HỌC VIỆN CÁN BỘ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA: LÝ LUẬN CƠ SỞ
TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM NGỒI MÁC-XÍT
VỀ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG PHÂN QUYỀN TRONG HAI TÁC
PHẨM” BÀN VỀ TINH THẦN PHÁP LUẬT” CỦA S.L.MONTESQUIEU
VÀ “ BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI “ CỦA J.J.ROUSSEAU? LIÊN HỆ
VẬN DỤNG VÀO VIỆN XÂY DỰNG VÀ HỒN THIỆN HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM.
Giảng viên:Th.s Nguyễn Thị Thanh Huyền
Sinh viên : Nguyên Thị Yến Vy
Lớp: K03- Chính Trị Học
MSSV: 182010078
TP. HỒ CHÍ MINH, 2021
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền, việc nghiên cứu tư
tưởng về nhà nước pháp quyền và về sự phân chia quyền lực trong nhà nước
pháp quyền nói chung và giai đoạn Khai sáng nói riêng là thực sự cần
thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đứng trước những thách thức
ngày càng lớn mạnh của công cuộc hội nhập và phát triển, có rất nhiều vấn đề
thực tiễn đặt ra cần giải quyết. Vì thế, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về nhà
nước pháp quyền và sự phân chia quyền lực nhà nước trong lịch sử triết học
sẽ góp phần hồn thiện lý luận mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước có mầm mống xuất hiện từ rất lâu
và đạt đến mức độ hoàn thiện nhất khi được Montesquieu nâng lên thành học
thuyết phân quyền được giai cấp tư sản áp dụng rộng rãi. Việc áp dụng tư tưởng
phân quyền vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có tác động tích cực
trong việc chống nạn độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước.
Học thuyết phân chia quyền lực (học thuyết phân quyền) gắn liền với tên
tuổi của John Locke, Montesquieu, Rousseau, đặc biệt là Montesquieu. Tuy
nhiên, mầm mống của tư tưởng phân quyền đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội
sơ khai đầu tiên của nhân loại.
Với Việt Nam, là quốc gia đi sau nên việc lựa chọn, kế thừa mơ hình nhà
nước pháp quyền đã có diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, trên nền tảng của hệ tư
tưởng mác-xít, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một điều
mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Thế nên, việc đứng trên lập trường
mác-xít để lựa chọn kế thừa những vấn đề gì là điều khơng phải đơn giản. Q
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là q trình vừa
đi vừa “dị dẫm”, vừa dựa trên nền tảng hệ tư tưởng mác-xít, vừa kế thừa những
quan niệm tiến bộ, hợp lý trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Định hướng xây
3
dựng nhà nước pháp quyền nước ta được Đảng ta khẳng định là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhà nước
pháp quyền Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng. Thế nhưng, để xây dựng và từng bước hồn thiện mơ hình nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì chúng ta khơng chỉ dựa hồn tồn vào
cách tiếp cận mác-xít mà phải biết kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại.
