Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Triết học Mác – Lênin: quy luật quan hệ sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.99 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ quốc gia
nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của con người
mà nó cịn tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên Thế
giới, trong đó có Việt Nam. Triết học là nền tảng, cơ sở của mọi đường lối quan
điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, ngay cả trong thời đại hội nhập ngày
nay.
Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác – Lênin là quan hệ sản xuất, lực
lượng sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Hiểu được mối quan hệ biện chứng này sẽ giúp cho
quá trình phát triển của xã hội trở nên dễ dàng hơn.
Ở nước ta, trước thời kỳ Đổi mới, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất đã không được nhận thức một cách đầy đủ, cơ chế quan
liêu, bao cấp kéo dài khiến nền kinh tế trở nên trì trệ. Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986) đã đưa nước ta chính thức bước vào thời kỳ Đổi mới. Từ đây, Đảng đã
không ngừng nâng cao về nhận thức và lý luận, áp dụng linh hoạt vào việc Đổi mới
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ
thuật phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong xã hội, năng suất lao động không
ngừng tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1.Khái niệm lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,


phản ánh khả năng con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực
của mình, sức mạnh đó được khái quát thành lực lượng sản xuất. Trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện của trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lực lượng
sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của
cải vật chất cho xã hội bảo đảm nhu cầu của con người. Để tiến hành sản xuất thì
con người phải dùng các yếu tố vật chất, kỹ thuật nhất định. Tổng thể các yếu tố ấy
là lực lượng sản xuất, bao gồm:
Sức lao động, bao gồm ba yếu tố: thể lực, trí lực và kỹ năng lao động. Lao
động không chỉ bao gồm công nhân trực tiếp, mà cịn gồm cả cơng nhân gián tiếp
và các nhà quản lý. Cùng với quá trình phát triển của khoa học và công nghệ, tỷ lệ
đội ngũ công nhân gián tiếp tăng lên.
Tư liệu sản xuất là những điều kiện cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là yếu tố vật chất sản xuất
mà con người dựa vào đó tác động lên đối tượng lao động. Đối tượng lao động là
yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động của con người cùng với tư liệu lao động
tác động lên làm biến đổi hình dáng, tính chất vật lý... của đối tượng lao động.
Trong tư liệu lao động có cơng cụ sản xuất là nhân tố quyết định và một bộ phận là
vật chuyển dẫn, là những điều kiện sản xuất chung, được gọi là kết cấu hạ tầng
(như đường sá, bến cảng, hệ thống điện, viễn thơng...). Trong q trình phát triển,
hệ thống kết cấu hạ tầng ngày càng trở nên quan trọng và có vai trị quyết định đối
với tồn bộ quá trình sản xuất và sức sản xuất của nền sản xuất xã hội.
Khoa học kỹ thuật là một bộ phận của lực lượng sản xuất. Nó là cái cốt lõi,
yếu tố quyết định trình độ của lực lượng sản xuất.
2


Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, người ta không được tự do
lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình... “Vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã
đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua... không phải do họ tạo ra,
mà do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do

những thế hệ trước đây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự
sản xuất mới" . Do vậy, lực lượng sản xuất là có tính kế thừa và phát triển.
- Trong 3 yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì người lao động là yếu tố
quyết định nhất, quan trọng nhất bởi con người lao động chế tạo ra tư liệu lao
động, và một phần đối tượng lao động, đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trị
của tư liệu lao động, cơng cụ lao động. Ngay khoa học - kỹ thuật là yếu tố cốt lõi
của lực lượng sản xuất, nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ sự tác
động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào
hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ rõ nhất ở
trình độ phát triển của phân công lao động.
- Lực lượng sản xuất có vai trị chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là
động lực của sự phát triển xã hội.
2. Khái niệm quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ
sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và
quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra… Quan hệ sản xuất do con người tạo ra
nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan khơng phụ thuộc vào ý chí
con người.
Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản
xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:
+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản
xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu)
3


+ Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao
đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý).

