Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN Giới Thiệu Các Tác Phẩm Ngoài Macxit Về Chính Trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.64 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CÁN BỘ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM NGỒI
MÁC – XÍT VỀ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI:

Phân tích tư tưởng phân quyền trong hai tác phẩm: “Bàn về tinh thần pháp
luật” của S.L.Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của J.J.Rousseau?
Liên hệ vận dụng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay?
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Thanh Huyền
Sinh viên: Đỗ Cao Trí MSSV: 182010070
Lớp: K03 CTH

TP. HỒ CHÍ MINH, 2021


2

PHẦN MỞ ĐẦU
Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị – pháp lý có ý
nghĩa hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị
thế giới. So với các tư tưởng chính trị trong chế độ chuyên chế
độc tài, lý thuyết phân quyền được coi là tư tưởng thời đại, đánh
dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong
các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực văn minh
trong xã hội dân chủ.
Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị – pháp lý có ý


nghĩa hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị
thế giới. So với các tư tưởng chính trị trong chế độ chuyên chế
độc tài, lý thuyết phân quyền được coi là tư tưởng thời đại, đánh
dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong
các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực văn minh
trong xã hội dân chủ. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết
này gắn liền với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và
tiến bộ xã hội, hướng đến xác lập các mối quan hệ cơ bản giữa
pháp luật và quyền lực, cá nhân và cộng đồng, cơng dân và nhà
nước nhằm đảm bảo tính hiệu quả cao nhất của việc thực thi
quyền lực. Chính vì vậy, phân quyền được coi là một tất yếu
khách quan trong các nhà nước dân chủ, là điều kiện đảm bảo
cho những giá trị tự do được phát huy, là tiêu chí đánh giá sự
tồn tại và phát triển của nhà nước pháp quyền, nơi chủ quyền
nhân dân giữ vai trò tối thượng.
Tư tưởng phân quyền được bàn đến rất sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị phương Tây. Ngay từ thời cổ đại, Aristote (384322 TCN) đã chia hoạt động của nhà nước thành ba thành tố:


3

nghị luận, chấp hành và xét xử. Các thành tố này, lúc đầu, được
mô tả một cách giản đơn về mặt cấu trúc, chức năng và thẩm
quyền, những khía cạnh có tính đơn biệt của việc tổ chức quyền
lực nhà nước, chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như
mối quan hệ bên tr giữa các thành tố đó.
Tuy có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, tư tưởng về phân quyền
chỉ trở thành một lý thuyết toàn diện và độc lập trong thời kỳ
Khai sáng. Người khai sinh ra lý thuyết này là triết gia người
Anh, John Locke (1632-1704) và một trong những người đóng

góp lớn nhất trong việc phát triển nó một cách hồn chỉnh là
nhà luật học người Pháp S. L.Montesquieu (1689-1755) và
J.Rousseau(1712 – 1778).

PHẦN NỘI DUNG
1.Giới thiệu đôi nét về 02 tác phẩm:
1.1.Bối cảnh ra đời của tác phẩm “ Bàn về tinh thần pháp
luật” của S.L.Montesquieu:
“Bàn về tinh thần pháp luật”(tiếng Pháp: De l’esprit des lois),
hay Vạn pháp tinh lý, là một luận thuyết về học thuyết chính trị
được Nam tước de Montesquieu xuất bản dưới dạng ẩn danh
vào năm 1748. Đầu tiên nó được xuất bản ẩn danh một phần vì
Montesquieu muốn tác phẩm của mình tránh bị kiểm duyệt, sau
đó nó nhanh chóng được dịch sang nhiều thứ tiếng khác.
Thomas Nugent xuất bản bản tiếng Anh đầu tiên vào năm 1750.
Năm 1751 Nhà thờ Công giáo liệt cuốn này vào Danh sách
những Cuốn sách Bị Cấm. Tuy nhiên, luận thuyết chính trị của
Montesquieu có ảnh hưởng rất lớn đến các tác phẩm của các