Trong đó, nổi lên tư tưởng về nhà nước phân quyền của Montesquieu và
Rousseau Tầm mức lớn lao và ảnh hưởng sâu rộng của vấn đềnhà nước phân
quyền đã thôi thúc nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều thế hệ trên thế giới khai
thác và tìm cách luận giải để vận dụng trong q trình tạo lập nhà nước hợp lý,
có hiệu quả. Đó là lý do tơi chọn đề tài: Tư tưởng phân quyền trong hai tác
phẩm: “ Bàn về tinh thần pháp luật” của S.L.Montesquieu và “ Bàn về khế ước
xã hội “ của J.J.Rousseau và liên hệ vận dụng vào việc xây dựng và hồn thiện
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
PHẦN NỘI DUNG
Bàn về Tinh thần pháp luật ( De L'esprit des Lois ) - viên ngọc sáng
trong kho tàng lý luận về khoa học pháp lý cũng như triết học và nhiều môn
khoa học xã hội khác của nhân loại, là tác phẩm đồ sộ nhất và cũng là tác phẩm
xuất sắc nhất của người tiên phong cho phong trào Khai sáng Pháp Charles
Louis Montesquieu . Đây chính là nơi ơng thể hiện một cách sâu sắc tồn bộ tư
tưởng của mình. Thành tựu to lớn nhất của Bàn về Tinh thần pháp luật chính là
tư tưởng phân chia quyền lực, bởi vậy khi nhắc đến Bàn về Tinh thần pháp luật
là người ta nghĩ ngay đến tư tưởng phân quyền. Ngay từ dòng đầu tiên của
chương, Montesquieu đã khẳng định: "Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền
lực: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và
quyền thi hành những điều trong luật dân sự”. Theo ông, trong một nước tự do
thì mọi người dân cũng được tự do, và do đó họ có quyền tự quản, bởi vậy, dân
chúng phải nắm quyền lập pháp. Nhưng nếu mọi người dân đều tham gia vào
công việc lập pháp, như trong Hội nghị công dân của các nhà nước dân chủ thời
4
cổ đại thì hồn tồn khơng thích hợp, vì họ thường đòi hỏi thực hiện những việc
mà bản thân họ và cộng đồng không đủ sức làm... Bởi vậy, tốt nhất dân chúng
chỉ nên tham gia vào công việc của nhà nước bằng cách bầu chọn đại biểu của
mình. Và cơ quan đại biểu dân chúng cũng không nên giải quyết các cơng việc
cụ thể, vì họ khơng thể làm tốt điều này, họ chỉ nên làm ra luật, và xem xét
người ta thực thi những luật này ra sao.
Thứ nhất, Về tổ chức của cơ quan lập pháp - cơ quan đại biểu nhân dân,
Montesquieu cho rằng nó nên gồm hai viện: Viện quý tộc và Viện thứ dân,
yêu cầu mỗi công dân đều được bỏ phiếu cử ra đại biểu của địa phương mình
để tham gia vào nghị việc quốc gia. Nguyên nhân của việc cần có hai nghị
viện riêng biệt, theo ông là do trong xã hội có những người mà dịng giống,
của cải hoặc danh vọng của họ nổi bật lên trên những người khác, nên nếu
trong cuộc bầu cử họ chỉ có được một phiếu bầu như các cơng dân khác thì
sự tự do chung là xiềng xích nơ lệ đối với họ, bởi phần lớn các quyết nghị
chung sẽ chống lại họ. Bởi vậy, những người này cần phải có một cơ quan
đại diện riêng bên cạnh cơ quan đại diện dân chúng, để bảo vệ quan điểm và
lợi ích của mình. Ngồi ra, theo ơng, quyền lập pháp cần phải có một uy lực
điều chỉnh để dung hoà, nên cơ quan lập pháp gồm hai viện riêng biệt là một
cơ chế thật thích hợp để phát huy sự dung hoà này. Quan điểm này là một
hạn chế của Montesquieu, bởi chính bản thân ông cũng là một nam tước nam tước De La Brède. Nhưng cách thức hoạt động của các viện này được
ông đưa ra lại là sự tiến bộ rất rõ ràng.
Montesquieu chia quyền lập pháp ra làm hai chức năng: chức năng quy
định và chức năng ngăn cản. Trong đó chức năng quy định là quyền tự mình
ra lệnh, hoặc tự mình sửa lại điều mà người khác ra lệnh còn chức năng ngăn
cản là quyền làm cho quyết định của người khác trở thành vô hiệu. Về hoạt
động của các đại biểu dân chúng trong cơ quan lập pháp, theo Montesquieu,
các đại biểu này là người đã nhận được ý kiến chung của những người bầu ra
5
họ, là đại diện cho ý chí của các cử tri, nên không nhất thiết mọi việc đều
phải hỏi ý kiến dân chúng.
