KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC-LENIN
----------------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
***
TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA
CƠNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VIỆT NAM
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
GVHD: T.S BÙI XUÂN DŨNG
SVTH:
Mã lớp học: LLCT120205_31CLC
1
TP Hồ Chí Minh, tháng 5, năm 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý
do chọn đề tài:
Cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hang
đầu của nước ta. Mục tiêu của nó là làm cho xã hội phát triển về kinh tế - văn hóa
nâng cao đời sống nhân dân Việt Nam ngày càng ấm no hạnh phúc, hưởng tới sự hoàn
thiện về mọi mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng xác định “ Muốn cải
tiến trình trạng nhà nước lạc hậu hiện nay của nước ta đưa nước ta từ chế độ sản xuất
nhỏ là chủ yếu lên chế độ sản xuất lớn thì chúng ta khơng cịn đường nào khác ngồi
con đường cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vì vậy cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta. Điều đó địi
hỏi phải huy động mọi sự cố gắng sáng tạo của tồn xã hội, trong và ngồi nước của
cơng dân Việt Nam.
Xã hội loài người đã và đang trong giai đoạn phát triển. Từ khi còn là một xã hội
sơ khai nguyên thủy, giờ đây đã trở thành một xã hội văn minh hơn. Để đạt được sự
phát triển đó cần phải thực hiện cơng nghiệp hóa. Lịch sử cơng nghiệp hóa trên nhiều
nước cho thấy q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa là q trình lâu dài, khó khăn,
khơng dễ dàng gì mà đạt được song nó lại là con đường phát triển xã hội nhanh nhất.
Chúng ta vẫn còn là nước nghèo, lạc hậu và để khơng bị tụt lại so với các nước khác.
Thì chúng ta khơng cịn cách nào khác phải đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Mọi người cần phải nắm rõ nội dung cũng như biết mình nên
phải làm gì để thực hiện quá trình ấy một cách hiệu quả nhất và đúng đắn. Đây là vấn
đề quan trọng liên quan đến cách thức cũng như phương hướng phát triển đất nước.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề và đây cũng là đề tài cần thiết để nghiên cứu.
Nhóm chúng em đã thống nhất chọn đề tài này làm tiểu luận “Tính tất yếu khách quan
và nội dung của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.”
2. Mục tiêu nghiên
cứu:
Nghiên cứu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong nền kinh tế là một trong
những vấn đề bức xức, xôn xao trong nhiều năm nay. Đồng thời cũng được đông đảo
mọi người quan tâm. Nghiên cứu nhằm nhận thức rõ để từ đó đưa ra các hướng, biện
pháp để phát huy, tận dụng mọi nguồn lực cũng như sự ủng hộ của các nước nhằm
phục vụ cho q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Vận dụng kiến thức đã
2
học, qua tìm hiểu để hiểu rõ vai trị của q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Thực hiện đúng đắn q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa sẽ mang lại nhiều tác
dụng to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phân tích để thấy rõ mối
quan hệ gắn bó trực tiếp giữa cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với lực lượng sản xuất.
3. Phương
pháp nghiên cứu:
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận
xét, đánh giá.
Vận dụng các quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả, phân
tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.
4. Bố
cục đề tài:
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 6 chương chính:
Chương 1: Đơi nét về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Chương 2: Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay và tính tất yếu phải tiến hành cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Chương 3: Nội dung của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta.
Chương 4: Tiền đề thực tiễn, kinh nghiệm của các nước đi trước trong việc phát triển
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Chương 5: Những quan điểm, lý luận thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Chương 6: Tác dụng của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT.
1. Khái
niệm lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất,
kỹ thuật, cơng nghệ,... của q trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến
giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trị
phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong đó, cơng
cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự nhiên của con
người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là yếu tố đặc biệt quan
trọng).
3
Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi vì,
tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi con
người).
2. Khái
niệm quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa người
với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong q trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của q trình
sản xuất đó.
3. Quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất:
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình
sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình
sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của q trình sản xuất, cịn
quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong địi sống hiện thực,
khơng thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn
cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngồi những hình thức
kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng khơng có một q trình sản xuất nào có thể diễn ra
trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất khơng có nội dung vật chất
của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của
4
lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực
trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân
phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng
và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể
được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện
chứng nhưng trong đó, vai trị quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan hệ
sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất. Mối quan hệ thống nhất giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản
xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai
đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình
sản xuất cịn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của q trình đó.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ TÍNH
TẤT YẾU PHẢI TIẾN HÀNH CƠNG NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI HĨA.
1. Khái
niệm cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa:
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ cơng là chính sang
sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2. Lịch
sử phát triển của công nghiệp hóa:
Việt Nam khơng phải là nước đầu tiên lấy cơng nghiệp hóa làm trọng tâm của sự
phát triển. Lịch sử nhân loại đang chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin,
từ nền kinh tế dựa vào tài nguyên và máy móc sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào dữ
liệu, thông tin và tri thức. Thực chất các nước thực hiện cơng nghiệp hóa trong vịng
trên 200 năm từ cuộc đại cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVII. Được bắt đầu ở
Anh vào những năm 80 của thế kỷ XVII bằng sự đổi mới công nghệ se sợi và dệt làm
cho năng suất công việc ngày càng tăng lên và sự tăng trưởng của hang dệt trở thành
một loại sản phẩm dẫn đầu công nghệ chế tạo nhờ ở chun mơn hóa. Sau đó là sự ra
đời của máy hơi nước. Sau những thay đổi về dệt, luyện sắt và máy hơi nước. Cơng
nghiệp hóa lại tiếp tục tập trung vào sản xuất thép, đường sắt, đường thủy chạy bằng
hơi nước tạo nên cuộc cách mạng giao thơng vận tải và thị trường tồn cầu.
