ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---
VŨ THỊ THANH DUNG
HỒNG LÂU MỘNG –
SỰ KHỞI ĐẦU CỦA TƯ TƯỞNG
VÀ CÁCH VIẾT MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
MÃ SỐ: 60.22.30
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN LÊ HOA TRANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn:
TS. Trần Lê Hoa Tranh, người thầy đã hết lòng giúp đỡ,
hướng dẫn tơi hồn thành luận văn.
Q thầy cơ Khoa Văn học và Ngôn ngữ, quý thầy cô
giảng dạy lớp cao học văn học nước ngồi khóa II đã tận
tình giảng dạy giúp chúng tơi hồn thành chương trình
học.
Phịng Đào tạo Sau Đại học trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng tơi trong q trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện luận văn tại trường.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2008
Vũ Thị Thanh Dung
MỤC LỤC
Phần mở đầu.......................................................................................................................................................1
Chương I:
Hồng lâu mộng – "Tuyệt thế kỳ thư" của tiểu thuyết Minh Thanh.
1.1 Hồng lâu mộng – đỉnh cao của tiểu thuyết Minh Thanh ...............................................................................14
1.1.1 Sự trỗi dậy của tiểu thuyết trường thiên .....................................................................................................15
1.1.2 Hồng lâu mộng – sự kế thừa những đặc trưng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc ..........................................17
1.1.3 Hồng lâu mộng – những đổi mới ..............................................................................................................22
1.2 Chân dung tác giả Hồng lâu mộng ................................................................................................................24
1.2.1 "Giấc mộng lầu hồng" – hoài niệm của quý tộc nghèo Tào Tuyết Cần ......................................................25
1.2.2 "Giấc mộng lầu hồng" – niềm tin và sự lạc quan của tiến sĩ Cao Ngạc .....................................................29
Chương II:
Hồng lâu mộng – sự đổi mới về tư tưởng
2.1 Bức tranh thế sự - từ huyền thoại đến hiện thực ............................................................................................33
2.1.1 Bức màn huyền thoại ..................................................................................................................................33
2.1.2 Bức tranh thế sự .........................................................................................................................................36
2.1.2.1 Hiện thực thời đại ....................................................................................................................................37
2.1.2.2 Quan điểm của "người làm sách" ............................................................................................................42
2.2 Sự " tương ánh " giữa người và hoa ..............................................................................................................47
2.2.1 Hồn người hồn hoa bện quyện vào nhau ....................................................................................................48
2.2.2 Cái nhìn mới mẻ về nữ giới của Tào Tuyết Cần ........................................................................................53
2.3 Nơi gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu ....................................................................................................67
2.3.1 "Kim ngọc lương dun" – quan niệm tình u, hơn nhân phong kiến ......................................................67
2.3.2 "Mộc thạch tiền duyên" – duyên nợ cây đá hay mối thâm tình ..................................................................73
Chương III:
Hồng lâu mộng – sự đổi mới về cách viết
3.1 Xây dựng tính cách nhân vật – bước đột phá của Tào Tuyết Cần ..................................................................83
3.1.1 Không gian sống .........................................................................................................................................84
3.1.2 Nhân vật và những biểu lộ bên ngồi của tính cách ....................................................................................88
3.1.3 Tính cách nhân vật phát triển qua độc thoại nội tâm................................................................................... 98
3.2 Miêu tả cầu kỳ tỉ mỉ cuộc sống đời thường ................................................................................................. 108
3.3 "Hồng lâu thị mộng nguyên phi mộng..." ................................................................................................... 122
3.3.1 Mộng – ẩn ức của cá nhân........................................................................................................................ 122
3.3.2 Dòng chảy mộng – thực xuyên suốt Hồng lâu mộng ............................................................................... 128
3.3.3 Huyền thoại gợi mở thế giới chân giá trị.................................................................................................. 137
Kết luận............................................................................................................................................................ 141
Thư mục tham khảo........................................................................................................................................ 144
Phụ lục.............................................................................................................................................................. 152
-1-
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lỗ Tấn có lần nói: tùy theo quan điểm, nhãn quan của mỗi người đọc sẽ nảy
sinh những cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về một tác phẩm, đặc biệt đối với một
tuyệt tác nhiều ẩn số như Hồng lâu mộng thì: trong khi các nhà Hồng học cố giải mã
cho thấu tỏ chất "dị", người tài tử lại cảm nhận được sự uyển chuyển, kỳ thú đáng
khen ngợi của một "tuyệt thế kỳ thư", người thích tán chuyện dường như có thêm đề
tài trong khuê các để bàn tán. Chính bởi sức hút tiềm tàng của Hồng lâu mộng mà
người đời vẫn truyền nhau câu nói:
Khai đàm bất thuyết Hồng lâu mộng,
Độc tận thi thư diệc uổng nhiên.
(Tức: Mở miệng nói chuyện mà khơng nói Hồng lâu mộng thì đọc hết cả thi thư
cũng vơ ích!)
Có người đã nhận xét: Hồng lâu mộng sở dĩ trở thành một trước tác vĩ đại mà
trước đó chưa từng có chính là bởi nó lấy cuộc sống làm chất liệu và lấy nỗi thống khổ
của con người làm gia vị để rồi chung đúc nên một kiệt tác thấm đẫm tính nhân văn
cao cả. Thực vậy, Hồng lâu mộng đã chọn cách đi vào cuộc sống đời thường bình dị
với những con người bình thường chứ khơng cịn chú ý đặc tả những con người phi
thường. Sự chuyển hướng này có sự tác động của thời đại, đó là những chuyển biến ở
mọi lĩnh vực từ kinh tế chính trị cho đến văn học nghệ thuật từ triều Minh sang triều
Thanh. Hồng lâu mộng vừa được xếp trong "tứ tài tử": Tây Sương ký, Tam quốc chí,
Thủy Hử truyện, Hồng lâu mộng; vừa góp mặt trong "tứ đại kỳ thư" đời Minh: Tam
quốc chí, Thủy Hử truyện, Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng; lại là một trong hai "tuyệt
thế kỳ thư": Tây du kí, Hồng lâu mộng. Có thể nói, chưa từng có tác phẩm văn xuôi
nào được người Trung Quốc dành cho nhiều ưu ái và ngưỡng mộ đến như vậy.
Người đời thường bị thu hút bởi chữ "kỳ", người ta tìm đến với Hồng lâu mộng
dù là vì lí do nào đi nữa thì cũng đều bị nó lơi cuốn. Khơng hiểu là bởi "kỳ" hay "dị"
hay v.v... mà Giấc mộng lầu hồng đã chiếm một vị trí quan trọng trong lịng độc giả
Trung Quốc nói riêng, độc giả thế giới nói chung trong đó có độc giả Việt Nam. Người
Việt Nam cũng say sưa với những tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc được dịch sang
tiếng Việt. Người Việt không biết tự bao giờ đã hình thành nên cái thú rất tao nhã, đó
là thú đọc truyện Tàu và cái thú ấy đã đi vào văn chương chứ không hẳn chỉ tồn tại
-2-
ngoài đời. Nhà văn Nam Cao từng sử dụng một chi tiết rất sắc để khắc họa tính cách
của nhân vật Hồng trong Đơi mắt – cho Hồng đọc truyện Tam Quốc.
Tác phẩm là thành quả, là đứa con tinh thần, là thai nghén của nhà văn cho nên
nó mang trong mình tất cả những tâm tư, nguyện vọng, lẫn hồi bão của người sáng
tạo ra nó. Khơng có nhà văn thì ngơn từ vẫn hồn là ngơn từ, một thứ chất liệu thơ ráp
chưa được mài dũa, chưa có linh hồn như bao chất liệu khác của nghệ thuật. Chính vì
thế, việc tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm là một trong những
con đường tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn và đặc biệt hơn là khám phá thời
đại mà nhà văn phản ánh. Bởi lẽ nhà văn trước hết là người của thời đại và còn là
người bằng tài hoa của mình thổi hồn thời đại vào văn chương. Nghiên cứu về Hồng
lâu mộng ở Việt Nam vẫn liên tục từ thế kỷ trước đến nay song chưa thật xứng đáng
với tầm vóc của một tác phẩm lớn. Cho nên, chọn đề tài "Hồng lâu mộng – sự khởi
đầu của tư tưởng và cách viết mới" là cách để chúng tôi tiếp cận thật gần với danh tác
này và thông qua đó mong muốn đóng góp cái nhìn tồn vẹn hơn về quan niệm nghệ
thuật mà Tào Tuyết Cần đã dụng công thể hiện từ gần ba trăm năm trước.
2. Giới thuyết vấn đề
Lỗ Tấn tuy khơng nhận mình là một Hồng học gia song với cơng trình Lịch sử
tiểu thuyết Trung Quốc mà nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà văn hóa lỗi lạc này đã mất ba
năm để hồn thành đã cho thấy tâm huyết và ân tình của ơng đối với nền văn học
Trung Quốc. Bên cạnh đó nghiên cứu của ơng cịn mở ra nhiều hướng đi mới trong
việc nghiên cứu tiểu thuyết cổ nói chung và Hồng lâu mộng nói riêng. Chính bởi lẽ đó
những nhận định của Lỗ Tấn về Hồng lâu mộng rất được quan tâm và đánh giá cao.
Một trong những nhận định đó là: Từ khi Hồng lâu mộng ra đời tư tưởng và cách viết
truyền thống đã bị phá vỡ. Nhận định này có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng nghiên
cứu và bàn luận về tác phẩm được người Trung Quốc cho là "độc nhất vô nhị" ở nước
họ, và cũng chưa từng có trên thế giới.