+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra
(gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu
là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định
quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm làm ra.
Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà Đại hội VI nhấn
mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ
phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, không nghi ngờ gì
rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất. Nó là đặc trưng để phân biệt
chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau
trong lịch sử như mức đã nói.
– Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều
mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện
tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện.
Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế
– xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình
thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
– Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất
của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong
mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ
vai trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những
chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ
kinh tế – xã hội mới.
Nếu suốt trong quá khứ, đã khơng có một cuộc chuyển biến nào từ hình thái kinh tế
– xã hội sang hình thái kinh tế – xã hội khác hồn tồn là một q trình tiến hố êm
ả, thì thời kỳ q độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa hoặc trước tư
bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (CSCN) trong thời đại
4



ngày nay càng khơng thể là một q trình êm ả. Chủ nghĩa Mác – Lênin chưa bao
giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống trị, điển
hình cịn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã
hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt
nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất không những giữa các nước
khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc
chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét: “Không bao
giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi…” phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều
kiện vật chất trên.
3. Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất có vai trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển của
quan hệ sản xuất
Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địi hỏi phải có một
qun hệ sản xuất phù hợp. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát triển ở một
trình độ cao hơn nên quan hệ sản xuất cũng phải phát triển để tạo động lực cho lực
lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất luôn phát triển nhanh hơn quan hệ
sản xuất nên đến một lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, đòi hỏi phải
xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
3.1 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
* Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế – chính trị năm 1859 C.Mác viết
“Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ
nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất.

Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản
5


xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất vật chất của họ…” Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư
tưởng về “Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất”.
Cho đến nay hầu như qui luật này đã được khẳng định cũng như các nhà nghiên
cứu triết học Mác xít. Khái niệm “phù hợp” được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới
tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là khơng tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề
mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ “phù hợp” này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao
gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng qt thì đó là những dạng
quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối
lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù
hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái
niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
– Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự yên tính”
giữa các mặt.
– Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự khơng cân bằng là tuyệt
đối. Chính đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng trong
phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa c húng
không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu
sự cân bằng như một sự đứng im, cịn sự khơng cân bằng có thể hiểu như sự vận
động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời cịn khơng cân bằng khơng
phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng
nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có
thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự

phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào
ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch
sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự
6


không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy
nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự khơng phù
hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý
muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái
trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là
vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự
phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế.
3.2 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp
thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy
quan hệ sản xuất lên q xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có
nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương
pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động
ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm
dụng này biểu hiện ở “Nhà nước chun chính vơ sản có khả năng chủ động tạo ra
quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với

sự chủ quan tuỳ tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của
quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất ln ln bị qui
định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hồn thiện
tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.
7


+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản
xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con
người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải ln tìm cách
cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động
qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất khơng
thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí
phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất
và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và
trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó khơng thể biến đổi đồng thời
đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với
lực lượng sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức
quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của
cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất
cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế

sự phát triển cơng cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
hợp tác phân công lao động quốc tế.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT CỦA VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI (1986)
1. Thời kỳ trước đổi mới
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại
càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và
chưa có điều kiện phát triển.
8


Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay nghề, phần
lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại. Trường dạy
nghề rất hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gòn,….Tại những đơ thị lớn,
trình độ của người lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này cịn thơ sơ, lạc
hậu. Là một nước nơng nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc,
theo hình thức “ con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu,
trong cơng nghiệp máy móc thiết bị cịn ít và rất lạc hậu. Phát triển công cụ lao
động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau.
Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu
và phát triển khơng đồng đều.
Trong hồn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất
xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành
phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần
kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá
thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần

khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa,
tuyệt đối hóa vau trị của chế độ công hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã nhấn mạnh thái q vai trị “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến
chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát
triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nơng dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã,
mở rộng nơng trường qc doanh mà khơng tính đến lực lượng sản xuất cịn rất lạc
hậu. Người lao động khơng
được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra là chủ thể của sản xuất
nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp. Nước ta quá nhấn mạnh
sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là nhân tố hàng đầu của
9


quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối tượng lao động.
Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất
bị kìm hãm, đời sơng nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối năm 1985
(12/1985, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp, kinh tế
lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)
Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã
thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh
tế và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến
năm 2005 là 44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ
thống trường dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên
nhanh chóng, năm 2007-2008, cả nước có 1 603 484 nghìn sinh viên.
Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275 trường
trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất
nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân

đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”. Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn
nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước
lân cận.
Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các
ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống cây trồng mới
cũng được tìm ra và phổ biến. Trong cơng nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu phát
triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc gia trên Thế giới
thì tư liệu sản xuất nước ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao
và cịn phân hóa giữa các vùng trong cả nước.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa
dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế,
các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của
quan hệ sản xuất phong kiến được công nhận.

10


Như vậy, trong hồn cảnh lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng
đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và
được đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta
là 8,4 %, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng
hoảng thì vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn
FDI từ 2005-2010, GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
3. Sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
3.1 Những sai lầm về quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất trước kia
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt
mấy chục năm qua, thực tiễn cho thấy những mặt được cũng như những mặt cũng
như hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như

quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc
điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất
thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản
xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong
kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm
vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế.
Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính
quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển,
Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu,
chuyển sang chế độ cơng hữu với hai hình thức tồn dân và tập thể, lúc đó được coi
là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như
sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã khơng mang
lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất
và trình độ của LLSX, đã để lại hậu quả là:
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ cơng, bn bán
nhỏ) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và
TLSX. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập
trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không
11


làm chủ được quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không phải
là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý
TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu
chi phối, định đoạt TLSX và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ
là người làm cơng ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng
số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ cơng
hữu về TLSX cùng với ơng chủ của nó trở thành hình thức, vơ chủ, chính quyền
(bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị

kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, khơng có cơ chế giàng buộc
trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có
quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.
Tuy vậy, trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đang ta đang
vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước
điều chỉnh quan hê san xuất cả tầm vi mô và vĩ mô thời coi trọng việc đẩy mạnh
phát triển lực lương san xuất. Điều đó đã có một tác động tích cực đối với nền kinh
tế nước ta.
3.2 Sự hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn hiện
nay ở nước ta
Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu
vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu
và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã
hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hố. Khơng thấy rõ các bước đi
có tính qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối
“đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho
12


lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ cơng hữu thuần nhất giữa hai hình
thức sở hữu tồn dân và tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất
đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân
tích trên.
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những

hình thức kinh tế – xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp
cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện
tượng tiêu cực trên là cần thiết về mặt này trên thực tế chúng ta chưa làm hết
nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền
kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn thúc đẩy sản xuất phát triển
với hiệu quả kinh tế cao.
Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho
phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và luôn bán tự do rộng rãi có lợi cho
sự phát triển sản xuất. Mới đây các nhà báo của nước ngoài phỏng vấn Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu rằng “với một người có bằng cấp về qn sự nhưng khơng có bằng
cấp về kinh tế ơng có thể đưa nước Việt Nam tiến lên khơng”, trả lời phỏng vấn
Tổng bí thư khẳng định rằng Việt Nam chúng tôi khác với các nước ở chỗ chúng
tơi đào tạo một người lính thì người lính ấy phải có khả năng cầm súng và làm kinh
tế rất giỏi, và ơng cịn khẳng định là khơng chấp nhận Việt Nam theo con đường
chủ quan của tư bản, nhưng không phải triệt tiêu tư bản trên đất nước Việt Nam và
vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi cho đơi bên và như vậy cho
phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng suốt. Quan điểm từ đại hội VI
cũng đã khẳng định không nhưng khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế cả thế mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thơng qua sự
13


nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với
nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện
chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có

những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng
chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh,
thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường
gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân).
Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Cịn Lênin, trong tác
phẩm Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị,
đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền X ơ viết
sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở
kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là cơng việc mà chúng ta cần bắt
tay vào làm đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
3.3 Cơng nghiệp hố vận dụng tuyệt vời quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động khơng ngồi biện chứng nội
tại của phương thức sản xuất, vấn đề cơng nghiệp hố gắn chặt với hiện đại hoá,
trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hố
– hiện đại hố và muốn thành cơng trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế
con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngồi ra phải có
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản
xuất đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hoá – hiện đại hoá với tiềm năng lao
động lớn cần cù, thơng minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng cơng cụ
của chúng ta cịn thơ sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục.
14



Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về cơng nghiệp hố –
hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một
cơ cấu các thành phần kinh tế hợp qui luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai
cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hồn thành
sự nghiệp cơng nghiệp hố – hiện đại hố đất nước vì dân giàu nước mạnh cơng
bằng văn minh hãy cịn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải
nhận thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.

CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Phát triển lực lượng sản xuất
Trước tiên ta cần chú ý đến việc phát triển lực lượng lao động xã hội, mà điểm cần
lưu ý ở đây chính là làm thế nào để phát triển được nguồn nhân lực một cách có
hiệu quả nhất?. Vì phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của tiến
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước được rút ngắn. Vai trị này thể hiện rõ
trên những khía cạnh sau:
Một, khắc phục điểm yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là lao động thiếu kỹ
năng và năng suất thấp, nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế thành công cũng
như củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
Hai, đây là cách thức đúng đắn để đạt được mục tiêu phát triển con người.
Ba, phát triển nguồn nhân lực là tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng
tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ IX coi phát triển nguồn nhân lực vừa là một chiến lược phát
triển lâu dài, vừa là điểm đột phá phát triển của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn
tới. Để thực hiện chủ chương này, Đại hội IX đã xác định phương hướng và hệ
thống các giải pháp lớn, nhằm giải quyết hàng loạt vấn đề. Sau đây là một số vấn

15



đề liên quan đến việc phát triển nguồn nhân lực, đó là những vấn đề về hai lĩnh
vực: giáo dục, đào tạo và phát triển khoa học công nghệ.
Trước hết, về phương hướng và giải pháp đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo
– Định hướng mơ hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu công nghệ tiên tiến
của thế giới sẽ là một trong những yếu tố quyết định phương hướng và nội cải cách
giáo dục.
– Có chương trình ưu tiên thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ thống
giáo dục, đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những nguyên tắc và nội dung mới.
– Cách dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu
nhận, sử lý thông tin và tri thức, phát triển năng lực xác địng và giải quyết vấn đề.
– Nhà nước đóng vai trị chủ lực trong việc củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hàng phổ cập trung học cơ sở trong cả nước …,
giúp đơng đảo người nghèo có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản.
– Tích cực thực hiện chủ trương “xã hội hố cơng tác giáo dục, đào tạo”.Vai trị của
trường bán cơng, dân lập và các cách thức truyền tải giáo dục khác nhau cần được
tiếp tục phát huy. Việc lôi cuốn khu vực doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển
hệ thống đào tạo nghề cần dược khuyến khích.
2. Đối với lĩnh vực khoa học- công nghệ:
Hệ thống khoa học- công nghệ của nước ta hiện cịn bất cập so với u cầu phát
triển. Nó cần được đổi mới căn bản và toàn diện. Ba nhiệm vụ lớn cần ưu tiên xử
lý trong chiến lược phát triển khao học-công nghệ giai đoạn tới là:
Lựa chọn hướng phát triển khoa học-công nghệ ưu tiên. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là
bước đi và thứ tự ưu tiên trong triển khai các chương trình cơng nghệ này. Đồng
thời, trong giai đoạn trước mắt, cần đặc biệt coi trọng phát triển và áp dụng cơng
nghệ thích hợp, có khả năng thu hút nhiều lao động.
Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thực hành trẻ có năng lực. Đây là khâu quyết
định triển vọng phát triển của nền khoa học, cơng nghệ nói riêng và của Việt Nam
nói chung.
Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa họccông nghệ với các nhu cầu kinh tế-xã hội.