Kể từ đầu thế kỷ XX thì5 khoa học và cơng nghệ có bước tiến lớn trong việc phát
minh ra quy trình cho phép chế tạo thép từ quặng sắt có hàm lượng photpho cao đã
thúc đẩy sự phát triển công nghiệp ở những nước có nhiều quặng này. Những đổi mới
trong thời kỳ này về điện làm lạnh, hóa hữu cơ, động cơ đốt trong được xem như là cơ
sở của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai.
Tiếp đến giai đoạn 1913-1950, mặc dù được thừa hưởng nhiều đổi mới cơng nghệ
từ giai đoạn đó và có những đóng góp riêng. Nhưng sang q trình trong giai đoạn
này thì việc đổi mới bị chậm lại do những rối loạn về kinh tế - chính trị. Xảy ra cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai làm cho chủ nghĩa tự do hóa và tồn cầu hóa
bị sụp đổ. Cho đến giữa năm 1950 thì nền kinh tế được bước vào một thời kỳ phát
triển chưa từng có với sự ra đời của những tiến bộ khoa học công nghệ. Đã có một
bước tiến dài trong cơng nghệ viễn thông, điện tử và công nghệ robot tác động đến
quá trình sản xuất với những thành cơng cực kỳ to lớn.
3. Thực trạng
nền kinh tế nước ta ngày nay:
Thị trường Việt Nam đã được hình thành và từng bước hồn thiện gắn liền với
tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc dù thị trường
Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trị quan trọng trong việc
điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát
triển của mình, nền kinh tế nước ta gặp vơ vàn khó khăn, chịu sự tàn phá khắc nghiệt
của các cuộc chiến tranh, sự chủ quan của đội ngũ lãnh ngũ lãnh đạo các cấp trong
q trình khơi phục và phát triển kinh tế. Vì vậy trong một thời gian dài nền kinh tế
Việt Nam lâm vào sự phát triển trì trệ và lạc hậu. Sớm nhận thức được thực trạng đó,
kể từ Đại hội VI của Đảng đến nay chúng ta đã có những sự thay đổi mới trong việc
nhận thức đúng đắn quá trình đổi mới đưa nền kinh tế phát triển trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Mặc dù gặp
nhiều khó khăn, song nhờ vào sự nổ lực toàn diện của dân và Đảng, nền kinh tế nước
ta thốt khỏi trình trạng suy thoái, bước vào thời kỳ phát triển liên tục với trình độ
cao, đuổi kịp theo sự phát triển của các nước khác. Và đó là lý do vì sao chúng ta cần
phải tiến hành cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước:
+Thứ nhất, nó có tác dụng quyết định trong việc phát triển lực lượng sản xuất,
củng cố và hoàn thiện. Biến nền sản xuất nhỏ, thủ công, lạc hậu thành nền sản xuất
lớn cơ khí hóa và hiện đại hóa, khơng ngừng nâng cao năng suất lao động, bảo đảm
tái sản xuất mở rộng.
6
+Thứ hai về chính trị, có tác dụng trong việc xây dựng và tăng cường cơ sở xã
hội, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, củng cố khối liên minh cơng
nơng, bình đẳng giữa các dân tộc.
+Thứ ba về tư tưởng và văn hóa, thúc đẩy lực lượng sản xuất nâng cao ý thức lao
động, nâng cao trình độ văn hóa kỹ thuật. Tạo điều kiện vật chất để thay đổi tư tưởng
và văn hóa cũ xây dựng nền văn hóa mới và con người mới.
+Thứ tư về quốc phịng, khơng ngừng củng cố, tăng cường và hiện đại hóa nền
quốc phịng tồn dân.
Với những tác dụng to lớn và quan trọng cơng nghiệp hóa là nhân tố quyết định sự
thắng lợi của những nước kinh tế chậm phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin cũng đã khẳng định khơng một ai có thể tranh cãi được vấn đề vai trò quyết
định của nhân tố kinh tế “ phải chuẩn bị chiến tranh một cách lâu dài nghiêm túc bắt
đầu từ việc phát triển nền kinh tế trong nước. Tạo ra nhiều khả năng cho việc thực
hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ. Qúa trình
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung cơng
nghiệp hố và hiện đại hố trong q trình phát triển. Q trình ấy, khơng chỉ đơn
thuần phát triển cơng nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng
ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công
nghệ hiện đại. Quá trình ấy khơng chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hố, tự động
hố, tin học hố, mà cịn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ công truyền thống với công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính
quyết định. Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất – kỹ
thuật tương ứng. Cơ sở vật chất – kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu
tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ)
tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất .đáp
ứng nhu cầu xã hội.Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất – kỹ thuật của
một xã hội là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học
– kỹ thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất
thống trị.Nói cơ sở vật chất – kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ
sở vật chất – kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó.Đặc trưng của cơ sở vật chất – kỹ thuật của các phương thức sản
xuất trước chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng
của cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại cơng nghiệp cơ khí
hố.Chủ nghĩa xã hội – giai7 đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản – đòi hỏi một cơ sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ
kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại.Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền
cơng nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên
trình độ khoa học và cơng nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước
ta, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ
khơng đến có, từ gốc đến ngọn thơng qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước
tiến của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật
chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp
phần hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.Như khái niệm công nghiệp hóa –
hiện đại hóa là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi căn bản kỹ thuật,
cơng nghệ sản xuất, thực tiễn và xã hội hóa về mặt kinh tế, kỹ thuật góp phần tăng
năng suất, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao. Tạo được sự ổn định và
nâng cao đời sống của người dân. Có ý nghĩa cách mạng rất sâu sắc và toàn diện với
sự nghiệp xây dựng xã hội.
4. Cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa là xu hướng mang tính quy luật của các
nước đi từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn:
Nhiệm vụ cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đã được thực hiện ở nước ta trong
những năm qua, nhất là thời kỳ đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng tạo thế và lực cho thời kỳ phát triển tiếp theo. Bên cạnh những thành tựu đã đạt
đượ c chúng ta không tránh khỏi những sai lầm. Để giải quyết những nhiệm vụ mới
đặt ra cùng khắc phục những thiếu xót khiếm khuyết, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh
tế đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường
tiềm lực quốc phòng an ninh, củng cố vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia thì
khơng có con đường nào khác con đường đẩy mạnh cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước.
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG CỦA CƠNG NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI HĨA Ở
NƯỚC TA.
1. Phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội:
Như chúng ta đã biết lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên, bao gồm con người, tư liệu sản xuất; nó thể hiện năng lực của con người
8
trong việc chinh phục giới tự nhiên, là nội dung của phương thức sản xuất, cơ sở của
lịch sử.
Trong lực lượng sản xuất, con người là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng con người
không phải là cái nhất thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế, với tư cách là yếu
tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất nó cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn, trong
thời kỳ cơng trường thủ cơng, trong các khía cạnh của con người tham gia vào lực
lượng sản xuất thì khía cạnh sức lực cơ bắp có vẻ nổi trội; trong thời kỳ cơ khí máy
móc thì khía cạnh năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm lao động lại nổi trội hơn; trong thời
đại kinh tế tri thức hiện nay (hàm lượng tri thức trong sản phẩm chiếm đến 70%) thì
khía cạnh tri thức lại nổi trội. Như vậy, cái quan trọng có tính chất quyết định trong
lực lượng sản xuất hiện nay không phải là sức lực cơ bắp, không phải là kỹ năng, kinh
nghiệm sử dụng, vận hành máy móc, mà là tri thức, là đầu óc của con người. Một yếu
tố nữa của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu lao động bao gồm công cụ
lao động và đối tượng lao động. Trong lực lượng sản xuất, nếu con người là yếu tố
quan trọng nhất thì cơng cụ lao động là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển của cơng
cụ lao động thể hiện trình độ hay thước đo việc chinh phục giới tự nhiên của con
người. Sự thay đổi một cách căn bản công cụ lao động theo nghĩa nào đó đã góp phần
quyết định kéo theo sự thay đổi của các thời đại kinh tế. Theo nghĩa đó, C.Mác nói:
''Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản cơng nghiệp''. Trong lịch sử, trình độ của cơng cụ
lao động nhìn chung đã trải qua ba giai đoạn sau chủ yếu: thủ cơng, cơ khí, máy móc
và tự động hóa. Cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay không phải chạy bằng
hơi nước mà là tự động hóa.
Ngay đối tượng lao động hiện nay cũng khác trước rất xa. Nếu trong nền văn minh
nông nghiệp, đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất; trong văn minh cơ khí, đối
tượng lao động lại được mở rộng ra, ngoài ruộng đất đối tượng lao động chủ yếu của
thời kỳ này là các nguyên vật liệu như than đá, chất đốt, dầu khí, các ngun liệu hóa
thạch, các hầm mỏ,... nói chung là các nguyên vật liệu cần cho các ngành công nghiệp
như sắt, thép, sợi, dệt vải, ơ tơ, cơ khí chế tạo máy, ..., thì đối tượng lao động trong
thời đại ngày nay ngoài những đối tượng trên, chủ yếu lại là thơng tin.
Trong tư liệu sản xuất cịn bao gồm cả phương tiện sản xuất như đường xá, cầu
9
cống, xe cộ, bến cảng, kho chứa,
...
Hiện nay khoa học kỹ thuật cũng đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo
nghĩa nó là nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong sản xuất; nó ngày càng
được áp dụng rộng rãi trong sản xuất và trở thành một nhân tố khơng thể thiếu được
của q trình sản xuất; nó thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và đem lại
sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất; nó làm cho quá trình sản xuất chính là q
trình ứng dụng, áp dụng khoa học kỹ thuật; nó có ý nghĩa sống cịn đối với nhiều quá
trình sản xuất. Nếu con người là yếu tố quan trọng nhất xuyên suốt trong lịch sử của
lực lượng sản xuất thì khoa học kỹ thuật, theo Đặng Tiểu Bình, hiện là lực lượng sản
xuất số một, còn theo Giang Trạch Dân, là biểu hiện tập trung, tiêu chí chủ yếu của
lực lượng sản xuất tiên tiến. Hiện nay, tri thức, thông tin cũng là của cải. Theo đà phát
triển của sản xuất, khối lượng và chất lượng của cải xã hội sẽ được quyết định bởi ứng
dụng khoa học vào sản xuất. Từ đó một số học thuyết của các nhà tư tưởng tư sản đã
đi đến chỗ tuyệt đối hóa, thổi phồng, khuếch đại vai trò của khoa học kỹ thuật, chẳng
hạn như học thuyết các nền văn minh, học thuyết xã hội hậu công nghiệp, xã hội
thông tin, học thuyết kỹ trị,... nhằm mục đích thay thế học thuyết học thuyết hình thái
kinh tế xã hội của C.Mác.
Nhưng như chúng ta đã biết dù có trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa học
kỹ thuật cũng chỉ là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất,
yếu tố quyết định vẫn là con người, mặc dù khoa học kỹ thuật nâng cao địa vị, vị thế,
vai trò, sức mạnh của con người. Những máy vi tính có thể tính nhanh và chính xác
gấp triệu lần con người; những rơ bốt người máy có thể làm được những việc mà con
người khơng thể làm nổi. Nhưng những cái đó suy cho cùng đều do con người chế tạo
ra, nếu thiếu con người, thì tự bản thân chúng cũng khơng thể phát huy tác dụng, cũng
khơng thể làm gì được. Khoa học kỹ thuật muốn phát triển, tác động phải thông qua
con người, chịu sự chi phối bởi con người.
Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, “người ta không được tự do lựa
chọn lực lượng sản xuất cho mình... vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt
được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua... không phải do họ tạo ra, mà
do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những
thế hệ trước xây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất
mới, ...''.