4

học giả khác, mà đáng chú ý nhất có: Ekaterina II, người viết
Nakaz (Hướng dẫn); Những Đại biểu Đại hội Hiến pháp Hoa Kỳ
(Constitutional Convention delegates) của Hiến pháp Hoa Kỳ; và
Alexis de Tocqueville, người đã áp dụng phương pháp của
Monstequieu vào cơng trình nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ, cuốn
Dân chủ ở Mỹ (Democracy in America).
Charles-Louis


de

Secondat,

Baron

de

La

Brède

et

de

Montesquieu(1689 – 1755) là một nhà bình luận xã hội và tư
tưởng chính trị Pháp sống trong thời đại Khai sáng, ông thường
được biết đến dưới tên Montesquieu. Ông nổi tiếng với lý thuyết
tam quyền phân lập.
Sau khi tốt nghiệp chủng viện ông cưới Jeanne de Latrigue một
giáo đồ Calvin khi ông mới 26 tuổi. Năm sau ông thừa kế tước
hiệu Nam tước xứ Montesquieu và Chủ tịch Hội đồng Bordeaux.
Ông bắt đầu được biết đến với tác phẩm Lettres persanes
(Những lá thư của người Ba Tư, 1721), một tác phẩm chỉ trích xã
hội đương thời dưới hình thức thư gửi của một người phương
Đơng

đến


thăm

Paris.

Ơng

xuất

bản

tiếp

theo

cuốn

Considérations sur les causes de la grandeur des Romains et de
leur décadence (Cân nhắc về các nguyên nhân của sự vĩ đại và
sự diệt vong của La Mã, 1734). Cuốn De l'Esprit des Lois (Tinh
thần Pháp luật) được xuất bản vơ danh vào năm 1748 và nhanh
chóng có nhiều ảnh hưởng khơng chỉ riêng nước Pháp mà cịn
cả thế giới.
1.2.Bối cảnh ra đời của tác phẩm “ Bàn về khế ước xã
hội” của J.J.Rousseau:
Được xuất bản lần đầu năm 1762, “ Bàn về khế ước xã hội”là
tác phẩm phác họa trật tự chính trị của Rousseau. Đây là cuốn


5


sách có ảnh hưởng nhiều tới triết học phương Tây, được đánh
giá là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ
Khai sáng, mở đường cho Cách mạng Pháp và Tuyên ngôn nhân
quyền Pháp năm 1789.
Tác phẩm này là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa
thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng
đồng. Về mặt luật pháp, Khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một
tờ khế ước, một bản hợp đồng mà trên đó các thành viên xã hội
thống nhất các nguyên tắc để chung sống với nhau.
Cuốn sách được chia làm bốn quyển, mỗi quyển gồm nhiều
chương nhỏ, là tác phẩm mà Rouseau viết với mong muốn “tìm
xem trong trật tự của một xã hội dân sự có thể có một luật lệ
cai trị nào cho chắc chắn và hợp tình hợp lý”. Khi đặt bút viết
tác phẩm, Rousseau muốn tìm ra những ngun lý chính đáng
để thiết lập nhà nước và chính quyền dân sự. Nhà nước được
thiết lập thông qua một khế ước do tất cả người dân đồng
thuận, trao quyền lực chính trị cho chính quyền – những người
cơng bộc của dân – để điều hành đất nước theo nguyện vọng và
ý chí tập thể. Chính quyền đó có thể bị thu hồi quyền lực bất cứ
lúc nào nếu không làm đúng những chức năng được nhân dân
giao phó. Cuốn sách do đó được coi là bản họa đồ nhằm xây
dựng một thể chế dân chủ - cộng hịa, ngày nay hiểu là một
chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Trong “ Bàn về khế ước xã hội” Rousseau cho rằng trạng thái tự
nhiên bị tha hóa, trở thành một tình trạng dã man khơng cịn
luật pháp hay đạo đức, nên lồi người cần một thể chế để tồn
tại. Theo Rousseau, bằng cách sát cánh bên nhau thông qua
một khế ước xã hội và từ bỏ các quyền tự nhiên, cá nhân sẽ giải



6

thoát cả hai áp lực về sự cạnh tranh và phụ thuộc vào nhau, và
như thế loài người vẫn tồn tại tự do. Bởi khi đã trao quyền lực
cho những người đại diện cho nguyện vọng và ý chí chung của
quảng đại quần chúng, thì chính điều này đảm bảo cho cá nhân
khỏi bị lệ thuộc vào ý chí của các cá nhân khác.
Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778) sinh tại Thụy Sỹ, là một
nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới sự
phát triển của lý thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ nghĩa
dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên
phương diện lý luận và sáng tác. Ông là người sáng tạo nên
cách viết tiểu sử kiểu hiện đại với trọng tâm đặt vào tính chủ
thể. Ơng cịn viết tiểu thuyết và đóng góp quan trọng cho trào
lưu lãng mạn trong văn học.
2.Một số đặc trưng cơ bản:
Từ khi ra đời, thuyết phân quyền được xác định là cơ sở lý luận
cho việc thiết kế và xây dựng các mơ hình thể chế nhà nước.
Trong khn khổ của lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình
thành những chính thể khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế,
xã hội và truyền thống văn hố của mỗi nước: chính thể Tổng
thống, chính thể đại nghị (cả cộng hồ và quân chủ) và chính
thể hỗn hợp. ở các nước này, các nhánh quyền lực nhà nước
được thể chế hoá cao độ, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp được chuyên nghiệp hoá rất cao, cơ chế kiểm soát quyền
lực tỏ rõ tính hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm quyền,
chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Có thể thấy, cho đến nay, tư tưởng phân quyền đã thể hiện
những giá trị tiến bộ của nó. Những giá trị này đã được kiểm