Thứ hai, về quyền hành pháp, Montesquieu cho rằng nó phải nằm trong tay
một vị vua chúa, bởi bản thân quyền hành pháp luôn cần đến những hành động
tức khắc, kịp thời, mà nếu phải qua một cuộc họp bàn thì quyết định đưa ra
thường đã muộn hơn yêu cầu thực tế.
Montesquieu cho rằng quyền hành pháp phải nằm trong tay một vị vua chúa.
Do hạn chế lịch sử ơng chưa hình dung được một nhà nước khơng có vua. Cơ
quan hành pháp là nơi chấp hành luật do cơ quan lập pháp ban hành nhưng nó
lại có quyền ngăn cản các dự định của cơ quan lập pháp. Kỳ hạn họp cơ quan lập
pháp là do cơ quan hành pháp quy định. Quân đội không thể trao cho cơ quan
lập pháp mà phải trao cho cơ quan hành pháp quản lý. Nhưng để cho người hành
pháp không thể dùng quân đội đàn áp dân chúng thì quân đội phải mang tính
chất nhân dân, đồng lịng với dân như thời Marius (người sáng lập ra quân đội
nhà nghề, được tái cử tới 7 lần)
Về sự tham gia của quyền hành pháp vào chức năng lập pháp, ông chỉ rõ:
"Quyền hành pháp chỉ tham gia việc lập pháp bằng chức năng ngăn cản, chứ
không chen vào bàn cãi công việc, mà cũng không phải làm các kiến nghị". Và
ông lấy ví dụ trong các nước cộng hồ thời kỳ cổ đại, trong các cuộc Hội nghị
nhân dân, nhà nước phải có quyền đưa ra kiến nghị và cùng bàn cãi với dân, nếu
khơng thì quyết nghị cuối cùng sẽ có sự hỗn độn, xa lạ với chính thể, bởi dân
chúng không phải lúc nào cũng hiểu hết được đất nước bằng những nhà cầm
quyền.
Montesquieu còn chỉ ra một vài vấn đề quan trọng trong hoạt động của hai cơ
quan này, là vấn đề thu thuế, và vấn đề quân đội.
Còn về thứ quyền lực cuối cùng, quyền tư pháp, Montesquieu cho rằng nó
khơng nên được giao cho một cơ quan hay một cá nhân cụ thể, thường trực như
hai quyền lực kia, mà do một đoàn thể dân chúng được cử ra trong một thời gian
ngắn do luật định. Làm như thế thì thứ quyền lực đáng sợ với người đời này mới
6
khơng phải là một sự hữu hình, như thế người ta mới sợ cơ chế cai trị chứ không
phải là sợ các quan cai trị. Montesquieu mong muốn sao cho người dân chỉ biết
sợ cơ chế cai trị mà không sợ các ơng quan. Như thế thì người bị cáo phải được
tự mình chọn luật sư hoặc từ chối luật sư do tồ án chỉ định mà bị cáo khơng
thích và cho rằng quyền tư pháp không nên kết hợp với bộ phận nào của quyền
lập pháp, nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ đặc biệt.
Quan điểm này của ông có những hạn chế nhất định khi vẫn chủ
trương đề cao các đặc quyền của tầng lớp quý tộc phong kiến, nhưng mặt
khác vẫn có điểm tiến bộ, khi đề cao thủ tục đàn hạch, đảm bảo sự phụ thuộc
của cơ quan hành pháp vào cơ quan lập pháp.