10
Lực lượng sản xuất trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế hiện nay, nó khơng chỉ
được xã hội hóa như trước kia, mà nó ngày càng được tồn cầu hố, quốc tế hố. Tồn
cầu hố kinh tế trước hết là tồn cầu hoá lực lượng sản xuất, cái mà thời C.Mác gọi là
q trình tư bản hóa. Ơng viết :''Nhờ cải tiến mau chóng cơng cụ sản xuất và làm cho
các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả
những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của
giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc
những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục. Nó
buộc các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu không sẽ bị tiêu
diệt''.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ
khoa học kỹ thuật, trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức, trình
độ tổ chức, quản lý, phân cơng, trình độ ứng đụng khoa học kỹ thuật).
Như vậy, phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa
học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao
động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Đảng ta chủ trương phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học cơng
nghệ ngày càng cao là hồn tồn đúng đắn, là cái lõi quan trọng của sự phát triển lực
lượng sản xuất hiện nay ở nước ta.
Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế
thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa
xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh
mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Hiện nay, nhìn chung, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta là khá đa dạng,
khơng đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
- Công cụ lao động hiện11nay ở nước ta cũng rất đa dạng. Công cụ lao động thủ
cơng chiếm phần lớn trong nơng nghiệp, cịn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao
động giản đơn. Nhưng bên cạnh đó ta cũng đã có cơng cụ lao động ở trình độ cơ khí
hóa, hiện đại hóa, tự động hóa. Những cơng cụ lao động này thậm chí đan xen nhau
trong một cơ sở sản xuất, trong một nhà máy. Nếu như phương Tây nhìn một cách đại
thể đi từ lao động thủ cơng lên máy móc cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay
có tất cả. Điều này nói lên tính chất nhiều trình độ của cơng cụ lao động nước ta hiện
nay.
- Thích ứng với nhiều loại trình độ của cơng cụ lao động sản xuất như vậy, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác nhau, có
kinh nghiệm và kỹ năng của người lao động thủ công, giản đơn; có kinh nghiệm và kỹ
năng của người lao động cơ khí, máy móc; có kinh nghiệm và kỹ năng của người lao
động đối với những máy móc hiện đại, tự động hóa. Từ đó, trình độ tổ chức và phân
cơng lao động, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay
ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
- Về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung là thấp, chậm phát triển,
nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó, ta thấy trình độ khoa
học kỹ thuật nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.
2. Những
nội dung cụ thể của cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa:
2.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất:
- Thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội
- Áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào các ngành của nền
kinh tế quốc dân.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
2.2. Xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lí, hiện đại và hiệu quả:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự chuyển đổi từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu
quả và bất hợp lí, sang một cơ cấu kinh tế hợp lí, hiện đại và hiệu quả. Xu hướng của
sự chuyển dịch này là đi từ cơ
12 cấu kinh tế nông nghiệp lên cơ cấu kinh tế công, nông
nghiệp và dịch vụ hiện đại. Đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức.
3. Mở
rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại:
3.1. Triển khai tích cực cơng tác ngoại giao kinh tế:
Năm 1972, để chuẩn bị cho việc tái thiết sau chiến tranh, Bộ Ngoại giao đã thành
lập Tổ Kinh tế, thuộc Văn phịng Bộ. Ngày 27-2-1974, Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định số 30/QĐ-CP về việc thành lập Vụ Kinh tế thuộc Bộ Ngoại giao. Cơng tác
ngoại giao kinh tế chính thức trở thành nhiệm vụ của ngành. Nội dung kinh tế trong
hoạt động ngoại giao được gắn chặt với công tác chính trị.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động ngoại giao tập trung vào việc
tranh thủ viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, khắc phục hậu quả từ thế bao vây
cấm vận của phương Tây đối với Việt Nam. Bộ Ngoại giao tích cực đóng góp vào
việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng các chủ trương, chính sách kinh tế,
đưa đất nước thốt khỏi khủng hoảng. Năm 1985, ngoại giao phục vụ kinh tế được
xác định là nhiệm vụ chính của ngành. Bước vào thời kỳ đổi mới, Bộ Ngoại giao dành
nhiều quan tâm và nguồn lực hơn cho các hoạt động kinh tế nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho các hoạt động thương mại, đầu tư. Công tác ngoại giao kinh tế đã có
những bước phát triển quan trọng, góp phần tích cực vào việc duy trì mơi trường hịa
bình, ổn định, phá bỏ thế bao vây cấm vận; tháo gỡ, khai thông bế tắc giữa Việt Nam
với các đối tác lớn, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), triển khai chính sách hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động.
Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX cho đến năm 2006, công tác ngoại giao kinh
tế được triển khai với ba trọng tâm: Tiếp tục mở rộng quan hệ giữa Việt Nam với các
nước; thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc gia nhập Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), tích cực tham gia các diễn đàn khu vực và cơ chế hợp tác của Liên
hợp quốc; mở rộng hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong các hoạt
13
động xúc tiến kinh tế đối ngoại,
như thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện
trợ phát triển chính thức (ODA); đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu lao động và
xúc tiến du lịch.
Trong giai đoạn này, nhận thức về ngoại giao kinh tế được nâng cao. Hoạt động
ngoại giao kinh tế được triển khai một cách đồng bộ, tồn diện, có trọng tâm, trọng
điểm. Ngoại giao kinh tế đã kết hợp hài hịa với ngoại giao chính trị và ngoại giao văn
hóa. Qua các chuyến thăm cấp cao, nhiều thỏa thuận hợp tác kinh tế lớn được triển
khai; các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại được tổ chức thành công và đạt hiệu
quả tích cực. Nhiều cơ quan đại diện tích cực trong việc giới thiệu các cơ hội, đối tác,
khai thác các thị trường tiềm năng, cũng như phối hợp, hỗ trợ các cơ quan, doanh
nghiệp trong nước kịp thời xử lý các tranh chấp kinh tế quốc tế.