7

chứng trong thực tiễn chính trị hàng trăm năm ở các nước tư
bản phát triển:
Thứ nhất, tư tưởng phân quyền được hình thành như là sự phủ
định biện chứng về mặt tư tưởng các lý thuyết thuyết tập quyền
chuyên chế, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ
chuyên chế, độc tài và đặt nền móng cho sự hình thành các thể
chế tự do, dân chủ.
Thứ hai, với việc trao quyền lực của nhân dân cho các nhánh
quyền lực nhà nước khác nhau (lập pháp, hành pháp, tư pháp)
đã hình thành nên q trình phân cơng lao động quyền lực
nhằm tạo sự chun nghiệp hố, chun mơn hố chức năng,
nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực, tăng cường tính hiệu quả
và tác dụng của chính quyền, khẳng định vị trí, vai trị của mỗi
ngành trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước.
Thứ ba, tư tưởng phân quyền đánh dấu sự phát triển hiện đại về
tính kỹ thuật chính trị – pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền
lực nhà nước, dùng phân quyền để kiểm soát sự lạm quyền. Đó
là cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau
trong hoạt động của ba nhánh quyền lực, nhờ đó loại trừ nguy
cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân,
nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó –
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hóa trong q trình thực
thi quyền lực.
Thứ tư, tư tưởng phân quyền là một đóng góp lớn cho lý luận và
thực tiễn chính trị về nhà nước pháp quyền, bởi nó được tổ chức
và hoạt động trên nguyên tắc lấy pháp luật làm tối thượng, lấy
bảo đảm các quyền tự do cơng dân làm mục đích cuối cùng. Nó

khẳng định bất cứ một chế độ nào mà không thực hiện sự phân


8

chia quyền lực, không đề cao pháp luật và kiểm sốt quyền lực
thì đó khơng phải là nhà nước pháp quyền. ở đây, phân quyền
vẫn được khẳng định là đặc trưng căn bản của nhà nước có Hiến
pháp, nhà nước pháp quyền, hay nhà nước tự do dân chủ, trong
đó phẩm giá cá nhân được tôn trọng và quyền tự do được bảo
đảm.
3.Tư tưởng phân quyền trong tác phẩm “ Bàn về tinh
thần pháp luật” của S.L.Montesquieu:
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia theo chính thể cộng hịa (kể cả
chính thể quân chủ - lập hiến), vấn đề làm thế nào kiểm soát
được quyền lực của nhà nước để tránh tình trạng lộng quyền và
tha hóa quyền lực vẫn tiếp tục là vấn đề có tính thời sự. Nói
cách khác, nền dân chủ đương đại đang bị đe dọa hoặc đứng
trước nguy cơ khủng hoảng do thực trạng quyền lực nhà nước bị
“lợi dụng” để trục lợi từ phía một bộ phận quan chức nắm trong
tay “cơng quyền”. Tình trạng lộng quyền, tha hóa quyền lực của
người đại diện mà nhân dân bầu ra có thể làm mai một những
nguyên tắc chính trị cơ bản của chính thể cộng hòa dân chủ với
nền tảng là sự phân quyền. Để xây dựng và bảo đảm cho nền
dân chủ không quay lại với tình trạng chun quyền, các lý
thuyết chính trị - pháp lý ra đời chứa đựng nhiều nội dung cơ
bản xung quanh vấn đề quyền lực nhà nước, chẳng hạn thuyết
phân quyền của Montesquieu , tác giả của cuốn “ Bàn về tình
thần pháp luật”.
Trong chương II quyển thứ VIII cuốn “Tinh thần pháp luật” với

tựa đề “Sự sa đọa trong nguyên tắc của ba loại chính thể”,
Montesquieu khẳng định “sự sa đọa của mỗi chính thể hầu như
bao giờ cũng bắt đầu từ sự sa đọa trong nguyên tắc của chính