16


Giải pháp cho việc xây dựng ,phát triển và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo
định hướng XHCN.
Về mặt kinh tế ,sự phát triển quá độ lên CNXH ở nước ta bỏ qua chế độ TBCN có
nghĩa là chúng ta bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất TBCN
;các quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở nước ta phải vận hành theo định
hướng XHCN.Tuy nhiên xuất phát từ một trình độ kinh tế lạc hậu ,để phát triển
nhanh chóng lực lượng sản xuất ,hoàn thiện được quan hệ sản xuất mới theo định
hướng XHCN là một nhiệm vơ cùng khó khăn ,đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
đề ra chủ chương đúng đắn cho nhiệm vụ này .
Thứ nhất là giải pháp cho vấn đề sở hữu đó là chế độ sở hữu công hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu từng được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được
xây dựng xong về cơ bản .Phải từ thực tiễn tìm tịi ,thử nghiệm để xây dựng chế độ
sở hữu cơng cộng nói riêng và quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN mới nói
chung với những bước đi vững chắc . Đường lối đổi mới của Đảng đã đặt lại vai
trò của sở hữu tư nhân trong công cuộc xây dựng CNXH.Thay cho việc xoá bỏ
ngay lập tức sở hữu tư nhân là việc sử dụng lâu dài sở hữu tư nhân , hợp tác với
các chế độ sở hữu khác để xây dựng CNXH .
Thứ hai là giải pháp cho vấn đề tổ chức quản lý . Nhà nước ta là nhà nước
XHCN ,quản lý nền kinh tế bằng pháp luật ,chiến lược quy hoạch,kế hoạch ,chính
sách ,sử dụng cơ chế thị trường áp dụng các hình thức kinh tế và quản lý kinh tế
của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,giải phóng sức sản xuất phát huy mặt
tích cực ,hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,bảo vệ lợi ích
của nhân dân lao động .
Thứ ba là giải pháp cho vấn đề phân phối .Định hướng XHCN trong quan hệ phân
phối đòi hỏi chúng ta phải trước hết bảo vệ quyền lợi chân chính của người lao
động . Các thành phần kinh tế phải đóng góp vào việc tạo cơng ăn việc làm cho
người lao động ,đặc biệt là thành phần kinh tế tư bản tư nhân với những doanh

17


nghiệp vừa và nhỏ có thể thu hút nhiều lao động.Chúng ta đang xây dựng nền kinh
tế thị trường XHCN nên việc áp dụng phân phối theo lao động là chủ yếu là hoàn
toàn đúng đắn .
3. Giải pháp cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ ,rộng mở đa phương hoá
,đa dạng hoá các quan hệ quốc tế . Việt Nam sẵn sàng là bạn ,là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế ,phấn đấu vì hồ bình ,độc lập và phát triển .
Mở rộng quan hệ nhiều mặt ,song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh
thổ ,các trung tâm chính trị ,kinh tế quốc tế lớn các tổ chức quốc tế và khu vực theo
các ngun tắc tơn trọng độc lập ,chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ ,không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau ,không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực;bình
đẳng và cùng có lợi ;giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hồ
bình;làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép ,áp đặt và cường quyền .
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực ,nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ,bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
XHCN ,bảo vệ lợi ích dân tộc ,bảo vệ mơi trường.
Chúng ta xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế có nghĩa là chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng XHCN,sự phát triển của kinh tế
Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế phải dẫn đến CNXH mà không đi chệch
hướng,phải là một nền kinh tế mà các nhân tố XHCN ngày càng lớn lên ,đóng vai
trị chi phối nền kinh tế quốc dân . Đồng thời phải xây dựng được một nền kinh tế
mà cơ cấu phải chuyển dịch dần theo hướng tiến bộ ,hiện đại ,có sự cân đối hợp lý
giữa công nghiệp ,nông nghiệp ,dịch vụ ,kết cấu hạ tầng kinh tế .Sau cùng đó phải
là một nền kinh tế giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô ,bảo đảm cho nền kinh tế
đủ sức đứng vững và ứng phó được với tất cả các tình huống phức tạp .
18



Để bảo hiểm cho nền kinh tế của đất nước ,chúng ta phải xây dựng được một cơ
cấu và cơ chế kinh tế thích hợp ,làm cho kinh tế nước ta trong khi hội nhập kinh tế
quốc tế vẫn không bị hồ tan ,khơng phụ thuộc hồn tồn vào thị trường thế giới
,vẫn tự tạo cho mình được một thế đứng vững về kinh tế tài chính ,giữ được một
khoảng cách đủ để chúng ta có thể xoay sở mỗi khi thị trường thế giới diễn biến
không lành mạnh và tác động tiêu cực đến nền kinh tế của nước ta .
4. Giải pháp cho một số lĩnh vực khác
Thứ nhất là về vấn đề xã hội ,cần phải thực hiện các chính sách xã hội hướng vào
phát triển và lành mạnh hố xã hội ,thực hiện cơng bằng trong phân phối ,tạo động
lực mạnh mẽ phát triển sản xuất ,tăng năng suất lao động xã hội ,thực hiện bình
đẳng trong các quan hệ xã hội ,khuyến khích nhân dân làm giàu một cách hợp pháp
. Trong đó chính sách giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản .
Thứ hai là về vấn đề giáo dục phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện ,đổi mới nội dung ,phương pháp dạy và học ,hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục .
Thứ ba là vấn đề khoa học- cơng nghệ :trình độ khoa học -cơng nghệ của chúng ta
cịn thấp vì vậy phải đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho nó
,phải đẩy mạnh hợp tác quốc trong nghiên cứu khoa học và công nghệ ,phải coi
trọng nghiên cứu cơ bản trong khoa học .
Thứ tư là phải củng cố và xây dựng nền văn hoá tiên tiến ,đậm đà bản sắc dân tộc
,tiếp tục giữ gìn và phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ,để giữ được nếp
sống lành mạnh ,văn minh trong mỗi gia đình Việt Nam .
Thứ năm là tăng cường quốc phòng và an ninh ,bảo vệ độc lập ,chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc .
Và cuối cùng, quan trọng là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ Đảng trong sạch,
vững mạnh, là đội ngũ nòng cốt đưa nước ta vững bước đi lên CNXH.

19



KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến, tác động trong tồn tiến trình lịch sử nhân loại. Sau chặng
đường hai mươi bảy năm thực hiện Đổi mới vừa qua, Đảng ta đã không ngừng tìm
tịi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành nên quan hệ sản xuất.
Thực tiễn cho thấy con đường chúng ta đang đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu
quan trọng, vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử nhạy cảm. Về con đường và cách thức
đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều vấn đề được làm sáng tỏ nhưng cũng có
nhiều vấn đề cần phải phát triển thêm. Có thể nói việc xây dựng và hồn thiện quan
hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là một vấn đề như thế. Mặt khác cần đi đôi với việc phát triển cơng nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước và đi tắt đón đầu, chú trọng các ngành nhiều thế mạnh trở
thành ngành côn nghiệp mũi nhọn, phù hợp với sự phát triển nền khoa học công
nghệ nước nhà.
Việc phát triển cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế
thị trường phải được thực hiện đồng thời, thúc đẩy hỗ trợ nhau cùng phát triển. Bởi
lẽ nếu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho sự
20


phát triển xã hội thì việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự điều
tiết của nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là để xây dựng hệ
thống quan hệ sản xuất phù hợp. Nước ta cần xác lập và hoàn thiện một quan hệ
sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng sản xuất hiện nay để đất nước phát triển
hơn nữa, mà trước hết là phát triển kinh tế một cách bền vững.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

/>C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 42, Nxb CTQG – ST, H. 2000.
C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002.
C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995.
Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp 28/1/1846.
C.Mác gửi An-nen-cốp ngày 28 tháng Chạp năm 1846.
V.I.Lênin, Toàn tập, T.2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993
VVI. Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, : Những “người bạn dân” là thế
nào,t.1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 6.

21



×