Nhận định trên của Lỗ Tấn là cơ sở khoa học quan trọng giúp chúng tôi thực
hiện đề tài. Tuy nhiên, để chứng minh sự đả phá truyền thống hay nói cách khác là sự
đổi mới cả về tư tưởng và cách viết của Hồng lâu mộng, chúng tơi cịn lưu tâm đến
một số ý kiến khác kể cả quan điểm của tác giả:
Những nhận định đáng quan tâm của Du Bình Bá trong Phong cách Hồng lâu
mộng: thứ nhất, ông cho rằng bất luận là so với bất cứ tiểu thuyết nào trước đó thì
Hồng lâu mộng đều cao hơn vài bậc; thứ hai, khẳng định thủ pháp siêu việt của Hồng
-3-
lâu mộng là sự sáng tạo độc lập bởi nhân vật và sự tình trong sách đều sống động như
thực; thứ ba, Hồng lâu mộng đã dám miêu tả tâm lí tội nhân [112, tr.77]
Về tư tưởng: Quan điểm nghệ thuật đã được tác giả xác định ngay từ chương
đầu của tác phẩm, đó là một hiện thực khơng tơ vẽ. Lời của người làm sách cũng chính
là một trong những luận điểm chúng tơi căn cứ vào đó để làm rõ vấn đề muốn đề cập.
Về cách viết: Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đã được xác lập một nền tảng lí
luận hết sức vững chắc, cịn gọi là Thi pháp tiểu thuyết cổ điển. Lí luận này là cơ sở để
soi vào Hồng lâu mộng, từ đó làm sáng tỏ sự kế thừa và đổi mới của thiên tiểu thuyết
này. Đồng thời dựa vào một số phát biểu của nhân vật trong tiểu thuyết để chứng minh
những đổi mới trong cách viết của nhà văn:
"Làm thơ không kể là đầu bài gì, cốt khéo lật lại cái ý của cổ nhân là được. Nếu
cứ theo dấu vết người trước mà làm, dù chữ có hay, câu có khéo thế nào đi nữa cũng là
kém, không gọi thơ hay được" [15, tập 4, tr.93].
"Phải xem khuôn khổ tờ giấy, nên để xa gần, nhiều ít thế nào, nên chia phần
chính phần phụ ra sao, chỗ nào đáng thêm thì thêm, chỗ nào đáng bỏ, đáng bớt thì bỏ
đi, bớt đi, cái gì đáng để lộ mới để lộ " [15, tập 3, tr.36].
Như vậy, nội hàm của tác phẩm phần nào đã phản ánh vấn đề mà chúng tôi
muốn làm sáng tỏ.
3. Lịch sử vấn đề
Cuộc sống thật muôn màu, mn sắc, mn chiều và đa giọng, khơng có điều gì
khơng tìm thấy nơi sự sống ngự trị. Cuộc sống cho nhân loại nhiều nhưng lấy đi cũng
khơng ít. Những mảng màu của cuộc sống luôn song hành cùng nhau, có tối có sáng,
có thăng có trầm. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống vì thế mà những sắc diện của đời
sống được phóng chiếu qua lăng kính của nghệ thuật cũng phong phú và đa sắc hơn.
Tác phẩm văn học nói riêng và tác phẩm nghệ thuật nói chung một khi đã đi cùng năm
tháng, mang trong mình sức sống vượt không gian lẫn thời gian đều là những tác phẩm
chất chứa nỗi niềm và cô đọng hơi thở của thời đại. Hồng lâu mộng, kiệt tác kinh điển
của tiểu thuyết cổ Trung Quốc là một tác phẩm như vậy.
Từ khi Hồng lâu mộng ra đời đến nay người ta vẫn khơng ngừng nói đến nó,
bàn tới nó và suy ngẫm về nó; có thể nói là khơng thể thống kê hết được những nghiên
cứu chính thức và khơng chính thức về tuyệt tác này. Việc "mổ xẻ" tác phẩm vẫn là
niềm yêu thích của bao thế hệ độc giả, chứng tỏ sức mê hoặc của Hồng lâu mộng là vô
-4-
tận, là khơng có giới hạn. Thật vậy, Hồng lâu mộng khơng chỉ được nghiên cứu trên
bình diện văn học mà cịn là đối tượng nghiên cứu của văn hóa học, triết học và nhân
học ...
Chỉ riêng trên lĩnh vực nghiên cứu phê bình thì cho tới năm 1993 Trung Quốc
đã tổ chức ba hội nghị học thuật Hồng lâu mộng quốc tế với sự tham gia của các học
giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài đất nước hoa mẫu đơn. Nếu chủ ý tầm sốt tồn
bộ những nghiên cứu về Hồng lâu mộng, chúng tôi e rằng sẽ rơi vào "mê hồn trận" lại
khơng thâu tóm được vấn đề cần phải giải quyết. Chính bởi lẽ đó mà luận văn chỉ tập
trung khái quát những tài liệu, công trình nghiên cứu, phê bình, khảo cứu liên quan
đến đề tài, nhằm mục đích đưa ra cái nhìn tổng quan cho một vấn đề cụ thể.
Tại Việt Nam
Hồng lâu mộng vào Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX theo trào lưu dịch
truyện Tàu đăng tải trên các báo, tạp chí bấy giờ và đã thu hút một lượng lớn độc giả
mua báo để được theo dõi truyện. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc không được chọn
đăng trên tạp chí Nam Phong (1917 – 1934), một trong những tạp chí văn hóa, khoa
học có uy tín của Việt Nam thế kỷ trước cho dù những học giả đứng đầu tờ báo chủ
trương dịch và đăng văn học Trung Quốc trên tạp chí nhằm giúp người Việt tiếp xúc
nhiều hơn với nền văn hóa Đơng phương [100]. Nhưng trong các giáo trình văn học sử
Trung Quốc khơng thể khơng nói tới mảng văn học này. Một thực tế là nếu đã đề cập
đến tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thì cũng không thể thiếu Hồng lâu mộng của Tào
Tuyết Cần.
Những giáo trình văn học sử có mặt tại Việt Nam như: Lịch sử văn học Trung
Quốc của nhóm tác giả do Dư Quán Anh chủ biên; Trung Quốc văn học sử do Chương
Bồi Hồn, Lạc Ngọc Minh cùng nhóm tác giả biên soạn; Bài giảng Văn học Trung
Quốc của Lương Duy Thứ; Tác giả, tác phẩm Văn học phương Đông (Trung Quốc)
của Trần Xuân Đề; và Nguyễn Khắc Phi, Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo với Lịch sử
văn học Trung Quốc; Câu chuyện văn chương phương Đông của tác giả Nhật Chiêu
đều đem đến cho độc giả cái nhìn bao quát nhất về tác phẩm. Thứ nhất là về cuộc đời
tác giả, thứ hai là về tác phẩm, trong đó chủ yếu bao gồm: tóm tắt sơ lược nội dung cốt
truyện, trích dẫn những đoạn truyện độc đáo để độc giả thưởng thức, khái quát về nội
dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm, đồng thời nêu nhận định chung của tác giả.
-5-
Chúng tôi dẫn ra một số nhận định từ các giáo trình trên:
"Hồng lâu mộng sau khi ra đời thì sức mạnh tư tưởng và nghệ thuật của nó lập
tức làm kinh động xã hội đương thời" [32, tr.420].
"Có thể xem Hồng lâu mộng là tập đại thành những tiến bộ nghệ thuật tiểu
thuyết Trung Quốc, thế kỷ XVI – XVIII" [90, tr.246].
"Thiên tài của Tào Tuyết Cần đã "phá vỡ tư tưởng và cách viết truyền thống"
như Lỗ Tấn đã từng nhận xét. Nghệ thuật của Hồng lâu mộng trác tuyệt ở chỗ nó tự
nhiên như chính đời sống, đến mức gần như "phi nghệ thuật". Hầu như không có dấu
vết của cơng phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nó là mê: Hồng mê" [20, tr.175].
Bên cạnh giáo trình nghiên cứu những chặng đường phát triển của văn học
Trung Quốc từ cổ đại đến cận đại cịn có những cơng trình nghiên cứu riêng về tiểu
thuyết và tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc có giá trị học thuật cao. Trước hết phải kể
đến cơng trình Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc của đại văn hào Lỗ Tấn; kế tiếp là Tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc của Trần Xuân Đề; Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc của Lương Duy Thứ; Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa của Nguyễn Huy
Khánh; Tiểu thuyết sử thoại các thời đại Trung Quốc tác giả Trương Quốc Phong. Tác
giả những cơng trình này một mặt trình bày sự chuyển biến từ thuở còn ban sơ của tiểu
thuyết cho tới khi hình thành nên một thể loại hồn chỉnh góp mặt vào dòng chảy văn
học Trung Quốc là cả một quá trình dài lâu và bền bỉ; mặt khác đặt Hồng lâu mộng
trong khơng gian của chính nó để chỉ ra điểm nổi bật, khác biệt và tiến bộ về tư tưởng
cũng như nghệ thuật của thiên tiểu thuyết này.
"... sự vĩ đại của Hồng lâu mộng là ở chỗ nó dùng lối miêu tả thật, tả được căn
nguyên xã hội sâu sắc của bi kịch, tả được mối liên quan nội tại của tư tưởng, tính cách
các nhân vật chính trong bi kịch" [72, tr.203].
"Với Hồng lâu mộng, tác giả đã mở một kỷ nguyên mới trong nghệ thuật tả
người ... Nhờ nghệ thuật tả người tuyệt xảo đó, cho nên hiện nay, nhiều nhân vật của
Hồng lâu mộng đã rất thân thiết với đại chúng Trung Hoa" [51, tr.225-227].