9

thể ấy”. Từ suy luận này, các chương tiếp theo của cuốn sách
nói về sự tha hóa của chính thể cộng hịa khi đánh mất tư tưởng
bình đẳng hoặc nắm giữ tinh thần bình đẳng cực đoan.
Nhận thức cho thấy, tinh thần bình đẳng chân chính khơng phải
làm cho mọi người đều là chỉ huy hay không ai bị chỉ huy, mà là
chỉ huy những người bình đẳng với mình và phục tùng con người
bình đẳng với mình. Nhưng tự do chính trị khơng đồng nghĩa
muốn làm gì cũng được. Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ
có thể là được làm những cái nên làm và không bị bắt buộc
những điều không nên làm, “tự do là quyền được làm tất cả
những điều mà luật cho phép...”Montesquieu luôn quan ngại
đến sự tha hóa của các loại chính thể, nhất là chính thể dân chủ
khi mà nền dân chủ trở nên cực đoan với hệ lụy là tình trạng vơ
chính phủ và tự do bị xâm hại. Montesquieu cho rằng: “Tự do
chính trị của cơng dân là sự n tâm vì mỗi người nghĩ rằng
mình được an ninh. Muốn bảo đảm tự do chính trị như vậy thì
Chính phủ phải làm thế nào để mỗi công dân không phải sợ một
công dân khác”.
Nhận thức về lý thuyết phân quyền (còn được sử dụng với tên
gọi khác là “tam quyền phân lập”) có những cách tiếp cận thiếu
đầy đủ. Nhiều quan điểm coi thuyết này là căn nguyên của đa
nguyên chính trị, nhưng cũng có quan điểm cho rằng lý thuyết
này đi ngược lại với lý thuyết “quản lý nhà nước là thống

nhất”... Cách tiếp cận có thể do từ những nhãn quan chính trị
khác nhau, nhưng có một điều khơng thể phủ nhận rằng:
Montesquieu đã tìm thấy một cơng cụ cơ bản nhất để chống lại
sự lộng quyền chính trị và sự sa đọa của mọi chính thể do lộng
quyền chính trị đe dọa tự do cơng dân, an ninh quốc gia và xã
hội. Trong chương 6, quyển XI nói về “hiến pháp nước Anh”,


10

thuyết phân quyền của Montesquieu bắt đầu được hình thành
bằng quan điểm: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực:
quyền lập pháp, quyền hành pháp quốc gia và quyền tư pháp...
Ba quyền này phải tách rời (độc lập) vì rằng: “Khi mà quyền lập
pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một
Viện Nguyên lão (cơ quan lập pháp) thì sẽ khơng cịn gì là tự do
nữa vì người ta sợ rằng chính ơng ta hay Viện ấy chỉ đặt ra luật
độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng khơng có gì là tự do
nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền
hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì
người ta sẽ độc đốn với quyền sống và quyền tự do của cơng
dân, quan tịa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập
lại với quyền hành pháp thì quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ
đàn áp”.
Có thể nói, Montesquieu đã phân tích kỹ tính độc lập của 3
nhánh quyền lực trong chương 6, chẳng hạn cơ quan lập pháp,
mặc dù khơng nên có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp
nhưng nó phải có chức năng xem xét các đạo luật đã ban hành
được thực hiện như thế nào... và “nếu cơ quan hành pháp khơng
có quyền ngăn cản các dự định của cơ quan lập pháp thì cơ

quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế...”. Với sự việc dẫn đến
thực tế lịch sử của các quốc gia như Italia, Roma hoặc Đức, Hà
Lan, Montesquieu đi đến khẳng định rằng tính độc lập, kiềm chế
lẫn nhau của ba quyền chính là cơng cụ tốt nhất chống lại tình
trạng lộng quyền chính trị, hoặc đó là cơng cụ kiểm sốt quyền
lực.
Trong lịch sử phát triển các quốc gia từ thời kỳ cách mạng tư
sản (thế kỷ XVII-XVIII) đến nay, người ta đánh giá và tiếp thu
khá đầy đủ lý thuyết

“tam quyền phân lập” nêu trên của


11

.Montesquieu. Tuy nhiên, có nhiều cách tiếp cận lý thuyết này
dẫn đến có sự khác nhau trong quan điểm về chính trị - pháp lý.
Nhiều khi người ta gắn “tam quyền phân lập” với chủ nghĩa “đa
ngun chính trị” vì cho rằng ba quyền phân lập ấy sẽ do các
thế lực tranh nhau nắm giữ và “khống chế lẫn nhau”. Tuy nhiên,
khi đưa ra “sự phân lập của 3 quyền này” Montesquieu vẫn luôn
cho rằng, người dân phải giữ cho mình quyền được lựa chọn đại
diện cho cơ quan quyền lực cao nhất đó là quyền lập pháp. Tuy
nhiên thực tế cho thấy, Montesquieu chỉ bàn về tính độc lập của
3 nhánh quyền lực nhà nước như cơng cụ kìm chế tình trạng
lộng quyền, chứ ơng chưa có những quan điểm về việc kiểm
soát quyền lực như thế nào trong chính ba quyền lực ấy ngồi
việc nêu giả thiết về thành lập Lưỡng viện: Viện quý tộc
(Thượng viện như cách gọi ngày nay), Viện dân biểu (Hạ viện –
Viện dân chúng). Nói cách khác, trong sự vận hành bộ máy các

