chính trị ở ngục Kon Tum, ở “Căng an trí” Đăk
Glei, Đăk Tô trong giai đoạn này cũng tác động trực tiếp đến những người
Bahnar yêu nước của Kbang bị giam giữ ở nhà lao Kon Tum trong những năm
này như: chị Tnh, anh Bó, Hlơi... ở làng Hơnưng nên sau đó họ trở về Kbang
và đã tuyên truyền cho nhân dân trong vùng hiểu về cách mạng, về tình hình
trong nước và những người cộng sản.
Khơng chỉ có nhân dân huyện Kbang mà trong lần đón tiếp đồn tù chính
trị từ “Căng an trí” Đăk Tơ trên đường về Quy Nhơn; lần đầu tiên, nhân dân thị
xã Pleiku, thị trấn An Khê tổ chức tiếp đón những người cộng sản và biểu thị