Nhìn lại các cơng trình trên đều thấy rất rõ sự nhất quán trong nghiên cứu Hồng
lâu mộng, đúng với tinh thần mà Lỗ Tấn đã bộc lộ. Điều này giúp chúng tôi thêm tin
tưởng trong việc theo đuổi và có đủ cơ sở khoa học để thực hiện đề tài.
Ngồi bộ giáo trình, sách nghiên cứu thì những bài báo được đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành cũng không kém phần quan trọng. Bên cạnh việc củng cố những
-6-
thành tựu và giá trị mà Hồng lâu mộng đã đạt được thì với một dung lượng vừa phải
các tác giả những bài nghiên cứu này còn chỉ ra những điểm mới, những suy luận mới,
và cái nhìn mới của mình.
Nguyễn Đức Vân với bài Giá trị bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng, như một cách
dọn đường để Hồng lâu mộng đến với đông đảo bạn đọc Việt Nam. Bởi lẽ một năm
sau bài viết này kiệt tác của văn học Trung Quốc được xuất bản trọn bộ tại Việt Nam.
Trong khuôn khổ gần hai mươi trang, bài báo đã nêu lên được những điều đáng nói,
đáng bàn về tác giả và tác phẩm tiểu thuyết Hồng lâu mộng. Không chỉ đề cập đến giá
trị của bộ tiểu thuyết ở một số mặt như giá trị hiện thực, tính nhân dân, nghệ thuật mà
nhà nghiên cứu còn sơ lược nêu ra tình hình tiếp nhận tác phẩm ở Trung Quốc, qua đó
đem đến cái nhìn đương đối rõ nét về thiên tiểu thuyết này.
Trước bài báo của Nguyễn Đức Vân, trên tờ Văn hóa Á châu xuất bản năm
1958 đã cho đăng bài Hồng lâu mộng lược khảo của Vương Hồng Sển trên hai số báo
liên tiếp. Vương Hồng Sển cũng hết lời ca ngợi Hồng lâu mộng: Hòn ngọc quý trong
kho tàng văn học Trung Quốc, đồng thời ông kịch liệt phản đối quan niệm cho rằng
Hồng lâu mộng là dâm thư bởi tác phẩm mang trong mình giá trị tố cáo xã hội sâu sắc,
lại được bọc trong cách viết xảo diệu.
Ngồi ra cịn phải kể đến lời giới thiệu về Hồng lâu mộng được in cùng tác
phẩm. Những lời giới thiệu đó khơng cịn là lời giới thiệu sách thơng thường mà đã đạt
tới trình độ học thuật. Không chỉ khơi gợi niềm ham mê đọc tác phẩm, cịn giúp độc
giả có thêm kiến thức và hiểu biết về giá trị cuốn truyện sắp đọc, đã đọc hoặc đang đọc.
Lấy mốc Hồng lâu mộng được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1963 cho tới nay không
thể không kể ra ba lời giới thiệu: Bùi Kỷ (1962), Mai Quốc Liên (1988), Phan Văn
Các (1995).
Nhà nghiên cứu Trần Lê Bảo với một loạt những bài báo được công bố gần đây
đã cho thấy sự chuyển biến trong nghiên cứu "tuyệt thế kỳ thư" ở Việt Nam. Đó là
những bài sau: Hồng lâu mộng và Chu dịch, Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính diện
trong Hồng lâu mộng, Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
Thể nghiệm ảo mộng của các tác gia cổ điển Trung Quốc. Phạm Tú Châu với bài Việc
nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của
Trung Quốc đăng trên Tạp chí Văn học (1992); Miêu tả nhân vật qua thời gian và
không gian nghệ thuật – một thành tựu của tác phẩm Hồng lâu mộng của Hà Thanh
Vân đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội (2001) cũng đã cho thấy sự đa dạng và nhiều
chiều hơn khi bàn về Hồng lâu mộng.
-7-
Hồng lâu mộng được coi là bộ bách khoa toàn thư của Trung Quốc cho nên tác
phẩm cịn góp mặt trong khơng ít những cơng trình ngồi văn học, đơn cử là cuốn
Trung Hoa đất nước con người của Lâm Ngữ Đường cùng với sự ủy thác khôn ngoan
của tác giả: "... Nếu không tin ý kiến trên đây của tôi, xin bạn hãy đọc tác phẩm Hồng
lâu mộng là cuốn truyện đã tả rất tỉ mỉ về nếp sống gia đình Trung Quốc " [37, tr.224].
Cuốn Mạn đàm về Hồng lâu mộng của Trương Khánh Thiện, Lưu Vĩnh Lương
với hai mươi tám vấn đề được đưa ra để luận giải, mà vấn đề nào cũng hấp dẫn, thú vị
đem lại nhiều kiến thức mới mẻ và bổ ích cho người đọc, người nghiên cứu.
Hồng lâu mộng là một tác phẩm lớn, có thể nói là một hiện tượng của văn học
Trung Quốc vì thế ngồi những giáo trình, cơng trình nghiên cứu ra, thì cịn phải kể
đến những luận văn có liên quan đến Hồng lâu mộng trong thời gian qua như: Sự
tương đồng về thi pháp nhân vật Truyện Kiều và Hồng lâu mộng (1999) – luận văn
thạc sĩ của Hà Thanh Vân; Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong
Hồng lâu mộng (2007) – luận văn thạc sĩ của Chu Chiêu Linh; Giấc mộng và tình u
trong Hồng lâu mộng (2005) – khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Ánh Nguyệt;
Mộng và thực trong Hồng lâu mộng (2006) – khóa luận tốt nghiệp của Phạm Vũ Lan
Anh. Đề tài khoa học công nghệ cấp bộ do Nguyễn Thị Bích Hải làm chủ nhiệm: Một
số vấn đề thi pháp tiểu thuyết Minh – Thanh (2005).
Tại Trung Quốc
Việc nghiên cứu Hồng lâu mộng tại Trung Quốc từ khi tác phẩm ra đời cho tới
nay chưa có lúc nào là ngưng trệ, mà ngày càng phát triển cả về lượng lẫn chất. Tùy
vào từng thời điểm lịch sử, tùy vào nhận thức của thời đại mà dồi dào, phong phú và
đa dạng hơn trong nghiên cứu, giải mã, phê bình và suy luận về Hồng lâu mộng. Chỉ
tính riêng những nghiên cứu của hội "Hồng học" từ khi thành lập đến nay đã là rất đồ
sộ rồi.
Theo dõi quá trình nghiên cứu Hồng lâu mộng trên đất nước sản sinh ra nó,
chúng tơi nhận thấy sự thay đổi về nhận thức và tư tưởng của con người nơi đây. Nếu
đặt Hồng lâu mộng vào tâm của chiếc đồng hồ thì sự dịch chuyển của kim giờ chính là
đại diện cho sự thay đổi của xã hội, của thời đại. Nói cách khác, ở một chừng mực nào
đó việc nghiên cứu Hồng lâu mộng đã phản ánh ý thức hệ của người Trung Quốc qua
từng thời kỳ.
-8-
Nếu như những cơng trình nghiên cứu Hồng lâu mộng ở Việt Nam có sự nhất
quán lớn về tư tưởng, về lập trường của người nghiên cứu thì số phận của tiểu thuyết
này ở quê nhà không hẳn đã suôn sẻ ngay từ đầu.
Người phải nhắc đến đầu tiên là Chi Nghiễn Trai với "㛖䆘ᴀ" - Chi bình bản,
cịn gọi Chi Nghiễn Trai Hồng lâu mộng tập bình. Khảo cứu này của Chi Nghiễn Trai
ra đời gần như song hành với tác phẩm cho nên gần đây các nhà nghiên cứu Trung
Quốc có đặt ra một vài giả thuyết về con người này như cho rằng Chi Nghiễn Trai là
chú của Tào Tuyết Cần, Chi Nghiễn Trai là bản thân tác giả, một giả thuyết khác cho
Chi Nghiễn Trai chính là hình mẫu của Sử Tương Vân [113, tr.29-31].
Có thể nói Hồng lâu mộng đã tạo nên một làn sóng đọc và bình luận về nó rộng
khắp Trung Quốc, thực sự là có ít tác phẩm nào được như Hồng lâu mộng. Như đã nói,
chúng tơi nhận thấy một điều khá thú vị là, nếu Hồng lâu mộng phản ánh thực trạng xã
hội Trung Quốc ở giữa thế kỷ XVIII thì những nghiên cứu về Hồng lâu mộng lại phản
ánh hiện trạng xã hội Trung Quốc qua từng giai đoạn khác nhau.
Phái Cựu Hồng học chủ trương truy tìm bằng chứng hiện thực cho tác phẩm
văn học. "㑶ὐṺ㋶䱤" - Hồng lâu mộng sách ẩn của Vương Mộng Nguyễn và "༈
䆄㋶䱤" - Thạch đầu ký sách ẩn của Thái Kiết Dân tức Thái Nguyên Bồi là những
cuốn sách tiêu biểu của Cựu Hồng học.