Ngoại giao kinh tế thường xuyên tăng cường thông tin, nghiên cứu để tham mưu
cho Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô, đưa ra các giải pháp để khắc
phục các thách thức, khó khăn. Ngồi ra, ngoại giao kinh tế chủ động hỗ trợ các yêu
cầu cụ thể của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, tham gia xử lý các vụ kiện
tranh chấp thương mại,...; hỗ trợ các địa phương trong việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại, như giới thiệu các tổ chức xúc tiến đến tìm hiểu các địa phương Việt Nam,
tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư của địa phương trong nước.
Ngoại giao kinh tế còn chú trọng vận động kiều bào ở nước ngoài. Tháng 7-2006,
lần đầu tiên Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị các doanh nghiệp Việt kiều tại Đà
Nẵng, thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp Việt kiều. Nhiều cơ quan đại diện, nhất là
tại Nga và Trung - Đông Âu, đã vận động các doanh nghiệp Việt kiều kết nối, đưa
hàng hóa của Việt Nam vào khu vực này. Tuy nhiên, do đây là thời kỳ “chuyển mình”,
“tìm đường” nên hoạt động ngoại giao kinh tế không tránh khỏi những lúng túng, bỡ
ngỡ ban đầu. Cách thức thực hiện, tổ chức bộ máy vẫn chưa theo kịp thực tiễn. Nội
hàm của ngoại giao kinh tế vẫn cần tiếp tục được điều chỉnh và hồn thiện.
Giai đoạn từ năm 2007 đến nay, vai trị của ngoại giao kinh tế đã được xác định rõ
hơn, đó là: Vai trị mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao kinh tế cùng với
ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa để khai thơng, mở rộng và đưa quan hệ hợp
tác của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, đi tiên phong trong việc khai mở
các thị trường, các lĩnh vực hợp tác quốc tế mới. Vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà
nước, các bộ, ngành, địa phương
trong việc hoạch định chính sách vĩ mô, chiến lược
14
phát triển, các vấn đề kinh tế - chính trị quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế. Vai trò hỗ
trợ cùng các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại
trên tinh thần các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp là chủ đạo, ngoại giao kinh tế
hỗ trợ, giải quyết những vấn đề vướng mắc trong triển khai các kế hoạch, dự án hợp
tác với nước ngồi. Vai trị đơn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ,
các cam kết quốc tế về kinh tế đối ngoại.
Đến nay, công tác ngoại giao kinh tế được triển khai trên nhiều lĩnh vực và đạt
được những kết quả quan trọng:
Một là, chủ động đề xuất, gia tăng nội hàm kinh tế trong các chuyến thăm của
lãnh đạo cấp cao, nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành và phối hợp của ngoại giao kinh
tế. Những chuyến thăm này khác trước ở chỗ, vừa tăng cường quan hệ chính trị, vừa
tăng cường quan hệ kinh tế. Năm 2018, ngoại giao kinh tế đã đi đầu thúc đẩy hình
thành có trọng tâm các kênh hợp tác mới, khả thi, dài hạn, nhất là với các đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện, đồng thời tháo gỡ những vướng mắc trong quan hệ kinh
tế song phương. Về bình diện đa phương, Bộ Ngoại giao cùng các bộ, ngành đã vận
động các nước, thúc đẩy các đàm phán, ký kết và phê chuẩn các hiệp định thương mại
tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới, bảo đảm lợi ích then chốt, vị thế đối ngoại
và quan hệ của Việt Nam với các đối tác quan trọng. Góp phần hiệu quả vào việc vận
động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Đến nay đã có 71 nước
cơng nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường(1).
Hai là, thúc đẩy, tạo bước đột phá trong quan hệ của Việt Nam với các nước, tạo
môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2018 ghi nhận nỗ lực thúc
đẩy những lợi ích kinh tế thiết thực, nâng cao hình ảnh và vị thế đối ngoại của Việt
Nam tại các diễn đàn đa phương, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), các cơ chế hợp tác tiểu vùng như Tiểu vùng
sông Mê Công mở rộng (GMS), Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady Chao Phraya - Mê Công (AMECS),... Đặc biệt, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về
ASEAN (WEF ASEAN) được tổ chức tại Việt Nam năm 2018 đã tạo được nhiều dấu
ấn sâu đậm. WEF ASEAN 2018 đem lại nhiều ý tưởng hữu ích cho Việt Nam trong
xây dựng, triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như
trong công tác chuẩn bị cho việc đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN 2020.
15
Ba là, với thế mạnh đặc thù quản lý mạng lưới cơ quan đại diện ở nước ngồi và
được tiếp xúc các cơ chế tham vấn chính sách quốc tế, ngoại giao kinh tế kịp thời thực
hiện các báo cáo đánh giá, dự báo về tình hình kinh tế thế giới, cung cấp kinh nghiệm
quốc tế về xử lý các vấn đề kinh tế, tham mưu cho Chính phủ trong điều hành kinh tế
vĩ mơ, ứng phó với khủng hoảng.
Đối với doanh nghiệp, các cơ quan đại diện và các đơn vị của Bộ Ngoại giao đã
tích cực hỗ trợ việc tìm hiểu tập quán kinh doanh, tìm kiếm cơ hội đầu tư, thâm nhập
thị trường nước ngồi, bảo hộ lợi ích và hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong
tranh chấp thương mại. Phát huy vai trò cầu nối, các cơ quan đại diện cung cấp thông
tin về môi trường đầu tư, kinh doanh, giải đáp các thắc mắc về quy định kinh doanh
của Việt Nam, hỗ trợ nhiều tập đoàn nước ngoài mở rộng, tăng cường đầu tư, kinh
doanh tại Việt Nam. Bộ Ngoại giao cũng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển
khai các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại mang tính đột phá vào một số thị trường
trọng điểm.