Nói tóm lại, qua tác phẩm Bàn về Tinh thần pháp luật của
Montesquieu, ta có thể nhận thấy một bước phát triển mới của tư tưởng phân
chia quyền lực, khi tác giả đưa ra quan điểm phân tách các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp một cách triệt để, có sự giám sát, kiềm chế và đối trọng
giữa các nhánh quyền lực, và ngay giữa các cơ quan trong cùng một nhánh
quyền lực với nhau, nhằm ngăn chặn sự lạm quyền, những vẫn tạo nên một
bộ máy nhà nước thống nhất: "Cả ba quyền lực này do ràng buộc lẫn nhau
mà dường như nghỉ ngơi hay bất động. Tuy nhiên, vì tính tất yếu của mọi sự
vật là vận động nên cả ba quyền lực vẫn buộc phải đi tới, mà đi tới một cách
nhịp nhàng" Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn mang nặng tư duy bảo
thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc, nhưng nó vẫn là nền
tảng nịng cốt cho tư tưởng phân chia quyền lực ngày nay, vẫn đã và đang
được áp dụng rộng rãi trong tổ chức bộ máy nhà nước ở nhiều quốc gia như
Anh, Mỹ Có thể khẳng định sau Aristote 1300 năm, với Charles Louis
Montesquieu, tư tưởng phân chia quyền lực đã hồi sinh trở lại, và với lần trở
lại này nó đã thực sự trở thành một học thuyết đầy đủ, trọn vẹn và hoàn hảo.
Montesquieu xứng đáng được mệnh danh là cha đẻ của tư tưởng phân quyền
hiện đại.
7
Bàn về Khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị ( Du
contrat social - ou principes du droit politique ) của Jean - Jacques Rousseau
là một tác phẩm mà tư tưởng của nó đã tạo ra sự chuyển biến lớn lao trong xã
hội và đã trở thành di sản trí tuệ quý báu cho nhiều thế hệ.
Đúng như tên gọi của mình, Bàn về Khế ước xã hội trình bày một cách
rất hồn thiện về học thuyết khế ước xã hội, mà nội dung chủ yếu của nó là
cho rằng: xã hội và nhà nước ra đời không phải do ý muốn của Chúa trời, mà
do những con người trong trạng thái tự nhiên liên kết lại với nhau thông qua
một bản khế ước.
Theo khế ước, nhân dân có nghĩa vụ phải phục tùng nhà nước, nhưng
nhà nước cũng có nghĩa vụ phải chăm lo cho nhân dân; xã hội và nhà nước
chỉ có thể tồn tại nếu như mối quan hệ hai chiều này được đáp ứng một cách
thích đáng và đầy đủ. Một khi nhà nước đã vi phạm những nguyên tắc của
khế ước xã hội, lạm quyền, chà đạp lên quyền lợi của nhân dân thì nhân dân
có quyền lật đổ nhà nước ấy đi mà thiết lập một bản khế ước mới, tạo dựng
một nhà nước mới mà họ cho là phù hợp hơn, vì lợi ích của họ hơn.Dù nội
dung chủ yếu của tác phẩm là trình bày về học thuyết khế ước xã hội, nhưng
bên cạnh đó, tác giả Rousseau cũng đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ
và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Trong cả 4 quyển, 48 chương của tác phẩm, Rousseau không hề đề cập
tới việc: quyền lực nhà nước được chia quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp; hơn thế Rousseau cịn cho rằng quyền lực tối cao là khơng thể
phân chia, ông cực lực phản đối việc chia tách các quyền: "Trong chính trị
của ta, tuy về nguyên tắc thì quyền lực tối cao là khơng thể phân chia, nhưng
trên thực tế người ta vẫn chia tách nó trong đối tượng. Họ chia nó thành lực
lượng và ý chí, thành quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp, thành
quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến tranh, thành cai trị đối nội và
ứng phó đối ngoại; khi thì người ta trộn lẫn các bộ phận, khi thì người ta
8
tách rời chúng với nhau. Họ biến quyền lực tối cao thành một thứ quái dị,
ghép lại bằng nhiều mảnh, giống như họ ghép một hình người từ nhiều cơ
thể; mặt của anh này, tay của chị nọ, chân của người kia ... sau khi tách rời
các bộ phận trong cơ thể xã hội, họ dùng uy tín tạp nham mà ghép các bộ
phận ấy lại một cách tuỳ tiện, chẳng ai hiểu ra làm sao cả".