Năm 1919, Trung Quốc diễn ra cuộc vận động Ngũ Tứ - được tiến hành bởi các
trí thức Tây học, họ đòi thay cổ văn bằng văn bạch thoại. Thái Nguyên Bồi bấy giờ là
Viện trưởng đại học Bắc Kinh, người có xu hướng tơn trọng tư tưởng đã cổ xúy cho
phong trào này. Hồ Thích, một trong những trí thức khởi xướng dùng bạch thoại cũng
là người đã được chính Thái Kiết Dân nhận vào làm giáo sư giảng dạy tại đại học Bắc
Kinh. Mặc dù giữa họ có nhiều điểm chung song với Hồng lâu mộng thì một người
theo Cựu Hồng học cịn người kia theo Tân Hồng học. Thay vì đi tìm câu chuyện có
thực để minh chứng cho truyện của Tào Tuyết Cần như phái "sách ẩn" thì các nhà Tân
Hồng học lại lục tìm vào đời tư của tác giả. Họ tìm thấy ở đó sự tương đồng giữa Tào
phủ và Giả phủ, giữa bản thân tác giả với chàng công tử Giả Bảo Ngọc, và cho Hồng
lâu mộng chính là sự tiếc nuối thời kỳ vàng son của gia đình họ Tào qua đó cũng thể
hiện tình cảm của tác giả với những người con gái ông từng gặp.
Những học giả và nghiên cứu đáng chú ý của Tân Hồng học là: "㑶ὐṺ㗗䆕" Hồng lâu mộng khảo chứng của Hồ Thích; "㑶ὐṺ䕽" - Hồng lâu mộng biện của Du
Bình Bá. Đóng góp của Tân Hồng học là đã làm rõ hơn thân thế và cuộc đời của Tào
-9-
Tuyết Cần – một công việc quan trọng đối với văn học sử. Ngồi ra, "㑶ὐṺⱘ亢Ḑ"
- Hồng lâu mộng đích phong cách (Phong cách Hồng lâu mộng) của Du Bình Bá và "
㑶ὐṺП㊒⼲" - Hồng lâu mộng chi tinh thần (Tinh thần Hồng lâu mộng) của Vương
Quốc Duy còn bộc lộ những suy ngẫm sâu xa của hai ông về giá trị nghệ thuật của tác
phẩm.
Đến khi cả đất nước Trung Quốc được đánh thức bởi ánh sáng của chủ nghĩa
Marx và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa thì có nhà nghiên cứu đã
cho rằng Tào Tuyết Cần còn đi trước cả M.Goki. Những năm đầu thế kỷ XX là thời
gian Hồng lâu mộng được đặt trong tầm quan sát, và sự khảo chứng của chủ nghĩa
hiện thực – vốn là dòng chủ lưu của Trung Quốc lúc bấy giờ.
Lý Hy Phàm và Lam Linh là những đại biểu cho tư tưởng mới trong nghiên cứu
Hồng lâu mộng. Họ một mặt bác bỏ những nhận định trước kia của phái Tân Hồng học
mà đặc biệt là với Du Bình Bá: đầu tiên, Hồng lâu mộng khơng phải là tác phẩm tự
thuật của tác giả, thời đại tác phẩm ra đời là vào vương triều Mãn Thanh; thứ hai, Giả
phủ không phải là Tào gia, Tào Tuyết Cần không viết về gia phả; tiếp theo, Hồng lâu
mộng khơng phải là sự cụ thể hóa của quan niệm sắc không, mà là bi kịch nhân sinh
của thực tại cuộc sống; cuối cùng, Giả Bảo Ngọc không phải là người dị dạng, anh ta
là sự manh nha xuất hiện con người mới trong sự chuyển hóa của xã hội đương thời.
Mặt khác, đưa ra quan điểm của mình: thứ nhất, điểm mấu chốt của biểu hiện nghệ
thuật và nội dung tư tưởng của Hồng lâu mộng là tác giả muốn kể rõ chuyện trong
khuê các; thứ hai, thành tựu và ý nghĩa hiện thực nổi bật của Hồng lâu mộng là nói về
tấm chân tình và đả phá khoa cử; thứ ba, đó là kế thừa và phát huy truyền thống là bút
pháp của Hồng lâu mộng.
Sau khi đã củng cố cho Hồng lâu mộng một cái nền học thuật vững chắc thì các
học giả Trung Quốc lại tiếp tục áp dụng những phương pháp phê bình mới từ phương
Tây vào nghiên cứu thiên tuyệt thế của họ. Bởi nội hàm quá lớn lại tiềm tàng nhiều ẩn
ý cho nên chỉ có tiếp thu những trào lưu tân tiến mới thỏa sức vẫy vùng của giới học
thuật Trung Quốc về Hồng lâu mộng. Quả là với sự cởi mở tư tưởng này đã đem đến
cho nền văn học Trung Quốc nói chung và Hồng lâu mộng nói riêng một bầu khơng
khí đầy khởi sắc và thăng hoa. Hơn thế nữa cịn chứng tỏ Hồng lâu mộng vẫn ln
tươi mới dù ở thời đại nào và ở khuynh hướng phê bình nào.
Gần đây, càng ngày Giấc mộng lầu hồng càng được "chăm sóc" tỉ mẩn hơn.
Chúng tơi có cảm giác mỗi nhà nghiên cứu Trung Quốc như một mắt xích trong sợi
- 10 -
xích quý giá vẫn vây quanh Hồng lâu mộng từ khi nó ra đời đến nay, vì hướng nghiên
cứu của họ mỗi lúc càng tiến sâu và tiến khéo hơn vào tác phẩm. Nghiên cứu của
người này là tiền đề cho nghiên cứu của người kia, những quan điểm đồng chiều, trái
chiều không ngừng bộc lộ và Hồng lâu mộng được nhìn ở mọi góc độ, mọi "khơng
gian":
"㑶ὐṺϢཇᗻЏН᭛ᄺᡍ䆘ᓩ䆎" - Hồng lâu mộng dữ nữ tính chủ nghĩa
văn học phê bình dẫn luận (Dẫn luận phê bình văn học chủ nghĩa Nữ quyền và Hồng
lâu mộng) của Nhiêu Đạo Khánh đã từ góc độ của phê bình văn học chủ nghĩa nữ
quyền khảo sát quan điểm nữ giới của Tào Tuyết Cần và qua đó khẳng định tư tưởng
tiến bộ của tác giả Hồng lâu mộng. Bài "䆎㑶ὐṺⱘီ࿏䘧ᖋ㾖" - Luận Hồng lâu
mộng đích hơn nhân đạo đức quan (Luận quan niệm đạo đức hôn nhân của Hồng lâu
mộng) Lý Quốc Tường nhận định:
"Vấn đề đạo đức hôn nhân và nữ giới là nội dung chủ yếu và chiếm số trang
tương đối trong Hồng lâu mộng. Dường như hết thẩy nhân vật, sự kiện; tất cả việc
miêu tả, yếu tố trữ tình đều liên quan đến vấn đề này, cụ thể là liên quan tới vấn đề tự
do hôn nhân của phụ nữ, ái tình và địa vị bình đẳng nam nữ."
Bên cạnh đó những nghiên cứu dưới đây cũng đem lại cho chúng tôi nhiều kiến
thức và gợi mở hướng tư duy cho đề tài: "ҢҎ⠽ᗻḐⱘ⏅ࠏᗻⳟ㑶ὐṺҎ⠽ⱘ㕢ᄺ
ᛣН" - Tòng nhân vật sinh cách đích thâm khắc sinh khán Hồng lâu mộng nhân vật
đích mỹ học ý nghĩa (Từ tính sâu sắc của tính cách nhân vật xem xét ý nghĩa mỹ học
của nhân vật Hồng lâu mộng); "⬹䆎㑶ὐṺЁϿ僳Ҏ⠽ⱘੑৡ" - Lược luận Hồng
lâu mộng trung a hồn nhân vật đích mệnh danh (Lược luận cách đặt tên nhân vật a
hoàn trong Hồng lâu mộng); "㑶ὐṺЁ"偖"ⱘ㡎ᴃᬜᑨ" - Hồng lâu mộng trung
"mạ" đích nghệ thuật hiệu ứng (Hiệu ứng nghệ thuật của chữ "mạ" trong Hồng lâu
mộng). Hai nhà nghiên cứu Hà Hồng Mai và Đỗ Quý Thần với "㑶ὐཇᗻ" - Hồng lâu
mộng nữ tính (Tính cách nữ giới trong Hồng lâu mộng) đã đem đến nhiều kiến giải
độc đáo về các nhân vật nữ trong Hồng lâu mộng.
Hồng lâu mộng là một tác phẩm đề cập tới nhiều bình diện của cuộc sống, lại
được thể hiện bằng lối viết biến hóa do vậy mỗi cá nhân tùy vào sở trường mà có cách
khai phá tuyệt tác riêng. Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu ở Việt Nam và Trung
Quốc về Hồng lâu mộng, chúng tơi sẽ lần lượt trình bày các luận điểm của mình trong
những phần kế tiếp.
- 11 -
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
"Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới" là một đề tài
không đánh đố người nghiên cứu nhưng cũng khơng hồn tồn dễ dàng để triển khai
vấn đề một cách gãy gọn. Như phần giới thuyết vấn đề chúng tôi đã đề cập, trong luận
văn này chúng tôi tiếp cận Hồng lâu mộng trên hai phương diện: tư tưởng và cách viết.
Với cách triển khai này, đối tượng nghiên cứu trực tiếp và xuyên suốt của luận
văn là tác phẩm Hồng lâu mộng (6 tập), nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh in năm 1989, đã được các dịch giả Vũ Bội Hoàng, Nguyễn Thọ, Nguyễn Doãn
Địch dịch từ bản Trung văn "Hồng lâu mộng bát hồi hiệu bản" do nhà xuất bản Văn
học Nhân dân Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Ngoài ra, chúng tơi có tham khảo thêm ấn
phẩm Hồng lâu mộng tiếng Trung của nhà xuất bản Cổ Tịch Thượng Hải (2004). Bên
cạnh đó, những sách lí luận, sách nghiên cứu liên quan đến tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc, đến Hồng lâu mộng cũng góp phần định hướng cho những lập luận được trình
bày trong luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình triển khai luận văn, chúng tơi đã áp dụng những phương pháp
sau:
Phương pháp tổng hợp – phân tích.
