Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.57 KB, 3 trang )
Cây sa nhân
Nguồn: hoind.tayninh.gov.vn
Tên khoa học: Amomun achinosphaera. Họ thực vật: Zingiberaceae (gừng);
Việt Nam có 13 giống sa nhân với trên 100 loài. Sa nhân là một loài thuộc chi
Amomun Roxb. Thuộc họ gừng được Carolus Linnaeus công bố năm 1737. Theo
số liệu bổ sung của Index Kewensis thì số tên chính thức trong chi Amomun lên
tới 250 loài. Ở Trung Quốc, 31 loài sa nhân được thống kê và mô tả, phân bố chủ
yếu ở vùng nam Trung Quốc giáp với Việt Nam và Lào. Các công trình nghiên
cứu về sa nhân cho rằng rất đa dạng về thành phần loài, giá trị sử dụng thông qua
việc xuất khẩu sản phẩm trong nền kinh tế và còn có ý nghĩa trong việc đóng góp
vào bảo tồn đa dạng sinh học.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ẩm và là một trong những
nơi phân bố tự nhiên của sa nhân. Từ lâu đời nhân dân ta đã biết tìm kiếm và khai
thác sa nhân để làm thức ăn, thuốc chữa bệnh và coi là một dược liệu quý, không
chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.
1. Giá trị tiêu thụ:
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây sa nhân đã được XK ra nước ngoài
với sản lượng 1.000 tấn/năm, với giá trị XK khoảng 8 triệu USD/năm (niên giám
thống kê 2003). Nó đã trở thành nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình
ở các tỉnh miền núi Việt Nam. Góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao đời
sống, xóa đói giảm nghèo đồng thời thay thế xóa bỏ trồng cây thuốc phiện. Sa
nhân thích nghi tốt ở điều kiện dưới tán rừng với độ tàn che từ 30-50%. Năm
1995, Nguyễn Tập (Viện Dược liệu) cũng đã cho rằng: Sa nhân là một loài cây
dược liệu quý, có nguy cơ bị tuyệt chủng, cần được bảo vệ.
2. Vùng phân bố:
Sa nhân có ở hầu khắp các rừng thượng du, trung du Bắc bộ, miền Trung.
Nơi nhiều nhất: Phú Thọ, Hà Giang, Lào Cai, Bắc Kạn, Tây Bắc, Hòa Bình, Thanh
Hóa, Nghệ An...
3. Đặc tính sinh học:
Cây thân thảo, sống lâu năm dưới tán rừng. Thân cây: Làm bằng lá, cao 1-