Dù nêu cao tư tưởng quyền lực là không thể phân chia, nhưng
Rousseau lại cho rằng phân quyền là phương cách tốt nhất để ngăn chặn sự
lạm quyền, Khi nói về sự phân tách quyền lập pháp và quyền hành pháp,
quyền lập pháp thực chất là ý chí, và quyền hành pháp thực chất là sức mạnh
của một cơ thể chính trị duy nhất, là quyền lực tối cao. Rousseau chủ trương
không phân quyền, nhưng thực chất lại phân quyền tương đối giữa lập pháp
và hành pháp.
Tư tưởng phân quyền của Rousseau khác xa so với những quan điểm của
Aristote và Montesquieu khi trong tác phẩm Bàn về khế ước xã hội ông không
hề đề cập đến quyền lực nhà nước được phân chia thành quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp. Dù nêu cao tư tưởng quyền lực là không thể phân
chia, Rousseau lại cho rằng phân quyền là cách tốt nhất để ngăn chặn sự lạm
quyền.
Về quyền lực lập pháp, ông cho rằng đây thực chất là ý chí. Quyền lập
pháp thuộc về nhân dân, tuy nhiên, không thể là tồn thể dân chúng do sự chênh
lệch về trình độ trong dân chúng và tính chất phức tạp của ngành lập pháp.
Chính vì vậy, quyền lập pháp chỉ có thể trao cho một nhóm người đại diện cho
dân chúng đứng ra vạch đường chỉ lối cho ý chí chung và ghi chép ý chí chung
ấy thành luật.
Quyền hành pháp, Rousseau trao cho chính phủ hay đúng hơn là thuộc về
một cá nhân cụ thể, cá nhân ấy được gọi là pháp quan, tức người cai trị. Về bản
chất quyền hành pháp, ơng cho rằng nó chỉ là một cơ quan thực hành và có thể
bị giải tán nếu người cầm đầu chính phủ khơng cai trị theo luật, lấn át cơ quan
9
quyền lực tối cao hoặc nếu các thành viên của chính phủ thốn đoạt quyền hành
một cách riêng rẽ.
Theo quan điểm của Rousseau, cơ quan tư pháp không phải là một bộ
phận cấu thành của nhà nước, nhưng vai trò và vị trí của nó lại được đề cao.
Nhiệm vụ của cơ quan tư pháp là bảo tồn luật và quyền lập pháp. Rousseau quan
niệm, cơ quan tư pháp chỉ là cơ quan nói lên lời phán xét của nhân dân.
Nói tóm lại, qua tác phẩm Bàn về Khế ước xã hội của Rousseau, ta
nhận thấy một quan điểm hết sức mới lạ về tư tưởng phân chia quyền lực
cũng như sự áp dụng của tư tưởng này trong bộ máy nhà nước. Rousseau chủ
trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay
cơ quan quyền lực tối cao tức tồn thể cơng dân trong xã hội. Nhưng ông lại
chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp và hành
pháp, giao chúng vào tay của cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách
thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả của nhà nước,
cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền của cơ quan hành pháp.
Ngồi ra ơng cịn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc
đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng
giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân.