Bốn là, đổi mới vai trò của ngoại giao kinh tế trong việc góp phần kiến tạo những
điều kiện cần cho chuyển tiếp kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Bộ
Ngoại giao đã đa dạng hóa, đa phương hóa các kênh, nguồn thơng tin, tranh thủ tối đa
hợp tác của các đối tác nước ngồi. Đa dạng hóa các sản phẩm thơng tin kinh tế, như
ngoại giao kinh tế trực tuyến, bản tin nhanh nhằm cung cấp thông tin cập nhật và kịp
thời về tình hình và chính sách kinh tế của các nước lớn, của khu vực, các bài nghiên
cứu về các vấn đề “nóng”, các vấn đề mới nổi.
Các hoạt động hỗ trợ địa phương được coi trọng và triển khai dưới nhiều hình
thức như hỗ trợ tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tại chỗ, hỗ trợ kết nối hợp tác giữa
các địa phương Việt Nam với các địa phương nước ngoài, tổ chức các đoàn xúc tiến
của địa phương ở nước ngồi có trọng tâm, trọng điểm. Trong năm 2018, nhân dịp
Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, Bộ Ngoại giao lần đầu tiên tổ chức tọa đàm giữa các
cơ quan đại diện của Việt Nam ở hơn 90 quốc gia với gần 400 doanh nghiệp để trao
đổi về nhu cầu cần hỗ trợ của doanh nghiệp và cùng thảo luận về cơ chế hỗ trợ trong
những năm tiếp theo.
Năm là, ngoại giao kinh tế góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc
huy động cộng đồng và doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp trí tuệ,
16
vốn, tài sản và tiềm năng khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của đất nước
được quan tâm thỏa đáng. Bộ Ngoại giao đã tích cực tổ chức nhiều hoạt động thiết
thực, tranh thủ nguồn lực tri thức và tài chính của kiều bào đóng góp cho phát triển
đất nước, phát huy vai trò của cộng đồng và doanh nghiệp người Việt Nam ở nước
ngoài để mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ Việt Nam tại địa bàn.
3.2. Tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao kinh tế:
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có những chuyển động nhanh
chóng và khó lường, đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng, công tác ngoại giao kinh tế cần khắc phục kịp thời một số tồn tại, đó là:
Tuy nhận thức về công tác ngoại giao kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực trong thời
gian qua, nhưng có lúc, có nơi và ở một số bộ, ngành vẫn có cách hiểu chưa đúng về
ngoại giao kinh tế, chưa tích cực và chủ động trong hợp tác với Bộ Ngoại giao và các
cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Sự phối hợp giữa Bộ Ngoại giao và các
bộ, ngành nhiều khi chưa đạt hiệu quả mong muốn. Sự phối hợp giữa cơ quan đại diện
và thương vụ tại nhiều địa bàn chưa đạt được kết quả thiết thực.
Hiệu quả gắn kết giữa chính trị và kinh tế còn chưa cao. Thời gian qua, Bộ Ngoại giao
đã chủ động và tích cực gắn kết hai nội dung trên với nhau, nhất là trong các chuyến
thăm cấp cao. Tuy nhiên, một số bộ, ngành vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc tận
dụng thế mạnh chính trị để đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, mới chỉ dừng lại trong
phạm vi chuyên ngành hẹp. Sự phối hợp giữa các cơ quan đại diện với các doanh
nghiệp chưa chặt chẽ và thường xuyên, một số hoạt động còn mang tính hình thức.
Cơ chế triển khai cơng tác ngoại giao kinh tế cịn chưa hồn thiện. Cơ chế phối hợp
các hoạt động ngoại giao kinh tế chủ yếu được áp dụng trong khuôn khổ các đơn vị
thuộc Bộ Ngoại giao. Các bộ, ngành, địa phương mới chỉ triển khai các hoạt động
ngoại giao kinh tế trong lĩnh vực phụ trách, mà chưa quan tâm đầy đủ đến việc phối
hợp với các cơ quan, doanh nghiệp liên quan.
Đội ngũ nhân lực cịn thiếu về số lượng. Kỹ năng làm cơng tác ngoại giao kinh tế của
cán bộ ngoại giao nói chung, nhất là về ngoại ngữ, kiến thức về luật kinh tế quốc tế,
kỹ năng thương lượng, đàm phán... chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu chung. Kinh
phí cho cơng tác ngoại giao kinh
tế cịn hạn hẹp.
17
Để góp phần thực hiện tốt chủ trương “triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối
ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” mà Đại hội lần thứ XII của Đảng đề ra,
trong những năm tới, công tác ngoại giao kinh tế cần được đẩy mạnh toàn diện và tập
trung vào những phương hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, nắm vững chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt chú trọng yêu cầu đối ngoại đa phương trong lĩnh vực kinh tế
được xác định là trọng tâm ưu tiên để gia tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bám sát Chỉ thị số 25-CT/TW,
ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến
năm 2030 để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia thực chất vào các diễn đàn
kinh tế khu vực, các diễn đàn quản trị kinh tế toàn cầu, chuẩn bị tiền đề tốt cho Năm
Chủ tịch ASEAN 2020.
Thứ hai, cần thống nhất nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của ngoại giao kinh tế.
Từ đó thiết kế, xây dựng các đề án, kế hoạch tổng thể và chi tiết với tầm nhìn phù hợp
về lĩnh vực, địa bàn, đối tác trong trung và dài hạn. Cách thức triển khai công tác
ngoại giao kinh tế cần được thực hiện theo hướng ngày càng bài bản, đa dạng và thiết
thực hơn; các yếu tố kinh tế, thương mại và chính trị cần được gắn kết chặt chẽ, vận
dụng linh hoạt, phù hợp với “thế” và “lực” mới của nước ta. Công tác phối hợp, trao
đổi thông tin giữa trong nước và ngoài nước cũng như giữa các bộ, ngành, địa phương
cần được đẩy mạnh. Hoạt động hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp tiếp tục theo hướng
cụ thể, thiết thực, bám sát nhu cầu của địa phương và doanh nghiệp để có biện pháp
hỗ trợ quyết liệt nhằm đem lại những kết quả cụ thể.