Phương pháp văn học so sánh, so sánh văn học mà chủ yếu là so sánh loại hình.
Phương pháp liên ngành: lịch sử, xã hội, văn hóa, tơn giáo, huyền thoại, phân
tâm học ...
Ngồi ra, chúng tơi cịn kết hợp với một số phương pháp khác như: phương
pháp trực giác, phương pháp đối chiếu, phương pháp thực chứng lịch sử. Với những
phương pháp nghiên cứu cụ thể, được vận dụng tùy nơi tùy lúc chúng tôi mong muốn
làm sáng tỏ vấn đề luận văn đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
Quan sát một số luận văn gần đây, chúng tôi thấy rằng cho dù đề tài nghiên cứu
một khía cạnh nào đó của Hồng lâu mộng đều rất chú trọng đến vấn đề tư tưởng và
cách viết của tác phẩm. Coi đó như là một thành tựu khơng thể khơng nói tới khi nhắc
đến Hồng lâu mộng vậy. Hơn nữa, theo khảo sát của chúng tôi ở Việt Nam chưa có
một đề tài nào nghiên cứu thật cặn kẽ về vấn đề luận văn đặt ra. Ngay như ở Trung
- 12 -
Quốc, mặc dù giới học thuật Trung Quốc đã "cày bới", khảo sát Hồng lâu mộng rất kỹ
lưỡng song chưa hẳn họ khơng bỏ sót điều gì đó. Vì vậy, luận văn được thực hiện với
mong muốn có thể:
Chứng minh sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới trong Hồng lâu mộng
trước tiên được kế thừa, tiếp thu từ truyền thống; song song với việc kế thừa, Tào
Tuyết Cần đã có hướng triển khai riêng đưa tiểu thuyết Trung Quốc đi sát, đi sâu hơn
vào đời sống, từ đó mở ra một trang mới cho văn học Trung Quốc.
Góp một cái nhìn tồn diện và thấu đáo hơn về tư tưởng mà Tào Tuyết Cần đã
gửi gắm và tư tưởng đó được thể hiện bằng thủ pháp nghệ thuật như thế nào.
Góp phần chứng minh giá trị của bộ trường thiên tiểu thuyết không chỉ trong
quá khứ mà cả ở đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được chia làm bốn phần: phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết
luận và thư mục tham khảo.
Phần nội dung chính bao gồm ba chương, cụ thể nội dung mỗi chương như sau:
Chương 1: Hồng lâu mộng – "Tuyệt thế kỳ thư" của tiểu thuyết Minh Thanh
(gồm 18 trang).
Trung Quốc vẫn được biết đến là đất nước của thơ ca, từ phú. Người Trung
Quốc có nhiều hứng thú với sự uyển chuyển, luyến láy, đồng âm dị nghĩa trong ngơn
ngữ của họ; lại khơng muốn nói lê thê, lượt thượt; lại cịn thích sự thâm thúy điệu đà
cho nên thể loại văn học có vần điệu vẫn là sự lựa chọn hàng đầu của họ. Vì thế sự
xuất hiện của thể loại tiểu thuyết vào triều Minh – Thanh đã chứng tỏ có nhiều chuyển
biến trong lịng xã hội Trung Quốc. Cho nên khi triển khai chương này, chúng tôi thiết
nghĩ cần phải triển khai mục 1.1.1 để hiểu tại sao tiểu thuyết trường thiên lại có chỗ
đứng trên văn đàn Trung Quốc; tại mục 1.1.2 lưu tâm đến chuyện tại sao Hồng lâu
mộng lại được coi là đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.
Bởi sự đặc biệt của tác phẩm là có hai tác giả do vậy chúng tôi không quên
điểm lại cuộc đời và thân thể của tác giả và tác giả tiếp bút ở mục 1.2; qua đó nhận
thấy sự xuyên thấm, đồng điệu cũng như chính kiến giữa hai nhà văn, giữa hai con
người về vấn đề của lịch sử.
- 13 -
Chương 2: Hồng lâu mộng – sự đổi mới về tư tưởng (gồm 50 trang)
Chương này được triển khai theo hai hướng; thứ nhất, khẳng định cái tôi nhà
văn và hiện thực xã hội tác giả không ngần ngại phơi bày, không nao núng vạch trần
trong phần 2.1; thứ hai, được khai triển ở phần 2.2 là tư tưởng chống đối khoa cử, lên
án sự kìm hãm, bảo thủ của chế độ xã hội đối với tự do luyến ái, đồng thời thể hiện sự
nâng niu và tôn trọng phụ nữ của chính tác giả.
Với nhãn quan sắc bén cùng sự cảm khái thời cuộc một cách thông thái Tào
Tuyết Cần đã giật sập, lật nhào những tư tưởng lạc hậu, hủ bại mà lễ giáo phong kiến
vẫn cố bảo vệ hàng ngàn năm qua tại Trung Quốc.
Chương 3: Hồng lâu mộng – sự đổi mới về cách viết (gồm 52 trang)
Từ quan niệm nghệ thuật của nhà văn và cách nhà văn mở lối "giấc mộng"
chúng tôi nhận thấy có hai đặc điểm nổi bật là sự miêu tả tỉ mỉ và tính chất khơi gợi
trong cách viết của Tào Tuyết Cần. Dựa trên hai đặc điểm vừa nêu chúng tôi đã tiến
hành khảo sát kỹ lưỡng khả năng miêu tả và phân tích tâm lý qua đó thể hiện tính cách
nhân vật để thấy rõ hơn bước đột phá này của Tào Tuyết Cần trên văn đàn cổ điển
trong mục 3.1; mục 3.2 tập trung đi vào những miêu tả tỉ mỉ của tác giả về cuộc sống
đời thường. Bên cạnh đó, mục 3.3 chúng tơi tiếp tục chứng minh "mộng" là một thủ
pháp nghệ thuật tác giả vận dụng trong sáng tạo nhằm mục đích dùng mộng để nói
thực. Cũng trong chương ba, chúng tơi ghi nhận Hồng lâu mộng không chỉ kế thừa và
phát huy truyền thống mà còn chạm rất gần vào lý luận văn học hiện đại phương Tây
như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa siêu thực ...
- 14 -
CHƯƠNG I:
HỒNG LÂU MỘNG – "TUYỆT THẾ KỲ THƯ"
CỦA TIỂU THUYẾT MINH THANH
Các sử gia được mệnh danh là người thư ký của thời đại. Họ là những con
người tận tuỵ với vai trò viết sử, trung thành với sự thật lịch sử và họ là những người
của chính sử. Sự vinh danh này quả rất đúng đắn bởi lẽ khơng có những người làm sử
thì khơng biết loài người sẽ sống ra sao, sẽ bước đi như thế nào khi mà lịch sử cứ ngày
một dần lùi vào dĩ vãng. Viết sử cần mượn văn để diễn đạt ý tứ, cịn đối với văn
chương thì lịch sử có vai trị là nguồn dữ liệu dồi dào. Để tìm hiểu, nắm bắt sự vận
động biến chuyển của một thời đại, một đế chế người ta không chỉ dựa vào sách sử mà
cịn tìm tịi trên những trang văn, tức những tác phẩm văn học ra đời trong những giai
đoạn lịch sử nhất định và còn tồn tại tới thời điểm hiện tại. Văn chương có con đường
riêng, có nhãn quan riêng do vậy có cách đánh giá riêng. Các nhà văn có thể coi là
những thư ký ẩn mình bởi những đặc điểm, những sự kiện, những vấn nạn của thời đại
được nhà văn khéo léo lồng vào đứa con tinh thần của họ một cách hết sức tài tình, lơi
cuốn mà sâu sắc. Hồng lâu mộng – một kiệt tác của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là
một tác phẩm như vậy. Cái mà Hồng lâu mộng đem lại cho độc giả không phải là
những giáo điều khơ cứng, những triết lý huyễn hoặc mà chính là tiếng nói của thời đại
được phát ra từ những tâm hồn thánh thiện. Từ đó đưa đến nhiều cảm nhận mới mẻ về
tình người, tình đời, đồng thời nâng cao trình độ thưởng thức thẩm mỹ cho độc giả. Và
người đời đã tôn vinh Hồng lâu mộng là pho sách kỳ lạ nhất trên đời. Hơn thế nữa,
Hồng lâu mộng còn là tác phẩm đánh dấu bước chuyển tiếp giữa hai thời kỳ văn học
Trung Quốc từ trung đại sang hiện đại.
1.1 Hồng lâu mộng – đỉnh cao của tiểu thuyết Minh Thanh
Trung Quốc xưa nay vẫn được biết đến như một cái nơi lớn của văn minh – văn
hố nhân loại. Nơi sản sinh ra biết bao kỳ tích ở nhiều lĩnh vực từ khoa học kỹ thuật
cho đến văn hố nghệ thuật. Cùng với nó là sự hưng vong, thịnh suy của các triều đại
phong kiến Trung Quốc – âu cũng là quy luật tất yếu của các hình thái ý thức xã hội.
Một cách rất tự nhiên văn chương đã phản ánh những trái ngang, bất công, phi luân
thường đạo lí và người sống cùng nỗi thống khổ của nhân sinh ấy chính là các tác gia
văn học. Nói cách khác, cuộc sống mn màu là chất liệu, là dưỡng chất hun đúc nên
những áng văn bất hủ. Nền văn học Trung đại Trung Quốc từ Hán-Đường-TốngNguyên-Minh-Thanh đã để lại nhiều đỉnh cao văn chương gắn liền với từng triều đại.
- 15 -
Một khi nhắc đến triều đại nào thì người ta cũng không quên nhắc đến thể loại văn
chương tiêu biểu của triều đại ấy, có thể kể ra đây theo thứ tự: Phú-Thi-Từ-Khúc-Tiểu
thuyết. Như vậy, tiểu thuyết là thể loại khép lại chặng đường hàng thế kỷ phát triển
của văn học Trung đại Trung Quốc.
1.1.1 Sự trỗi dậy của tiểu thuyết trường thiên
Nhìn lại từng giai đoạn phát triển của văn học Trung đại Trung Quốc: Hán
phú – Đường thi – Tống từ – Nguyên khúc – Minh Thanh tiểu thuyết, có thể thấy rõ sự
ưu ái của người Trung Quốc đối với thơ ca từ phú. Điều này không phải đến thời kỳ
văn học bác học mới bộc lộ mà nó đã thể hiện trong văn học dân gian của người Trung
Quốc, được tập hợp trong Kinh thi – nơi hội tụ lời ca tiếng hát của tầng lớp bình dân.
Đường thi của người Trung Quốc là đỉnh cao của văn chương nhân loại, người nhà
Đường làm thơ vừa bộc lộ tình yêu thơ ca vừa là phương tiện để tiến thân bởi vua
Đường đã từng dựa vào việc làm thơ để tuyển dụng nhân tài. Quả thật, thơ từ đã chiếm
giữ một vị trí rất quan trọng trong tâm thức, tâm cảm người Trung Quốc.
Tiểu thuyết xuất hiện vào giai đoạn cuối của văn học Trung đại Trung Quốc đã
thể hiện một sự chuyển mình rất mạnh mẽ và mang tính cách mạng trên văn đàn Trung
đại Trung Quốc. Để được công nhận là một đỉnh cao của văn học Trung đại Trung
Quốc đó là cả một q trình tích luỹ và kế thừa có chọn lọc từ những thể loại văn học
trước đó, một thời gian dài nếm mật nằm gai của thể loại này.
Tiểu thuyết cổ Trung Quốc ra đời và phát triển vào đời nhà Minh, nhà Thanh
nên có tên gọi là tiểu thuyết Minh – Thanh. Các thể loại văn học của các giai đoạn
trước như truyền kỳ đời Đường, thoại bản đời Tống, xa hơn nữa là thần thoại, sử ký,
chí nhân chí quái đã tạo dựng một nền tảng cơ bản và vững chắc cho sự ra đời của tiểu
thuyết sau này. Thể loại tiểu thuyết với dung lượng lớn, đề tài phong phú đã phản ánh
được rất nhiều mảng màu, nhiều lát cắt của đời sống xã hội. Những tuyệt tác tiểu
thuyết ra đời vào thời Minh như Tam quốc chí diễn nghĩa, Tây du kí, Thuỷ hử
truyện … thể hiện rất rõ sự kế thừa, tiếp thu hết sức xuất sắc của người đời sau.
Một yếu tố không thể khơng kể đến trong việc góp phần vào sự hình thành và
phát triển rực rỡ của thể loại tiểu thuyết, đó là yếu tố thời đại. Xã hội bấy giờ đã sản
sinh ra một tầng lớp người có nhu cầu thưởng thức nghệ thuật mới, muốn đời sống tinh
thần trở nên đa dạng hơn, khơng muốn gị ép bản thân vào những bài thơ, bản nhạc
quá câu nệ hình thức. Bên cạnh đó sự cai trị hà khắc của nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền càng làm cho khơng khí thời đại thêm ngột ngạt, tù túng. Sống và thở
- 16 -
thế nào khi xung quanh bị bao vây bởi hàng rào ln thường đạo lý vơ hình nhưng hữu
dụng; chính sách văn hố "ngục văn tự" liệu rằng tâm hồn thơ có thể cất cánh. Chính
vì vậy, hơn lúc nào hết sự đổi mới là cần thiết, là phù hợp với cách nhìn, cách cảm thế
giới xung quanh của con người thời đại.
Tầng lớp thị dân xuất hiện ngày càng đơng đảo báo hiệu sẽ có nhiều thay đổi
trong xã hội. Sự phát triển của nhiều loại hình kinh tế, việc giao thương giữa các vùng
miền trong nước và quốc tế của Trung Quốc thời kỳ này cũng đã phát triển cả về lượng
lẫn về chất. Về kinh tế, cho dù kinh tế phong kiến vẫn giữ vai trị chủ đạo, xã hội bắt
đầu manh nha hình thành kinh tế tư bản chủ nghĩa, một hình thái kinh tế chưa từng tồn
tại trong xã hội Trung Quốc trước đó. Về tư tưởng, con người khơng cịn đặt niềm tin
tuyệt đối vào tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức – những tư tưởng mà triều đình
phong kiến ln đề cao và coi đó là thành trì của xã hội. Cho đến cuối đời Thanh thì
Trung Quốc đã trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa. Những chuyển biến
về kinh tế, tư tưởng đang nẩy nở trong lòng xã hội mới chỉ là những dư chấn nhỏ chưa
đủ làm lung lay nền móng kiên cố của chế độ phong kiến hàng ngàn năm, nhưng cũng
khiến cho diện mạo của xã hội phong kiến Trung Quốc khơng cịn nguyên vẹn như
xưa nữa mà đó là một kiểu "phong kiến nửa mùa" hay mỹ miều hơn là "buổi hồng
hơn của chế độ phong kiến Trung Quốc".
Các thuyết thoại nhân là những người kể chuyện, sống dựa vào lượng người
nghe đã có mặt từ thời Tống, đến thời Minh Thanh nghề in ấn đã biến người nghe
thành người đọc nhờ đó mà viết văn trở thành một nghề để kiếm sống, để mưu sinh
của nhiều tri thức đương thời. Bấy giờ tiểu thuyết bị triều đình phong kiến liệt vào
hàng sách cấm, sách dâm ô hạ đẳng giới quyền quý khơng đụng đến chỉ có phường
bình dân ít học mới thích đọc nhưng phải chịu sự kiểm sốt khắt khe của chính quyền.
Cho dù bị đối xử phân biệt như vậy song sức sống của tiểu thuyết thì khơng thế lực
nào ngăn cản nổi, bên cạnh đó thú đọc tiểu thuyết đã được hình thành như là một hoạt
động tinh thần, một thị hiếu mới không thể thiếu trong nhân gian.
Tiểu thuyết cổ Trung Quốc ngoài những tên gọi như tiểu thuyết Minh Thanh,
tiểu thuyết chương hồi ra còn một tên gọi khác khá phổ biến đó là tiểu thuyết cổ điển.
Tuy nhiên không phải tiểu thuyết nào cũng được gọi là tiểu thuyết cổ điển, chỉ có một
vài bộ tiêu biểu mà thôi. Chuẩn mực này do ai quy định, căn cứ vào tiêu chí nào để
thẩm định thì hiện chưa xác định rõ. Người đời mặc nhiên tự cơng nhận với nhau và
những bộ tiểu thuyết đó trở thành những tác phẩm xuất sắc của nền tiểu thuyết cổ
Trung Quốc.
- 17 -
Sự đa dạng về thể loại cùng với sự ra đời của hàng loạt tiểu thuyết trường
thiên vào đời Minh như Phong thần diễn nghĩa, Bắc Tống chí truyện, Thơng tục diễn
nghĩa, Kim Bình Mai, v.v… và sự kế thừa phát huy ở đời Thanh với những bộ tiểu
thuyết: Tuỳ Đường diễn nghĩa, Thuỷ hử hậu truyện, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng
v.v… một lần nữa khẳng định một cách hùng hồn và đầy thuyết phục rằng Minh
Thanh thật sự là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết trường thiên.
1.1.2 Hồng lâu mộng – sự kế thừa những đặc trưng của tiểu thuyết cổ
Trung Quốc
Được thai nghén trong bầu khơng khí văn học Trung đại, lại được ni dưỡng
từ suối nguồn văn hố nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, Hồng lâu mộng ơm trọn
trong mình hơi hướng thời đại cũng như những kết tinh tinh tuý ngàn đời Trung Quốc.
Quả vậy, yếu tố thời đại thể hiện trong Hồng lâu mộng không chỉ nằm ở nội dung tác
phẩm mà cịn cả trên phương diện hình thức. Những gì thuộc về đặc trưng nghệ thuật
của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đã được tác giả Hồng lâu mộng kế thừa một cách ưu tú.