Đối với 2 tác phẩm của Montesquieu và Rousseau đều nói về nguyên tắc
phân quyền và được ghi nhận, tuy là người khởi xướng phong trào giải phóng tư
tưởng, Montesquieu đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử một cách xuất sắc trong
cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, lộng quyền chính trị và nền chuyên
chính tinh thần giáo hội, đặt nền tảng lý luận cho toàn bộ trào lưu Khai sáng
Pháp.Về Rousseau đã nêu lên những tư tưởng rất đặc sắc về quyền lực nhà
nước, về chủ quyền nhân dân, sự phụ thuộc của hành pháp và tư pháp và một
nền dân chủ trực tiếp. Mặc dù ông không thấy sự hình thành nhà nước, khơng
thấy các lợi ích kinh tế đứng đằng sau các biến động chính trị, đằng sau việc
hình thành chính phủ cũng như sự tha hố của chính phủ. Song trên thực tế, ảnh
hưởng tư tưởng cuả Rousseau đã vượt qua giới hạn của cả thế kỉ XVIII và vượt
10
qua cả giới hạn tư tưởng dân chủ tư sản. Các tư tưởng của ông về con người sinh
ra tự nhiên là như nhau, nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân... đã làm ơng trở thành người tiên đốn những tư
tưởng xã hội chủ nghĩa mặc dù bản thân ông không phải là nhà xã hội chủ nghĩa.
Một trong những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền là phải có
sự phân cơng quyền lực thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việt
Nam chúng ta, một khi đã khẳng định trong Hiến pháp việc xây dựng nhà nước
pháp quyền thì khơng thể khơng hồn thiện cơ chế phân công quyền lực nhà
nước. Tuy nhiên chúng ta chỉ lấy yếu tố hợp lý của học thuyết phân quyền là sự
phân công quyền lực chứ không áp dụng toàn bộ nội dung của học thuyết này.
Khác với nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản,
quyền lực nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống
nhất (hay còn gọi là tập quyền xã hội chủ nghĩa – XHCN). Theo nguyên tắc này,
Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho
toàn thể nhân dân, các cơ quan nhà nước khác là phái sinh, do Quốc hội thành
lập và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực này. Các cơ quan nhà nước
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mơ
hình này đã có hiệu quả nhất định trong thời kỳ kế hoạch hoá trước đây. Nhưng
sang thời kỳ chuyển đổi, nó thể hiện sự kém hiệu quả và cần phải được đổi mới.
Việt Nam cũng có ba nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy
nhiên, theo quy định của Hiến pháp thì ba nhánh quyền lực này ở Việt Nam
không phân biệt, đối lập và hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất. Sự thống nhất về quyền lực nhà nước dẫn đến ba nhánh quyền lực
nhà nước hiện nay hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua các tổ chức
đảng trong chính từng cơ quan quyền lực đó.
Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước ta, về bản chất vẫn bảo đảm tính tập
quyền XHCN, song trên thực tế đã vận dụng những hạt nhân hợp lý của thuyết
phân quyền, nghĩa là nhấn mạnh đến khía cạnh phân công quyền lực: “Quyền
11
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đây là
bước phát triển trong nhận thức của Đảng ta về nguyên tắc tập quyền XHCN
trong thời kỳ mới. Nhưng trên thực tế, có thể thấy rằng, những hạt nhân hợp lý
của lý thuyết phân quyền chưa được chúng ta khai thác đầy đủ. Việc phân công
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu chuyên nghiệp,
chưa tạo ra được sự phát triển về kỹ năng chun mơn của các nhánh quyền lực.
Chính sự phân công không rõ ràng về thẩm quyền đã dẫn đến sự chồng chéo
giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực thi quyền lực.
Tình trạng vừa tập trung quan liêu, trì trệ, vừa phân tán, thiếu thống nhất đã làm
cho cơ cấu quyền lực không phát huy được tính hiệu quả.
Do đó, việc vận dụng lý thuyết phân quyền trong tổ chức liên hệ vận
dụng vào việc xây dựng và hồn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước để đảm bảo tính tối
thượng của luật pháp đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và đảm bảo tính
thượng tơn của pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng và Nhà nước và các nhà
lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước ta phải luôn luôn xem thượng tôn pháp luật
là nguyên tắc đầu tiên trong mọi nhận thức và hành động. Bởi vì điều kiện tiên
quyết đó là chất lượng của hệ thống pháp luật. Chúng ta cần xây dựng một hệ
thống pháp luật đảm bảo tính tồn diện, đồng bộ,mang tính phù hợp và phải
được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý đúng đắn, logic chặt chẽ, trong đó
Hiến pháp giữ vị trí cao nhất, chi phối tồn bộ hệ thống pháp luật.