nhà nước trên thế giới hiện nay cho thấy sự quan ngại về tình
trạng quyền lực bị tha hóa, khơng kiểm sốt được và lộng quyền
vẫn là hiện tượng có tính nguy hại cho sự tồn vong của các chế
độ chính trị, đặc biệt là sự lộng quyền trong các mắt xích của bộ
máy quyền lực cơng. Thực tế này thường được mô tả dưới dạng
khuyết tật của bộ máy như tham nhũng, lãng phí, cửa quyền,
hạch sách, tha hóa, suy thối... đây là cuộc đấu tranh phịng
chống đang được tiến hành mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia.
4.Tư tưởng phân quyền trong tác phẩm “ Bàn về khế ước
xã hội” của J. J.Rousseau:
Trong chương 6 (quyển I) luận về Khế ước xã hội, Rousseau đã
phân định con người nhân tạo thành nhiều loại khác nhau tùy
theo trạng thái hoạt động của tác nhân này, từ Cộng đồng dân
chúng (city)–có lẽ Rousseau theo các tác giả thời trước muốn


12

nói đến các thị-quốc (city-state) của Hy lạp; ngày nay thuật ngữ
này khơng cịn được dùng nữa, đến Cộng hịa (Republic) hay là
Cơ cấu chính trị (body politic), cho đến Hội đồng tối cao

khi

hoạt động và Nhà nước(State) khi không hoạt động. Chính
Rousseau cũng thú nhận là cách phân định như vậy dễ làm
người đọc thời đó nhầm lẫn, chưa kể đến người đọc thời nay khi
các thuật ngữ trên đã được hiểu và định nghĩa khác đi rất nhiều.
Điểm quan trọng Rousseau muốn nhấn mạnh là khi khế ước xã
hội được lập thành, tức khắc nhà nước được khai sinh, và chủ

quyền tối thượng của nhà nước nằm trong tay nhân dân, những
người lập nên nhà nước này, chứ khơng nằm trong tay chính
quyền. Các thành viên của nhà nước trở thành công dân. Hội
đồng tối cao, như đã trình bày, chỉ là một khái niệm trừu tượng,
phản ảnh ý chí tập thể qua luật pháp. Ý chí tập thể, Rousseau lý
giải trong Chương 4 (quyển II), phải “mang tính tổng quát trong
mục đích cũng như trong bản chất, và phải phát xuất từ tất cả
để áp dụng cho tất cả.” Từ nhận định này, Rousseau kết luận là
không một ai, kể cả vị quân vương, có thể đứng trên pháp luật.
Tuy nhiên, Hội đồng tối cao chỉ là một tác nhân trừu tượng, cần
có một thực thể để làm luật và thi hành pháp luật. Rousseau
nhấn mạnh là cần có hai cơ quan tách biệt hồn tồn để phụ
trách hai nhiệm vụ này. Chính quyền, cịn gọi là cơ quan hành
pháp, là “cơ quan trung gian làm nhiệm vụ truyền thông giữa
người dân và Hội đồng tối cao, và thi hành luật pháp cũng như
bảo đảm tự do dân sự và chính trị.” Chính quyền, hay người
đứng đầu guồng máy chính quyền, do đó, chỉ là những nhân
viên thừa hành, có ăn lương, nhân danh Hội đồng tối cao sử
dụng quyền lực được trao cho để thi hành pháp luật. Quyền lực
này có thể bị Hội đồng tối cao giới hạn hay thu hồi bất cứ khi


13

nào. Đó là trên lý thuyết, trên thực tế, Rousseau nhận thấy có
một vấn nạn là khi nắm giữ quyền lực trong tay, chính quyền dễ
có khuynh hướng lạm dụng quyền hành, và khi chính quyền
càng cần nhiều quyền lực để điều hành thì chủ quyền tối thượng
cũng cần có quyền lực tương đương để kềm chế chính quyền
khỏi lạm dụng quyền hành.

Trong quyển III, Rousseau luận về các hình thức chính quyền.
Khi Hội đồng tối cao đặt chính quyền vào trong tay của tất cả
công dân hay đa số cơng dân thì chính quyền đó được gọi là
dân chủ; khi chính quyền nằm trong tay của một thiểu số, nghĩa
là thường dân đơng hơn quan chức, chính quyền đó được gọi là
quý tộc; khi chính quyền nằm trong tay một cá nhân, chính
quyền đó được gọi là qn chủ, và cuối cùng là chế độ hỗn hợp
của các chế độ trên. Những thuật ngữ này Rousseau dùng khác
với nghĩa chúng ta hiểu ngày nay. Ơng cũng phân tích các ưu và
khuyết điểm của từng thể chế. Dân chủ, theo Rousseau, chỉ
thích hợp cho một nước nhỏ khi tất cả mọi người đều tham gia
nghị luận chính sách (nhận định này ngày nay không đúng nữa).
Quý tộc lại được chia làm ba loại: tự nhiên, bầu cử và gia
truyền. Quý tộc tự nhiên là hình thức chính quyền do các bậc
trưởng lão điều hành, thích hợp cho các dân tộc sơ khai (hình
thức bộ lạc). Hình thức chính quyền “q tộc” do bầu cử có
nhiều ưu điểm, khi quần chúng bầu ra những người có khả
năng, kiến thức và kinh nghiệm. Hình thức này gần với thể chế
cộng hồ ngày nay. Quân chủ, theo Rousseau, không phải là chế
độ lý tưởng và tiềm ẩn nhiều hiểm nguy cho Chủ quyền tối
thượng, trước hết là quyền lợi riêng tư của nhà vua có thể
khơng tương đồng với quyền lợi của nhân dân, thứ đến là sự bổ
nhiệm quan chức rất có thể không được căn cứ trên tài năng mà


14

trên tình cảm hoặc tư lợi của nhà vua, và sau cùng là tính gia
truyền khơng bảo đảm người kế vị có đủ tài đức của một vị vua.
Con người nhân tạo “Hội đồng tối cao”, hay Cơ cấu chính trị

cũng như một con người thường, có sinh và có diệt. Rousseau ví
quyền lập pháp như trái tim của nhà nước, quyền hành pháp là
bộ óc điều khiển các chi thể hoạt động. Khi bộ óc bị tê liệt, con
người vẫn có thể cịn sống dù chỉ sống như thực vật, nhưng khi
quả tim ngừng đập thì con người sẽ chết. Cũng cùng một thể
ấy, cơ cấu chính trị sẽ chết khi người dân thờ ơ với nghĩa vụ
công dân của họ nhất là trong lĩnh vực lập pháp.Không những
chỉ trong lĩnh vực lập pháp, “khi cơng dân khơng cịn quan tâm
đến việc phục vụ cơng ích nữa, và thích phục vụ quốc gia bằng
tiền hơn là chính bản thân họ, thì quốc gia đó sắp sửa tiêu
vong.” Nhưng làm thế nào để bảo đảm sự trường tồn của quốc
gia, của nhà nước, khi con người luôn đặt quyền lợi cá nhân lên
trước quyền lợi tập thể? Trong chương 8, quyển IV, Rousseau
luận về một loại tôn giáo của dân sự, khác với tơn giáo của tín
ngưỡng. Tơn giáo của tín ngường, đặc biệt là Thiên Chúa giáo
của Âu châu, khơng phù hợp với con người dân sự, vì tơn giáo
dạy con người yêu mến vương quốc trên trời, chứ không phải
đất nước dưới đất; dạy con người chịu đựng khổ đau, chứ không
dạy con người chống lại cường quyền (quan niệm này của
Rousseau gần với quan niệm Marxist về tơn giáo). Rousseau cho
rằng đó khơng phải là đức tính công dân, ông đề nghị nhà nước
phải đứng ra giáo dục cơng dân về lịng u nước, về bổn phận,
nghĩa vụ và đạo đức công dân.
Khi đặt bút viết tác phẩm này, Rousseau minh định là tìm xem
đâu là nguyên lý chính đáng thiết lập nên nhà nước và chính
quyền dân sự. Nhà nước được lập nên bởi một khế ước do tất cả


15


mọi người dân đồng thuận, trao quyền lực chính trị cho chính
quyền là những người cơng bộc của dân để điều hành đất nước
theo nguyện vọng và ý chí tập thể. Quyền lực chính trị của
chính quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào, nếu chính quyền
khơng làm đúng chức năng được nhân dân giao phó. “ Bàn về
khế ước xã hội”, do đó, được coi là bản họa đồ xây dựng một
thể chế dân chủ-cộng hòa hiểu theo nghĩa ngày nay, một chính
quyền “của dân, do dân và vì dân”. Những vấn nạn Rousseau
nêu ra về vai trị tuyệt đối vô tư của Lập pháp, về sự tiếm quyền
của hành pháp đã được các nhà sáng lập ra nước Mỹ giải quyết
bằng nguyên tắc phân quyền và đại biểu dân cử. Dĩ nhiên,
khơng có chế độ nào có thể được coi là hồn hảo, nhưng như
Churchill đã nói: “Dân chủ khơng phải là một chế độ hồn hảo,
nhưng còn khá hơn bất kỳ một chế độ nào đã từng có trong lịch
sử lồi người,” và sau này Thủ tướng Nehru của Ấn độ cũng
đồng tình: “Dân chủ là một chế độ tốt vì mọi chế độ khác đều tệ
hơn rất nhiều”.
Nền tảng tư tưởng chính trị của Rousseau, thể hiện trong “ Bàn
về khế ước xã hội”–nhà nước được thiết lập bởi một khế ước xã
hội, quyền lực chính trị thuộc về tồn dân, và nhận định về vai
trị tơn giáo trong xã hội–đã tấn cơng thẳng vào chế độ chính trị
đương thời, và khiến cho tác phẩm này bị liệt vào hàng các Tư
tưởng Nguy hiểm và bị đốt tại Paris và Genève. Rousseau phải
lưu vong sang Anh sống dưới sự bảo bọc của David Hume (một
triết gia chủ trương thuyết công lợi). Năm 1767 Rousseau trở về
Pháp và mất năm vào năm 1778. “ Bàn về khế ước xã hội” đã
từng bị đốt, nhưng không ai có thể tiêu diệt được tư tưởng, và tư
tưởng của Rousseau đã góp phần khơng nhỏ vào cuộc Cách
mạng Dân chủ Nhân quyền Pháp năm 1789, sự hình thành Hiến



16

pháp Hoa kỳ 1787, và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm
1948.
5.Ý nghĩa của tư tưởng phân quyền đối với việc xây dựng
và hồn thiện hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay:
Khác với nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà
nước tư sản, quyền lực nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung thống nhất (hay còn gọi là tập quyền xã
hội chủ nghĩa – XHCN). Theo nguyên tắc này, Quốc hội được xác
định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho toàn
thể nhân dân, các cơ quan nhà nước khác là phái sinh, do Quốc
hội thành lập và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực này.
Các cơ quan nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mơ hình này đã có hiệu quả
nhất định trong thời kỳ kế hoạch hố trước đây. Nhưng sang thời
kỳ chuyển đổi, nó thể hiện sự kém hiệu quả và cần phải được
đổi mới.
Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước ta, về bản chất vẫn bảo
đảm tính tập quyền XHCN, song trên thực tế đã vận dụng những
hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền, nghĩa là nhấn mạnh
đến khía cạnh phân cơng quyền lực: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Đây là bước phát triển trong nhận thức của Đảng ta về
nguyên tắc tập quyền XHCN trong thời kỳ mới.
Nhưng trên thực tế, có thể thấy rằng, những hạt nhân hợp lý
của lý thuyết phân quyền chưa được chúng ta khai thác đầy đủ.
Việc phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn nhiều

bất cập, thiếu chuyên nghiệp, chưa tạo ra được sự phát triển về


17

kỹ năng chun mơn của các nhánh quyền lực. Chính sự phân
công không rõ ràng về thẩm quyền đã dẫn đến sự chồng chéo
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc
thực thi quyền lực. Tình trạng vừa tập trung quan liêu, trì trệ,
vừa phân tán, thiếu thống nhất đã làm cho cơ cấu quyền lực
không phát huy được tính hiệu quả.
Do đó, việc vận dụng lý thuyết phân quyền trong tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta cần tập trung vào những
nội dung cơ bản sau:
- Tiến hành sự phân công, phân lập rạch ròi về mặt chức năng,
thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực và thể chế hóa cụ thể, rõ
ràng trong Hiến pháp nhằm tạo sự ổn định trong hoạt động của
bộ máy nhà nước. Theo đó, Quốc hội phải thực sự là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, được bầu theo đúng nguyên tắc
tranh cử, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc
hội phải hoạt động thường xuyên, liên tục, các thành viên của
nó không được kiêm nhiệm các chức vụ ở các nhánh quyền lực
khác, có như vậy mới nâng cao tính chun nghiệp trong việc
làm luật và giám sát việc thực thi pháp luật. Chính phủ (với tư
cách tập thể cũng như cá nhân) phải được cải cách theo hướng
xây dựng một ngành hành pháp mạnh, thực sự là cơ quan hành
pháp cao nhất, nghĩa là được trang bị đủ thẩm quyền pháp lý để
có thể độc lập giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ thực thi
pháp luật đặt ra và phải chịu trách nhiệm về những quyết định
của mình.

-Đối với cơ quan tư pháp, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp
hiện nay phải tập trung vào việc nâng cao năng lực cho tổ chức
hoạt động của tòa án trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến


18

pháp, trong đó ngun tắc tịa án xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật là một nguyên tắc tối thượng. Để được như vậy
thì tổ chức hoạt động của tòa án phải theo hướng: thẩm phán
tòa án tối cao (một số lượng nhất định) phải do Quốc hội bầu.
Tòa án tối cao chỉ quản lý về mặt hành chính chứ khơng can
thiệp về mặt chun mơn đối với hệ thống tịa án và có quyền
bổ nhiệm các thẩm phán cho tòa án cấp dưới.
-Thực tiễn cho thấy quyền lực chịu sự kiểm sốt chặt chẽ thì các
cơ quan nhà nước và các quan chức mới thể hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình, hết lịng hết sức vì dân, khắc phục lạm quyền
trong thực thi nhiệm vụ. Chính vì vậy, chúng ta cần cầu thị học
tập cơ chế kiểm soát quyền lực mà lý thuyết phân quyền nêu ra
và vận dụng sáng tạo trong điều kiện một đảng lãnh đạo, nhằm
thiết lập các ràng buộc bên trong đối với quyền lực, đặc biệt là
quyền lực của Chính phủ. Cơ chế kiểm soát quyền lực này phải
được tổ chức trên cơ sở dùng luật để giới hạn phạm vi của
quyền, và khi việc sử dụng quyền lực vượt quá giới hạn hợp
pháp của nó thì sẽ tự động dẫn đến sự ngăn chặn và hạn chế
của các quyền lực tương ứng.
-Về vấn đề dân chủ, các cơ quan hành chính nhà nước, chính
quyền các cấp cần tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, đảm bảo chính sách, pháp luật được thực hiện hiệu
quả; tập trung chỉ đạo, điều hành các mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an
sinh xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho
nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính; thực hiện nghiêm
túc việc tiếp cơng dân, tăng cường đối thoại, quan tâm giải
quyết những kiến nghị, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của


19

nhân dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, khơng để phát
sinh các điểm nóng, vụ việc phức tạp, kéo dài; nâng cao đạo
đức công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; xây dựng chính quyền thật sự thân thiện,
gần dân, vì dân.
- Đối với cơng tác cán bộ, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm
cho cán bộ, đảng viên về kiểm sốt quyền lực trong cơng tác
cán bộ. Kiểm sốt quyền lực đã đến lúc phải được coi là nhiệm
vụ hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, gắn liền với cuộc
đấu tranh chống suy thoái, tham nhũng, chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, mỗi cán bộ đảng viên,
cán bộ lãnh đạo, quản lý phải khơng ngừng nâng cao tính tự
giác, tự rèn luyện, tu dưỡng, tự quản lý, kiểm sốt chính mình
trước những tham vọng quyền lực và cám dỗ lợi ích vật chất.
Cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm giáo dục, bồi dưỡng cán
bộ tự tu dưỡng, rèn luyện, tự quản lý, kiểm sốt chính mình
trước những tham vọng, cám dỗ của quyền lực.

PHẦN KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu 02 tác phẩm trên bản thân rút ra

những điều như sau:
-Nghiên cứu tư tưởng phân quyền vẫn có ý nghĩa lớn đối với q
trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân. Khai thác lý thuyết phân quyền, cần tập trung làm rõ
tính độc lập, chuyên nghiệp hoá trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước, đặc biệt là việc tìm ra cơ chế kiểm sốt quyền
lực hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính tập trung thống nhất của


20

quyền lực, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước
cơ quan quyền lực của nhân dân. Đó là những vấn đề thuộc về
bản chất của nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây
dựng.
-Tuy nhiên, một vấn đề cần hết sức lưu ý, đó là các nội dung
trên phải gắn liền với việc xác định rõ chức năng lãnh đạo của
Đảng và chức năng quản lý, điều hành của Nhà nước, từ đó đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, để Đảng lãnh đạo nhưng
không bao biện, không làm thay hay can thiệp quá sâu vào
công việc của Nhà nước. Nếu khơng làm được điều này thì mọi
nỗ lực vận dụng lý thuyết phân quyền sẽ bị méo mó, biến dạng,
làm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sẽ kém
hiệu quả và khó kiểm soát.



×