Thứ ba, tiếp tục gắn kết nhuần nhuyễn ba trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh
tế và ngoại giao văn hóa. Trong bối cảnh vị thế và hình ảnh của Việt Nam đã và đang
ngày càng được nâng cao, chúng ta cần xây dựng “một chiến lược ngoại giao cấp cao”
để “gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế và chính trị” làm cơ sở “đàm phán” với các nước.
Đây thực sự là một thách thức khơng nhỏ đối với ngoại giao kinh tế, địi hỏi các bộ,
ngành, doanh nghiệp, địa phương phải thống nhất về mặt nhận thức cũng như nhất
quán về mặt triển khai, thực hiện để có thể phối hợp chặt chẽ.
Thứ tư, tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cơ quan đại diện, đặc biệt là trong
18
lĩnh vực kinh tế đối ngoại, tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường, phục vụ và hỗ trợ các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp làm ăn với nước ngoài. Những kết quả về
ngoại giao kinh tế cần được coi là một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu trong
việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan đại diện.
Thứ năm, tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành, trong đó chú
trọng tăng cường hợp tác giữa các đơn vị đầu mối của các bên. Thiết lập cơ chế cung
cấp thông tin hai chiều, cơ chế phối hợp, tiến hành các hoạt động xúc tiến kinh tế đối
ngoại, hỗ trợ các doanh nghiệp và địa phương.
Thứ sáu, xây dựng bộ máy phù hợp để chỉ đạo thống nhất và hiệu quả công tác ngoại
giao kinh tế. Kiện tồn cơ cấu tổ chức cơng tác ngoại giao kinh tế tại cơ quan đại
diện. Tổ chức bộ máy theo hướng thiết thực, hiệu quả, dựa trên kết quả cơng việc hơn
là trên tiêu chí chế độ, chính sách.
Thứ bảy, tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tư, thương mại, nâng cao
hình ảnh quốc gia với nhiều hình thức đa dạng. Đẩy mạnh cơng tác tìm kiếm các dự
án, lĩnh vực, phương thức hợp tác mới nhằm tăng cường đan xen lợi ích với các đối
tác chiến lược, đối tác toàn diện; tận dụng lợi thế của các FTA (CPTPP, EVFTA...) để
củng cố các thị trường truyền thống và tiếp tục mở rộng thị trường.
Thứ tám, hỗ trợ xây dựng mạng lưới kiều bào vững mạnh, góp phần tăng cường quan
hệ song phương, hình thành nguồn lực vận động với chính quyền sở tại. Tận dụng trí
lực và tài lực, tạo thuận lợi để cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi đóng góp vào
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
CHƯƠNG 4: TIỀN ĐỀ THỰC TIỄN, KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐI
TRƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CƠNG NGHIỆP HĨA - HIỆN ĐẠI
HĨA.
1. Vai
trị của nguồn lực con người trong việc phát triển cơng nghiệp hóa- hiện
đại hóa
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển linh tế
như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các
nguồn lực đó thì nguồn lực con
19 người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định
trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một
nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng
khơng có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó
thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và ngày nay trong công cuộc hội
nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có
truyền thơng u nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hố, giáo dục, có khả năng
nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng
lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp Quốc
thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và
tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất
nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là tồn bộ vốn con người bao gồm thể
lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con
người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ,
công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì.Nguồn nhân lực của một quốc gia là tồn bộ
những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.Nguồn nhân lực được
hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao
động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó,
nguồn nhân lực bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa
hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham
gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá
trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào
quá trình lao động.Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân
số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu
hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ;
về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chun mơn, kiến thức và trình độ lành
nghề của người lao động. Nguồn
lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao
20
động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn
lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy theo khái
niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao
động, đó là: Những người khơng có việc làm nhưng khơng tích cực tìm kiếm việc
làm, tức là những người khơng có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi
lao động quy định nhưng đang đi học…Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc
độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hồ thể lực và trí lực
tồn tại trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh
truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được
vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và
tương lai của đất nước.Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '''' tài
nguyên đặc biệt '''', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển
con người, phát triển Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong
hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm
chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con
người là đầu tư có tinh chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền
vững.Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều
cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm của Liên
hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm
năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống. nguồn nhân lực.Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực: là gia
tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng
như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những
năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày
càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát
triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm
lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực
thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tếxã hội.Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc
gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể
lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi
tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn
nhân lực chính là q trình tạo lập và sử dụng năng lực tồn diện con người vì sự
tiến bộ kinh tế- xã hội và sự 21
hoàn thiện bản thân mỗi con người.Như vậy, phát triển
nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng
nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.Nguồn
nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ
thể có trình độ lành nghề ( về chun mơn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể
theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên
đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề.Giữa chất lượng NNL và NNL CLC
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng NNL là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó
NNL CLC là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất
lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL CLC không thể khơng đặt nó trong tổng thể
vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.Nguồn nhân lực chất
lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường ( yêu cầu của các
doanh nghiệp trong và ngồi nước), đó là: có kiến thức: chun mơn, kinh tế, tin
học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác;
có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc.Như vậy, NNL CLC
cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao
động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn
nhân lực chất lượng cao có thể khơng cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực
chất.Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri
thức và trong xu thế tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt là NNL
CLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần
đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên
ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và
nâng cao chất lượng NNL. Trong đó động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng
kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là NNL CLC, tức là những con
người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực
sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về
những quốc gia có NNL CLC, có mơi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có mơi
trường chính trị- xã hội ổn định.Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển
kinh tế thì nguồn lao động ln ln đóng vai trị quyết định đối với mọi hoạt động
kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế.Theo nhà kinh tế người Anh ,
William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất;
C.Mác cho rằng con người là22yếu tố số một của LSX. Trong truyền thống VN xác
định ''''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia ". Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn
mạnh vai trị của lao động tri thức, theo ơng ta "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền
lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng khơng những khơng mất
đi mà còn lớn lên" ( Power Shift-Thăng trầm quyền lực- Avill Toffer)
Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định q trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố
quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.Giữa nguồn
lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học cơng
nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó NNL được xem là năng
lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với
các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở
chỗ nó khơng bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các
nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác
dụng khi kết hợp với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là
NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của
nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay một quốc gia có thể khơng giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên
không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững nếu hội đủ bốn điều kiện :
Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.Hai là, quốc gia đó biết tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ
thuật tay nghề cao và đông đảo.Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên
tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động
xã hội cao. Đối với nước ta đó là một q trình tất yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN.Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút
ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cịn thấp, do
đó u cầu nâng cao chất lượng
23 NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã
xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững. Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện
để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững .Thứ tư là, nguồn nhân lực
chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
2. Vai
trò của Vốn và cơng nghệ trong việc phát triển cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa:
Vốn và cơng nghệ là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở mọi quốc gia, nhất là đối với các nước đang
phát triển và nền kinh tế chuyển đổi trong đó có Việt Nam. Đối với nước ta, trong
điều kiện nền kinh tế còn ở điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao
và chưa thật sự vững chắc. Vì vậy nhiệm vụ phát triển kinh tế của nước ta trong
những năm tới là đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo nàn và tránh nguy cơ tụt
hậu, cải thiện đời sống nhân dâ, củng cố quốc phong và an ninh, tạo điều kiện cho đất
nước phát triển nhanh hơn đi vào thế kỷ XXI, từng bước hội nhập vào quỹ đạo kinh tế
thế giới. Với mục tiêu xây dựng đất nước ta thành một nước cơng nghiệp và tiến hành
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu lâu dài là cải biến nước ta thành
một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế phù hợp…
cộng với việc thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế trong đó có việc nâng
cao GDP bình quân đầu người lên 2 lần như Đại hội VII của Đảng đã nêu ra. Muốn
thực hiện tốt điều đó chúng ta khơng chỉ trơng chờ vào nguồn vốn và cơng nghệ trong
nước mà cịn phải biết thu hút vốn và cơng nghệ nước ngồi, trong đó đặc biệt là
nguồn vốn FDI. Đối với Việt Nam, việc thu hút nguồn vốn FDI có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong bối
cảnh hiện nay khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta
cần phải huy động một lượng vốn rất lớn. Muốn có ượng vốn lớn cần tăng cường sản
xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng với tình hình của nước ta thì thu hút vốn đầu tư
nước ngồi cũng là một cách24tích lượng vốn nhanh có thể làm được và nguồn vốn FDI
là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu. Đó là kênh chuyển giao cơng nghệ,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tay nghề cho người lao động,
năng lực quản lý, tạo nguồn thu cho ngân sách… Tuy nhiên ở nước ta, sau một số
thành công ban đầu, với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ (2008) và xuất
hiện nhiều cản trở của môi trường đầu tư trong nước, việc thu hút FDI cho sự nghiêp
cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa trong thời gian gần đây đã có những biểu hiện chững
lại. Mặt khác, trong lĩnh vực này đang có nhiều vấn đề nảy sinh về nhận thức, quan
điểm, cơ chế quản lý nhà nước, mối quan hệ giữa vốn trong nước với vốn nước ngoài,
cũng như cách đánh giá cái được và cái chưa được trong thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Đây là những vấn đề nổi cộm hiện nay đang làm giảm dòng vốn FDI vào nước
ta, làm ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng phát triển kinh tế-xã hội. Trước tình hình
đó địi hỏi chúng ta phải có sự tiếp nhận và đánh giá đúng đắn về đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong thời gian qua để thấy được những yếu tố tác động, những lợi thế và
bất lợi của đất nước trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm tranh thủ nguồn
vốn này một cách chủ động, chọn lọc có trọng tâm, chất lượng và sử dụng sao cho có
hiệu quả kinh tế cao góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà nước
đã đề ra: Cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt
Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Xuất phát từ phân tích trên cùng với
q trình học tập và tìm hiểu, tiếp nối các cơng trình khoa học nghiên cứu về nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, em mạnh dạn chọn đề tài: “Vai trò của đầu tư trực
tiếp nước ngồi đối với q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam” Làm
khóa luận cho mình. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay đã hơn 20 năm (1988-2010)
Việt Nam thực hiện luật đầu tư nước ngồi, trong khoảng thời gian đó, hoạt động đầu
tư nước ngoài đã thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, của nhiều nhà quản lý,
nhiều nhà kinh doanh và các nhà khoa học. Nhiều hội nghị chuyên để, hội thảo khoa
học đã được tổ chức ở nhiều cấp độ khác nhau. Đã có rất nhiều bài viết đăng tải trên
báo hàng ngày, báo tuần, tạp chí…Đã có nhiều đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, cấp
ngành, một số luận văn, luận án tiến sỹ kinh tế, và một số cuốn sách tương đối có giá
trị đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
tiêu biểu Tuy nhiên, trong số những cơng trình nghiên cứu trên, chưa có cơng trình
nghiên cứu nào trực tiếp nghiên cứu về: “Vai trị của đầu tư trực tiếp nước ngồi đối
với q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam” một cách cơ bản, có hệ
thống và tồn diện về cả mặt25lý luận cũng như phân tích thực tiễn. Mục đích, nhiệm
vụ nghiên cứu - Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về FDI và vai trò của FDI đối
với q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước
ngồi với phát triển kinh tế nói chung và cơng nghiệp hóa nói riêng. Phân tích khái