Thứ hai, đó là tư tưởng về vai trò cụ thể của các bộ quyền lực nhà nước và
mối quan hệ giữa chúng đối với việc phân công chức năng giữa các cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay nói về tư
tưởng này có giá trị phù hợp đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam, tiến hành sự phân công, phân lập rạch ròi về mặt chức năng, thẩm
12
quyền giữa các nhánh quyền lực và thể chế hóa cụ thể, rõ ràng trong Hiến pháp
nhằm tạo sự ổn định trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, Quốc hội
phải thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được bầu theo đúng
nguyên tắc tranh cử, phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội
phải hoạt động thường xuyên, liên tục, các thành viên của nó khơng được kiêm
nhiệm các chức vụ ở các nhánh quyền lực khác, có như vậy mới nâng cao tính
chuyên nghiệp trong việc làm luật và giám sát việc thực thi pháp luật. Chính phủ
phải được cải cách theo hướng xây dựng một ngành hành pháp mạnh, thực sự là
cơ quan hành pháp cao nhất. Để nâng cao tính chuyên nghiệp trong bộ máy hành
pháp, Chính phủ cần phân biệt rõ hoạt động chính trị chuyên nghiệp với hoạt
động chuyên môn thuần túy để làm cơ sở cho q trình cải cách bộ máy hành
chính hiện nay. Đối với cơ quan tư pháp, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp
hiện nay phải tậptrung vào việc nâng cao năng lực cho tổ chức hoạt động của tòa
án trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, trong đó ngun tắc tịa án xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc tối thượng. Để được như
vậy thì tổ chức hoạt động của tòa án phải theo hướng: thẩm phán tòa án tối cao
(một số lượng nhất định) phải do Quốc hội bầu. Tịa án tối cao chỉ quản lý về
mặt hành chính chứ không can thiệp về mặt chuyên môn đối với hệ thống tịa án
và có quyền bổ nhiệm các thẩm phán cho tịa án cấp dưới. Điều này sẽ góp phần
tạo ra sự độc lập trong hoạt động của hệ thống tòa án cũng như quyết định của
các thẩm phán, khắc phục được tình trạng bị chi phối về mặt chính trị hay can
thiệp trong q trình xét xử, nhất là việc xét xử các quan chức cấp cao. Đồng
thời, tòa án tối cao cần được bổ sung thêm chức năng bảo vệ Hiến pháp, có thẩm
quyền giải thích Hiến pháp, bác bỏ các đạo luật vi phạm Hiến pháp cũng như xét
xử tất cả các hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ ba, với mục đích cao nhất bảo đảm quyền tự nhiên con người đối với
đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân, với mục đích đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay, vận dụng tư tưởng và khẳng định rằng các quyền thiêng liêng của con
người là bất khả xâm phạm, nó là quyền tự nhiên có sẵn, khơng do ai ban tặng
13
cho con người, phân chia quyền lực nhà nước tránh sự lạm quyền, tham luyến
quyền lực vì mục đích riêng của người nắm quyền sẽ dẫn đến xâm phạm quyền
con người. khẳng định xuyên suốt trong tác phẩm tư tưởng tiến bộ và cách
mạng, đó là quyền lực thuộc về nhân dân, không thuộc về sức mạnh quyền lực
siêu trần thế hay một người, nhân dân là chủ thể của quyền lực tối cao và nhà
nước phải giữ vai trò đảm bảo các quyền lợi cơ bản nhất của nhân dân. Mục đích
của phân chia quyền lực nhà nước để đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về
nhân.