Xã hội Trung Quốc được xây dựng nên bởi các tập đoàn phong kiến hùng mạnh
và đầy quyền lực, hết triều đại này đến triều đại kia thay phiên nhau nắm quyền thống
trị lãnh thổ rộng lớn ở Đơng Á này. Nói là thay phiên nhưng trên thực tế việc thay ngôi
đổi chúa giữa các thế lực phong kiến là hết sức phức tạp và vô cùng nghiệt ngã. Giành
lấy ngôi vị đứng trên trăm họ đã khó, gìn giữ duy trì sự thống trị của dịng tộc càng
khó khăn hơn gấp bội, cho nên để có thể nắm quyền tối thượng trong tay các vị hồng
đế trung cổ đã tự phong mình là thiên tử, tức con trời và tự ban cho mình cái quyền
thay trời hành đạo. Xây dựng nên một nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền,
quyền lực được thâu tóm trong tay một người là nét đặc trưng cơ bản của kiểu nhà
nước thời Trung đại. Hoàng đế ngồi trên ngai vàng trị vì thiên hạ, để bảo vệ cho ngai
vàng mãi vững chắc, để củng cố địa vị quyền lực tối cao ơng ta khơng ngừng đưa ra
những chính sách hà khắc bắt buộc bách tính phải tn phục. Ngồi những chính sách
chăm lo cho đời sống con dân của hồng đế, thì phần nhiều là những thuyết sách áp
đặt về mặt tư tưởng, tinh thần đã được nhà nước phong kiến quy chuẩn theo chuẩn
mực riêng. Các triết lý tư tưởng đạo đức thuần tuý được giai cấp thống trị biến thành
các ý thức hệ tư tưởng của chế độ – xem đó như là một cơng cụ nơ dịch về tinh thần
đối với mọi tầng lớp trong xã hội. Thế nên, tất cả các hoạt động kinh tế chính trị, văn
hố xã hội đương thời đều chịu sự chi phối của vương quyền và tôn giáo. Tiểu thuyết
cổ Trung Quốc thuộc loại hình văn học Trung đại cũng khơng thể tách rời hay thốt ly
khỏi sự lệ thuộc này. Tư tưởng "Ủng Lưu phản Tào" là tư tưởng chủ đạo của bộ tiểu
- 18 -
thuyết Tam quốc chí diễn nghĩa đã phản ánh đầy đủ sự thống trị của ý thức hệ tư tưởng
Nho gia lên quần chúng nhân dân. Một ý thức hệ tư tưởng quan trọng khác là Phật
giáo đã được thể hiện trong Tây du ký – câu chuyện về chặng đường gian nan khổ ải
của bốn thầy trò Đường Tam Tạng sang Tây Trúc thỉnh kinh. Không chuyên biệt về
một tư tưởng, triết lý nào như hai bộ tiểu thuyết trên, Hồng lâu mộng mang trong mình
những triết lý nhân sinh cùng sự hiện diện của cả ba hệ tư tưởng lớn Nho – Phật – Đạo.
Tiểu thuyết cổ là một thể loại văn học, điều ấy hoàn tồn chính xác khơng có gì
phải bàn cãi hay nghi ngại. Vấn đề là ở chỗ, cũng là kể lại một câu chuyện song thái
độ của sử gia là khách quan, là trung dung dường như vơ tình trước những sự kiện
đang chảy ra dưới ngịi bút của ơng ta. Cịn người nghệ sĩ ngơn từ thường đứng ở vai
trị người kể chuyện thì khơng thể nào bàng quan đối với câu chuyện đang kể, việc bộc
lộ chính kiến dù chủ quan hay khách quan của người dẫn truyện đều góp phần vào
thành cơng của tác phẩm. Các thuyết thoại nhân đời Tống khi kể chuyện cũng có thủ
thuật riêng để thu hút, lôi cuốn người nghe, một trong những thuật đó là biết dừng câu
chuyện đúng lúc mâu thuẫn phát triển lên đến cao trào – lúc người nghe đang hồi hộp
chờ đợi kết cục nhất. Vì sống bằng nghề kể chuyện nên hành động này của thuyết
thoại nhân khơng chỉ gieo vào lịng người nghe sự tị mị, sự nghi vấn mà cịn kích
thích khao khát phải nghe cho bằng hết để xem kết cục ra sao và thế là hôm sau "đến
hẹn lại lên". Là một thể loại văn học cổ cho nên vai trò của người dẫn truyện trong tiểu
thuyết cũng hết sức quan trọng. Lối kể truyện "Nhất khẩn nhất túng" – khi khoan khi
nhặt, khi buông khi bắt; hay kiểu đầu cuối tương ứng – tức bất ngờ đến vào phút chót,
khiến cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn đem lại nhiều khoái cảm cho người đọc.
Tiểu thuyết Minh Thanh còn được gọi là tiểu thuyết chương hồi cũng bởi lí do này, sau
mỗi hồi tác giả đều đề câu "hạ hồi phân giải" (ϟಲߚ㾷). Nghệ thuật viết tiểu thuyết
theo kết cấu chương hồi cũng là một đặc điểm tiêu biểu của tiểu thuyết cổ Trung Quốc.
Tào Tuyết Cần dẫn dắt độc giả vào câu chuyện của ơng thật uyển chuyển, nói như một
lời nhận xét về L.Tonxtol là nắm tay bạn đọc dắt đi như sợ lạc mất họ vậy. Đây là
nghệ thuật kể chuyện truyền thống, rất đề cao vai trò của người dẫn chuyện mặc dù tác
giả không hề lộ diện.
Một số đặc điểm quan trọng trong bút pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết
cổ như là: thông qua hành động của nhân vật khắc hoạ tính cách nhân vật, hay tính
cách nhân vật được bộc lộ ngay từ khi nhân vật xuất hiện, hoặc mọi hành động của
nhân vật đều nhằm thể hiện một đặc trưng của tính cách, nhân vật được miêu tả theo
lối ước lệ, tượng trưng,... Tác giả khơng trực tiếp miêu tả tính cách nhân vật mà người
- 19 -
đọc phải tự luận giải ra từ những nét chấm phá sơ sài nhưng đủ nghĩa về hình dáng bên
ngoài và từ hành động của nhân vật. Điều này thể hiện quan niệm nhìn người của
người xưa, là vì họ cho rằng những đặc điểm, cử chỉ bên ngồi có liên hệ chặt chẽ tới
cá tính của con người. Quan Vân Trường trong Tam quốc chí diễn nghĩa xuất hiện với
những đặc điểm mang tính khoa trương, ước lệ như: "mình cao chín thước, râu dài hai
thước, mặt như hai quả táo chín, mơi như tơ son, mắt như mày tằm, cưỡi ngựa Xích
Thố ngày đi nghìn dặm, cắp thanh long đao, oai phong lẫm liệt". Nếu dựa vào những
nét chấm phá như trên thì đã phần nào mường tượng ra được tính cách của Quan Cơng.
Song chưa đủ, phải qua cách xử trí và những biểu hiện thực tế như hành động chém
bay đầu Hoa Hùng – một tướng giỏi dưới trướng Đổng Trác, khi quay về ly rượu Tào
Tháo mời vẫn cịn bốc khói; rồi cả sự khơn ngoan lường trước mọi biến cố có thể xảy
ra khi nhận lời Lỗ Túc sang đất Kinh Châu dự tiệc v.v… mới thấy hết con người Quan
Công, một đại diện của tuyệt nghĩa, trí dũng song tồn mà La Quán Trung dày công
xây dựng:
Gương trung vằng vặc soi trời bể,
Khí nghĩa ầm ầm nổi gió mưa.
Trong Hồng lâu mộng những đặc trưng nghệ thuật này cũng được trình bày rất
rõ thông qua nhân vật Lâm Đại Ngọc, Vương Hy Phượng. Đại Ngọc "tim đọ tim Tỉ
Can hơn một khiếu, bệnh so Tây Tử trội vài phân", đây là cách miêu tả ước lệ, tượng
trưng nhằm diễn tả một con người giàu xúc cảm và lắm bệnh tật, như lời thằng Hưng:
lại văn hay, chữ tốt, chỉ tội hay ốm đau luôn [15, tập 4, tr.121]. Một cô gái dù là con
nhà quan thì cũng chỉ thường thường bậc trung nhưng lại được so với những nhân vật
tiếng tăm trong lịch sử, quả là không đơn giản chút nào. Tác giả giới thiệu nàng tiểu
thư họ Lâm với độc giả như vậy ắt có dụng ý riêng, nó như thế nào sẽ được kiến giải ở
chương sau, chỉ thấy rằng hành động của nàng khá khác thường – chôn hoa. Hành
động này nói lên điều gì về tính cách của Lâm Đại Ngọc? Yếu ớt, đa sầu đa cảm, nỗi
lịng khó giải bày cùng ai,… quả là nàng mỏng mảnh như đố phù dung vậy. Một cơ
gái trẻ song nỗi bi ai chất ngất cõi lịng:
Chơn hoa người bảo ngẩn ngơ
Sau này ta chết ai là người chôn.
Hồi thứ ba là hồi nhiều nhân vật trung tâm của Hồng lâu mộng xuất hiện, tuy
nhiên có hai sự xuất hiện trái chiều nhau rất đáng chú ý. Đó là một tiểu thư khép nép
khi bước chân vào nhà họ hàng thân thích nhưng cao quý và nghiêm ngặt hơn ở với
- 20 -
cha. Người đó là cơ Lâm. Ngược lại với cử chỉ e dè, khiêm tốn của người là khách,
nàng dâu trẻ của Giả phủ xuất hiện trong sự ngạc nhiên của người kia: Đại Ngọc lấy
làm lạ, nghĩ bụng: "Ở đây ai cũng im hơi lặng tiếng, khép nép nghiêm trang, không
biết người nào mà lại dám vô lẽ, ăn nói bơ bơ như thế" [15, tập 1, tr.66]. Vì chưa thấy
người đã thấy tiếng: phía sau nhà có tiếng cười: tơi đến chậm, khơng được ra đón
khách, sự tự tin đó khơng ai khác ngồi Phượng Thư, cháu dâu cưng của Giả mẫu.
Nhân vật này ngay khi xuất hiện tác giả đã khắc họa đầy đủ tính cách của nàng ta
thơng qua cử chỉ, lời nói rất ư là bài bản và linh hoạt: nào là khen sắc đẹp của Đại
Ngọc trong thiên hạ không ai sánh bằng và cho rằng phải là cháu nội của Giả mẫu mới
xứng, nào là vừa cười vui hớn hở đón khách đấy đã nhỏ lệ cảm động phận con côi của
cơ cháu ngoại Giả mẫu. Khơng những thế cịn lột tả được cả vị thế của nàng dâu trong
Giả gia qua lời nàng căn dặn Đại Ngọc: "Em bao nhiêu tuổi? Đã đi học chưa? Hiện
đang uống thuốc gì? Ở đây đừng nhớ nhà nhé! Muốn ăn gì, chơi gì em cứ bảo chị.
Bọn người nhà có hỗn láo thì mách chị" [15, tập 1, tr.67].
Không chỉ tiếp thu thủ pháp miêu tả tính cách nhân vật của tiểu thuyết cổ mà
trong Hồng lâu mộng cịn có những đoạn ví von rất thú vị về những nhân vật trong
truyện. Như cách nói khoa trương của thằng Hưng hầu trai của Giả Liễn về hai thiếu
nữ tài hoa xinh đẹp có tiếng Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa: "Khi gặp các cô ấy đi ra
cửa, hoặc lên xe hay chơi trong vườn, chúng cháu sợ q khơng dám thở... Chính là
giữ lễ phải tránh xa, điều đó khơng cần nói. Mặc dù đã tránh xa, nhưng ai nấy vẫn
phải nín thở vì sợ thở mạnh quá sẽ thổi ngã mất cơ Lâm, thở nóng q sẽ làm tan cơ
Tiết" [15, tập 4, tr.121-122]. Bởi một cơ thì là nàng Tây Thi đa bệnh, cịn một cơ thì
như từ đống tuyết chui lên.
Ngồi ra cịn rất nhiều những câu nói rất nhã thể hiện phong thái của những con
người nhã, như khi viết thư mời Bảo Ngọc tham gia Liên xã, Thám Xuân đã dùng một
câu tuy khách khí nhưng lại mang phong cách thi nhân tao nhã: "Nếu được anh đội
tuyết đến chơi, em xin quét hoa để đợi" [15, tập 3, tr.283]. Hay có lần Bảo Ngọc khơng
sao lý giải nổi quan hệ chị em ngày một đằm thắm giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc, hỏi
thẳng không tiện, chàng bèn nghĩ ra một cách hỏi bằng điển rất tinh tế:
"Trong khúc "Nào giản" có một câu rất hay: "Tự bao giờ Mạnh Quang đỡ án
trước Lương Hồng"câu này chẳng qua là điển sẵn, nhưng ba chữ "tự bao giờ" ý hỏi
rất thú vị. Vậy thì họ đỡ án tự bao giờ? Em nói cho anh nghe" [15, tập 3, tr.169]. Dùng
điển cố, điển tích, sử dụng tục ngữ, thành ngữ trong giao tiếp hằng ngày là một thói
quen văn hóa của người Trung Quốc.
- 21 -
Trong Hồng lâu mộng bên cạnh diễn tiến của cốt truyện là sự góp mặt của thi,
từ, phú, điếu văn, khúc hát,… Có thể nói sự xuất hiện của các thể loại thuộc loại hình
văn học Trung đại ở một trăm hai mươi hồi truyện như những viên đá cẩm thạch góp
phần vào kiến thiết nên tổng thể hài hòa và quý giá của tòa "kiến trúc" Hồng lâu mộng.
Không những thế, một số tác phẩm do nhân vật làm cịn có đời sống riêng, khơng nhất
thiết phụ thuộc vào tác phẩm như bài Táng hoa từ của Lâm Đại Ngọc, bài Văn tế thần
hoa phù dung của Giả Bảo Ngọc. Có lẽ khả năng dung chứa được các thể loại văn học
khác vào một tiểu thuyết là đặc thù của thể loại tiểu thuyết cổ và Tào Tuyết Cần đưa
tác phẩm trong tác phẩm ra với cuộc đời.
Đã có nhận xét: "Bộ tiểu thuyết lấy gia tộc và lịch sử làm bối cảnh này chẳng
những trở thành một bộ tiểu thuyết cổ điển chiếm đỉnh cao của Trung Quốc, mà qua
sự tinh tế và hoàn mỹ về mặt nghệ thuật, nó mơ tả nỗi bi ai sâu sắc trong cuộc sống để
làm rung động nội tâm của thế nhân vốn đang thương cảm bởi một nỗi rung cảm
khơng tên" [48, tr.739]. Có điều này, tài năng của tác giả chưa đủ mà quan trọng hơn
chính là sự đồng cảm của độc giả. Quả là những cảnh ngộ đáng thương, những điều
ngang trái diễn ra nơi gia tộc họ Giả đâu phải do tác giả ép độc giả phải cảm thông,
phải rung động, ấm ức thay cho nhân vật mà chính bởi tác giả đã khơi, đã đánh động,
đã chạm vào được chốn tâm cảm của người đọc.
Việc kế thừa các thuộc tính của tiểu thuyết cổ Trung Quốc một mặt đưa Hồng
lâu mộng hồ cùng dịng văn học đang chảy cuồn cuộn thời bấy giờ, mặt khác đã phản
ánh đặc trưng bút pháp nghệ thuật của một thời đại văn chương. Ngồi ra, tác phẩm
cịn đáp ứng được tâm lí đón chờ một sự chín mùi nào đó về nội dung nghệ thuật của
độc giả đương thời, có nhận xét:
Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc đạt đến đỉnh cao với Hồng lâu mộng báo
hiệu một yêu cầu mới trong thị hiếu công chúng: ấy là lúc người nghe chuyển hoá
thành người đọc – họ muốn đọc những điều nhà văn khơng nói, muốn được nhìn thấy
trong nhân vật những thế giới sâu kín mà nhà văn khơng miêu tả, và muốn theo dõi
không phải chỉ một tuyến cốt truyện hoặc vài ba tuyến cốt truyện song song theo
đường thẳng mà là những cốt truyện đan bện, chồng chéo, đó mới là hình ảnh của
cuộc đời hay chí ít cũng giúp họ hình dung cuộc đời thật từ nhiều điểm nhìn [40,
tr1720].
- 22 -
1.1.3 Hồng lâu mộng – những đổi mới
Tiểu thuyết như là một thể loại văn học chỉ được xác định xuất hiện ở Trung
Quốc vào thời Minh Thanh, thế nhưng thuật ngữ tiểu thuyết thì đã tồn tại trên đất nước
này từ rất lâu đời. Sớm nhất là trong thiên "Ngoại vật" của Trang Tử (350-280), một
nhà tư tưởng lớn thời cổ đại Trung Quốc, một học trò xuất sắc của Lão Tử, sau đó có
trong sách Luận ngữ nhưng chỉ được coi là những lời lẽ vu vơ, tầm thường. Phải đến
đời nhà Hán mới coi tiểu thuyết là một thể văn thực thụ "những tác phẩm ngắn để sửa
mình, bàn việc nhà, có lời lẽ đáng xem" song cũng chỉ dừng lại là một hạng văn phố
phường không được đề cao. Sự thay đổi về thị hiếu đã dẫn đến sự thay đổi về quan
niệm của người Trung Quốc. Đến đời Minh – Thanh, tiểu thuyết đối với họ khơng cịn
là những câu chuyện nhỏ, cũng không ngang hàng với những tác phẩm được viết ra
bởi các nhà tư tưởng cổ đại mà nó đã tự hòa nhập vào cách hiểu chung của thế giới và
mang tính tồn cầu hơn. Căn cứ vào luận điểm của người phương Tây cho rằng đã là
tiểu thuyết thì phải có hư cấu và phải do cá nhân sáng tác, nội dung xoay quanh cuộc
đời nhân vật trung tâm. Hồng lâu mộng ra đời một mặt đáp ứng được nguyện vọng đổi
mới thị hiếu thưởng thức nghệ thuật; mặt khác, có thể thấy, so với các tiểu thuyết gia
Trung Quốc trung đại thì tác phẩm của Tào Tuyết Cần gần với hiện đại hơn cả bởi
nhiều lẽ.
Không dựa vào những câu chuyện truyền miệng trong nhân gian, không mượn
cốt truyện từ những thể loại văn học khác, Hồng lâu mộng là nỗi trăn trở, sự chiêm
nghiệm trải đời của bản thân Tào Tuyết Cần. Là một sáng tạo độc lập cho nên tác
phẩm thể hiện rất rõ cảm quan về nhân tình thế thái của người cầm bút. Đó là những
nét, những đường, những màu của cuộc sống hằng ngày đã được nhuận sắc dưới ngòi
bút điêu luyện của cây bút thức thời. Chuyện tình u, hơn nhân; đối nhân xử thế;
tranh quyền đoạt lợi; những chuyện nơi thâm cung bí sử trong các gia đình quyền thế,
danh gia hiển hiện lên đầy sinh động, thú vị qua từng câu chuyện nhỏ. Những chuyện
tưởng chừng như nhỏ nhặt, như mơ hồ ấy lại biểu đạt bao nhiêu ý tứ, bao nhiêu tâm
tình của người trong cuộc. Giả Bảo Ngọc có thói quen tìm kiếm sự thật trong mộng;
Lâm Đại Ngọc gửi gắm tâm sự vào tình yêu thơ ca, vào việc nâng niu những cánh hoa
tàn; Tiết Bảo Thoa làm tròn phận trách của một người phụ nữ phong kiến, nàng tìm
thấy niềm vui nơi đường kim mũi chỉ, nơi đạo lí thánh hiền. Đó chỉ mới là những nhân
vật chính, trong Hồng lâu mộng có tới sáu mươi kim thoa – chính sách, phó sách, hựu
phó sách, thì mỗi người một tâm tư tình cảm khác nhau. Người hướng nội, người
hướng ngoại song họ đều là những cô gái đáng thương, những hồng nhan lỗi giờ sinh.