Thứ tư, thực tiễn cho thấy xây dựng hệ thống chính trị chịu sự kiểm sốt
chặt chẽ thì các cơ quan nhà nước và các quan chức năng, đội ngũ cán bộ mới
thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình, hết lịng hết sức vì dân, khắc phục lạm
quyền trong thực thi nhiệm vụ. Chính vì vậy, để xây dựng một hệ thống chính trị
Việt Nam, đội ngũ cán bộ, nhân dân cần cầu thị học tập cơ chế kiểm soát quyền
lực mà lý thuyết phân quyền nêu ra và vận dụng sáng tạo trong điều kiện một
đảng lãnh đạo, nhằm thiết lập các ràng buộc bên trong đối với quyền lực, đặc
biệt là quyền lực của Chính phủ. Cơ chế kiểm sốt quyền lực này phải được tổ
chức trên cơ sở dùng luật để giới hạn phạm vi của quyền, và khi việc sử dụng
quyền lực vượt quá giới hạn hợp pháp của nó thì sẽ tự động dẫn đến sự ngăn
chặn và hạn chế của các quyền lực tương ứng. Một cơ chế kiểm sốt quyền lực
như vậy địi hỏi phải được thể chế hóa một cách cụ thể.
Việc thể chế hóa càng cụ thể và càng chặt chẽ bao nhiêu thì quyền lực
càng bị kiểm sốt tốt bấy nhiêu, nghĩa là cơ quan nào, người nào làm việc gì,
chịu trách nhiệm cá nhân đến đâu, phải rõ ràng và phải bị giám sát. Tuy nhiên,
một vấn đề cần hết sức lưu ý, đó là các nội dung trên phải gắn liền với việc xác
định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý, điều hành của Nhà
nước, từ đó đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, để Đảng lãnh đạo nhưng
không bao biện, không làm thay hay can thiệp quá sâu vào công việc của Nhà
nước. Nếu khơng làm được điều này thì mọi nỗ lực vận dụng lý thuyết phân
quyền sẽ bị méo mó, biến dạng, làm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà
14
nước sẽ kém hiệu quả và khó kiểm sốt. Nghiên cứu lý thuyết phân quyền vẫn
có ý nghĩa lớn đối với q trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà
nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Khai thác lý thuyết phân quyền, cần tập trung làm rõ tính độc lập, chuyên
nghiệp hoá trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là việc tìm ra cơ
chế kiểm soát quyền lực hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính tập trung thống nhất
của quyền lực, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước cơ quan
quyền lực của nhân dân. Đó là những vấn đề thuộc về bản chất của nhà nước
pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng.
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng phân chia quyền lực trong 2 tác phẩm đã đem lại những
giá trị chính trị to lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm của mọi thời
đại về tổ chức nhà nước, đặc biệt là nhà nước tư sản. Ưu điểm quan trọng nhất
của tư tưởng phân quyền là tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện
quyền lực nhà nước, đưa xã hội loài người lên một bước mới trong quản lý. Do
phân quyền nên dễ dẫn tới sự tranh chấp, kìm hãm lẫn nhau giữa các cơ quan
nhà nước nhằm giành quyền lợi nhiều hơn trong thực thi quyền lực nhà nước.
Cũng tạo nên sự giảm đồng bộ, thống nhất và gắn kết giữa các cơ quan quyền
lực nhà nước.
Tư tưởng phân chia quyền lực là cơ sở hình thành nên nguyên tắc phân
quyền nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất
là của những nước tư sản. Phân quyền như là một đòi hỏi của dân chủ, một nội
dung chính của Hiến pháp. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, với công
cuộc đổi mới, mở cửa, và nhất là với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền,
việc tiếp thu và áp dụng những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng phân chia quyền
lực, hay đúng hơn là học thuyết phân quyền của Montesquieu, Rousseau đã
được chúng ta ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Điều 2 của Hiến pháp quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
15
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp."