TRƯỜNG…
KHOA …
TIỂU LUẬN
Chủ đề: PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG NGUỒN LỰC
TRONG NƯỚC ĐĨNG VAI TRỊ QUYẾT ĐỊNH; NGUỒN LỰC
NGỒI NƯỚC ĐĨNG VAI TRỊ QUAN TRỌNG TRONG PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,
– 2021
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận quan điểm của Đảng về nguồn lực trong nước
1.
1
2
đóng vai trị quyết định; nguồn lực ngồi nước đóng vai trị
1.1.
quan trọng trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
Nguồn lực
1.2.
Cơ sở lý luận quan điểm
2.
3.
Nguồn lực trong nước trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
Nguồn lực ngoài nước trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
Quan điểm của Đảng ta về nguồn lực trong nước đóng vai
4.
trị quyết định; nguồn lực ngồi nước đóng vai trị quan
trọng trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
2
2
5
7
12
19
20
MỞ ĐẦU
Kết hợp nội lực với ngoại lực là một nội dung quan trọng trong hệ thống
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta, là quy luật, bài học kinh nghiệm lớn của
cách mạng Việt Nam. Việc kết hợp nội lực với ngoại lực trong phát triển kinh tế
được thực hiện trong hồn cảnh hiện nay của thế giới có nhiều biến động; trong
bối cảnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra như vũ bão xu thế tồn
cầu hố kinh tế đang diễn ra sơi động; hồ bình hợp tác đang là xu thế chung của
các quốc gia dân tộc. Tuy nhiên các thế lực hiếu chiến và phản động quốc tế,
đứng đầu là đế quốc Mỹ đang tận dụng ưu thế về kinh tế, khoa học và công
nghệ… để biến các nước thành sân sau, lệ thuộc ngày càng sâu vào các nước
phát triển.
Thực tiễn hơn ba mươi năm đổi mới đã chỉ ra: Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và
lực mới cho đất nước, được bạn bè quốc tế thừa nhận và khâm phục. Những thành
tự đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phịng, an ninh và đối ngoại. Một trong những nguyên nhân quan trọng cho những
thành tựu đạt được là Đảng ta đã có quan điểm đúng đắn trong việc kết hợp nguồn
lực trong nước và quốc tế để phát triển kinh tế. Do vậy, nghiên cứu vấn đề “Phân
tích quan điểm của Đảng nguồn lực trong nước đóng vai trị quyết định;
nguồn lực ngồi nước đóng vai trị quan trọng trong phát triển nền kinh tế
Việt Nam” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận quan điểm của Đảng về nguồn lực trong nước đóng
vai trị quyết định; nguồn lực ngồi nước đóng vai trị quan trọng trong
phát triển nền kinh tế Việt Nam
1.1. Nguồn lực
Cũng có các cách hiểu khác nhau; có cách hiểu đơn giản là nội lực bên
trong về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực
lao động; thậm chí là các đường lối chính trị, chính sách đúng đắn cũng có thể coi
là nguồn lực. Nhưng nội hàm như vậy thì lại thiếu đi một yếu tố là nguồn lực từ
bên ngồi khơng phải của quốc gia, song lại là sức mạnh không thể không thu hút,
như vốn đầu tư của nước ngoài, lao động nước ngoài, tri thức nhân loại, các tiến
bộ khoa học - kỹ thuật của các quốc gia tiên tiến, thậm chí là các chính sách của
các tổ chức, các định chế trên thế giới cũng có thể coi là nguồn lực bên ngoài.
Nhưng nếu chỉ bao hàm các nội lực bên trong và sức mạnh bên ngồi thì
vẫn cịn thiếu một thành tố quan trọng đó là tiềm năng, thế năng và sức mạnh sẽ
hình thành trong tương lai của một quốc gia, như các tài sản vơ hình và tài sản
hữu hình hình thành trong tương lai của quốc gia đó, bao gồm: Định hướng phát
triển, quy hoạch phát triển, những lợi thế đem lại nhờ các hiệp định thương mại,
khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh,... chuỗi giá trị, thương hiệu quốc gia,
địa phương, doanh nghiệp.
Do vậy, nguồn lực của một quốc gia phải là sức mạnh tổng hợp được tích
lũy từ điều kiện địa lý, lịch sử văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản
quốc gia, nguồn lực lao động, các tài sản hiện có khác và tiềm năng, thế năng
của những tài sản hình thành trong tương lai của một quốc gia, bao gồm cả nội
lực bên trong và ngoại lực từ bên ngoài mà quốc gia đó có thể huy động.
1.2. Cơ sở lý luận quan điểm
4
Đây là một một quan điểm, phương châm chiến lược đúng đắn sáng tạo
của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trở thành một vấn đề
mang tính quy luật của cách mạng nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc khơng tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”
[5, tr.290]. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Đảng ta luôn coi trọng
việc phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc. Chỉ có bằng sức mạnh của nội lực
thì chúng ta mới có nền tảng vững chắc để bồi bổ lực lượng vượt qua mọi hy
sinh, gian khổ mọi tình huống phức tạp, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi.
Hiện nay, xuất phát từ bối cảnh quốc tế và cục diện cách mạng trong nước
kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định phải khơi
dậy “phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” và
xác định rõ “nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” [2, tr.89].
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong
trong quá trình phát triển nền kinh tế, trước hết phải nêu cao ý chí tự lực tự
cường, phát huy cao nhất các yếu tố nội lực dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống
(lịch sử, văn hóa của dân tộc). Kinh nghiệm cho thấy, nếu không nêu cao tinh thần
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không phát huy đầy đủ nội lực thì khơng thể đứng
vững, đi lên một cấch lâu bền và cũng không thể hội nhập quốc tế một cách bình
đẳng. Ngược lại để hội nhập một cách chủ động, tránh “đánh mất” mình hay “hịa
tan” mình vào cuộc hội nhập đầy phức tạp và tiềm tàng những bất trắc thì khơng
thể khơng xây dựng và phát triển một nội lực mạnh mẽ đủ khả năng giữ vững độc
lập tự chủ, tự lực tự cường, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả ngoại lực để xây dựng
đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng nước ta, nhất là sau hơn 30 năm đổi mới đã chứng
minh rằng tư tưởng “độc lập, tự chủ, tự lực tự cường” là hoàn toàn đúng đắn.
5
Chỉ có trên cơ sở độc lập tự chủ chúng ta mới có sự sáng tạo trong đường lối
cách mạng, luôn luôn chủ động và năng động trong thực tiễn. Có nêu cao tinh
thần tự lực tự cường, phát huy nội lực thì trong khi cách mạng gặp khó khăn,
hồn cảnh quốc tế bất lợi, chúng ta mới có thể đứng vững và xử lý các tình
huống một cách tự tin, và do đó mới vượt qua được thử thách đưa cách mạng
tiến lên. Có biết phát huy cao độ các tiềm năng nội sinh, khơi dậy một cách sáng
tạo và năng động của các nguồn lực cả về vật chất và tinh thần, mới có điều kiện
và khả năng tiếp nhận, sử dụng sức mạnh thời đại có hiệu quả. Độc lập tự chủ tự
lực tự cường không chỉ là phát huy các tiềm năng vốn có của đất nước, mà cịn
tích cực chuẩn bị, bổ sung khơng ngừng các điều kiện, khả năng để tiếp nhận và
sử dụng có hiệu quả cao nhất sức mạnh của thời đại.
Tuy nhiên phát huy nguồn lực bên trong, là nền tảng và tiền đề giữ vai trị
quyết định, nhưng khơng phải là duy nhất cho phát triển kinh tế. Sức mạnh đó
khơng được kết hợp với sức mạnh của ngoại lực thì khơng những khơng tạo được
sức mạnh tổng hợp, mà chính bản thân sức mạnh tổng hợp, mà chính bản thân sức
mạnh của nội lực cũng không thể phát huy được hiệu quả tối đa của mình. Tuyệt
đối hóa sức mạnh của nội lực là tự “giam hãm” và tự “cơ lập” mình. Ngược lại,
sức mạnh của ngoại lực là các nguồn lực bên ngồi chỉ có thể phát huy được tác
dụng là sức mạnh thực sự khi được kết hợp với sức mạnh nội lực trong nước,
thông qua khả năng tiếp nhận và sử dụng của chúng ta. Nhận tức sâu sắc về mối
quan hệ giữa kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong trong quá trình phát triển nền
kinh tế, Đại hội lần thứ XII, tổng kết 30 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm “Phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp Việt Nam”.
Trong khi kết hợp giữa nội lực và ngoại lực trong trong quá trình phát triển
nền kinh tế, chúng ta luôn quán triệt quan điểm dựa trên nguyên tắc giữ vững
độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, khơng thể là sự “hợp tác bằng mọi
giá”. Ngày nay, chúng ta còn mở rộng hợp tác với các nước tư bản, nhưng đó là
6
sự hợp tác có đấu tranh. Khơng thể khơng đồng ý với quan điểm cho rằng “hợp
tác toàn diện” với các nước tư bản là liều thuốc cải tư hoàn sinh”, là “tư duy
chính trị mới”, là “sự thơng minh, tỉnh táo và thức thời nhất”… Hợp tác với các
nước tư bản là nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm
quản lý… nhằm khai thác những tiềm năng có thể để xây dựng nước ta thành
nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chế độ xã
hội chủ nghĩa, chứ nhất quyết khơng phải để “hịa nhập với thế giới tự do” tư
bản chủ nghĩa. Trong hợp tác phải đấu tranh chống những thủ đoạn lợi dụng hợp
tác để chống phá ta, nhưng đấu tranh là để hợp tác tốt hơn tận dụng nguồn lực
bên ngồi tốt hơn.
Vì vậy đi đôi với giữ vững tự chủ tự lực, tự cường (nội lực) chúng ta cũng
cần phải chủ động hội nhập quốc tế (ngoại lực), tranh thủ sự hợp tác, liên kết với
các nước để khai thác nguồn vốn đầu tư, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý, điều hành đất nước cả tầm vĩ mô và vi mơ. Đó chính là là
phương hướng xây dựng, sử dụng sức mạnh tổng hợp làm cho các yếu tố thời
đại, quốc tế chuyển hóa và kết hợp với nội lực giúp chúng ta vượt qua những
khó khăn thử thách để đứng vững đổi mới và phát triển kinh tế đất nước.
2. Nguồn lực trong nước trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
Để làm rõ quan điểm trên của Đảng chúng ta cần nghiên cứu làm rõ thực
trạng nguồn lực trong nước trong phát triển nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.
Nguồn lực trong nước bao gồm: Nhân lực, vật lực và tài lực. Những
nguồn lực trên trong thời gian qua đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đổi
mới, phát triển và hội nhập của đất nước. Trong đó, nguồn nhân lực dồi dào; con
người Việt Nam có tinh thần yêu nước, cần cù, sáng tạo; trình độ dân trí và chất
lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng lên đã đáp ứng cơ bản nhu cầu của
thị trường lao động. Lực lượng lao động có sự chuyển dịch nhanh từ khu vực
nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên phong phú, đa dạng, có nhiều tiềm năng để khai thác, sử dụng; cơ sở vật
chất và hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc
7
phòng, an ninh nâng cao đời sống nhân dân. Việc quản lý, khai thác và sử dụng
có hiệu quả nguồn lực tài chính, tiền tệ đã góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ, tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì tăng
trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, việc quản lý, khai thác, sử dụng, phát huy các nguồn lực hiện
còn hạn chế, bất cập; việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực chưa hợp lý, hiệu
quả chưa cao, nhiều trường hợp chưa theo cơ chế thị trường, gây lãng phí và làm
cạn kiệt nguồn lực của đất nước. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung cịn
thấp, cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo còn bất hợp lý, thiếu hụt nhân lực là
kỹ sư thực hành, cơng nhân kỹ thuật bậc cao, trình độ ngoại ngữ hạn chế, thiếu
các kỹ năng mềm. Kết nối cung - cầu trên thị trường lao động còn nhiều bất cập.
Tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc khơng phù hợp giữa cơng việc
và trình độ đào tạo còn khá phổ biến.
Chất lượng việc làm thấp, việc làm phi chính thức chiếm tỉ trọng cao.
Năng suất lao động thấp so với các nước trong khu vực. Việc quản lý, khai thác
và sử dụng tài nguyên thiên nhiên chưa hiệu quả. Diện tích đất sử dụng kém
hiệu quả hoặc chưa sử dụng còn lớn; nhiều địa phương bng lỏng quản lý dẫn
đến tình trạng đất bị hoang hố, bị lấn chiếm, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng,
gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và gây thất thu
ngân sách nhà nước. Năng lực khai thác tài ngun khống sản cịn nhiều hạn
chế, công nghệ chậm được đổi mới. Việc phối hợp giữa các chủ thể quản lý tài
nguyên khoáng sản chưa tốt, còn hiện tượng cát cứ và thiếu đồng bộ, liên thông
giữa các vùng, miền, địa phương, làm giảm hiệu quả khai thác tài nguyên. Tình
trạng khai thác tài nguyên khống sản, nguồn nước ngầm q mức gây lãng phí
và huỷ hoại mơi trường cịn xảy ra ở nhiều nơi. Thị trường tài ngun khống
sản chậm được hình thành, phát triển thiếu đồng bộ. Quan điểm đẩy mạnh kinh
tế hoá ngành tài nguyên, môi trường chậm được triển khai, thể chế hoá và tổ
chức thực hiện.
Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn lạc hậu, thiếu đồng
bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu tư vào
8
kết cấu hạ tầng còn dựa nhiều vào ngân sách nhà nước; hoạt động xã hội hoá,
thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng còn nhiều
hạn chế. Khung khổ pháp lý còn thiếu, chưa đồng bộ; việc quản lý, khai thác
và sử dụng cơ sở hạ tầng còn bất cập. Hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính,
tiền tệ chưa cao: Cân đối chi chưa gắn kết chặt chẽ với khả năng thu từ nền
kinh tế; việc phân bổ các nguồn lực cịn dàn trải, lãng phí; ứng chi và nợ đọng
xây dựng cơ bản còn lớn; bội chi ngân sách ở mức cao, nguồn lực dự trữ quốc
gia còn hạn chế. Quản lý, sử dụng tài sản cơng cịn kém hiệu quả, lãng phí, thất
thốt. Nợ xấu tuy đã được xử lý một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro
đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Việc dự báo, cân
đối và quản lý quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội chưa tốt.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là do chưa phát huy được
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong cơng tác quản lý, khai thác,
sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế. Việc ban hành và tổ chức thực hiện một
số cơ chế, chính sách, pháp luật cịn bất cập, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp diễn
biến thực tiễn và yêu cầu phát triển. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành
Trung ương và địa phương nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả.
Việc kiểm tra, giám sát, quản lý các nguồn lực chưa được quan tâm, chú trọng
đúng mức, thiếu tính chun nghiệp. Cơng tác kiểm kê, đánh giá thực chất tình
hình các nguồn lực của nền kinh tế chưa được tổ chức thường xuyên, định
kỳ… [1, tr.67].
Tóm lại, từ thực trạng nguồn lực trong nước trong phát triển nền kinh tế
Việt Nam thời gian qua cho thấy, Đảng ta cần có quan điểm đúng đắn để khắc
phục những hạn chế, đồng thời phát huy cao nhất nguồn lực trong nước cho
phát triển kinh tế. Vấn đề là cần nhận thức rõ vị trí, vai trị của nguồn lực trong
nước, thấy được mối quan hệ giữa nguồn lực này với nguồn lực ngoài nước.
Trong những thời điểm nhất định cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa
nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước.
3. Nguồn lực ngoài nước trong phát triển nền kinh tế Việt Nam
9
Nguồn lực bên ngồi đóng vai trị cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của tất cả các quốc gia trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Khơng nằm ngồi quy luật đó, Việt Nam - một nền kinh tế đang phát triển rất
cần đến nguồn lực bên ngoài để tạo ra “cú huých” ban đầu. Do đó, thu hút nguồn
lực bên ngồi là vấn đề trọng yếu luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm ở mức
cao nhất.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 tiếp tục thể chế hóa và khẳng định việc thu
hút nguồn lực ngoài nước trở thành tất yếu, cần được xem xét ở mức độ và phạm
vi lớn hơn trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, chủ động và
tích cực. Trong vịng hơn 30 năm qua, Việt Nam đã thu hút các nguồn lực ngoài
nước thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau và có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Trong hơn 30 năm qua, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt
khoảng 250 tỷ USD vốn đăng ký và đã thực hiện khoảng 100 tỷ USD của hơn
16.000 dự án FDI. Vốn FDI có tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội (khoảng 20%) và đóng góp gần 70% kim ngạch xuất khẩu, tạo việc
làm cũng như cải thiện thu nhập cho người lao động. Nguồn vốn FDI ngày càng
có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam qua chuyển giao công nghệ,
kinh nghiệm quản trị kinh doanh hiện đại và đào tạo nguồn nhân lực. Chẳng hạn,
nguồn nhân lực sản xuất các loại linh kiện điện tử cao cấp của Việt Nam được
đào tạo thông qua các dự án của các tập đoàn như Intel (Hoa Kỳ), Samsung
(Hàn Quốc)… [3, tr.90].
Tuy nhiên, nguồn vốn FDI của các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam đang bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là trong chuyển giao cơng nghệ. Một
số dự án cịn gây ơ nhiễm mơi trường; tình trạng các doanh nghiệp nước ngồi
chuyển giá để trốn thuế cịn phổ biến. Trong khi đó, cơ cấu dòng vốn FDI hướng
nhiều vào bất động sản, gây nên những cơn sốt “ảo”, tình trạng đầu cơ trên thị
trường... Điều này đặt ra yêu cầu cần lựa chọn dòng vốn FDI có chất lượng cao.
10
ODA được coi là nguồn vốn quan trọng của Việt Nam. Trong vòng hơn 30
năm trở lại đây, tổng số vốn ODA giải ngân ước đạt 36 tỷ USD trong tổng số
trên 76 tỷ USD vốn ODA ký kết. Nguồn ODA có tác động lớn đến các dự án có
thời hạn thu hồi vốn dài, đặc biệt hiện đại hóa hạ tầng cơ sở về đường giao
thông, sân bay, năng lượng… Nó góp phần giải quyết các điểm nghẽn của nền
kinh tế về hoàn thiện thể chế và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Đồng thời, nguồn
vốn ODA cịn thể hiện sự ủng hộ về chính trị của cộng đồng quốc tế đối với Việt
Nam. Nguồn ODA đòi hỏi vốn đối ứng trong nước, năng lực quản lý tốt và cơ
chế vận hành minh bạch. Tuy nhiên, nguy cơ tiềm ẩn các khoản nợ ODA phải trả
trong dài hạn, đặc biệt là khoản nợ dễ có nguy cơ tăng lên do biến động của tỷ
giá. Điều này có thể làm nợ công của Việt Nam tăng lên [4, tr.34].
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) đặc biệt thơng qua thị trường
chứng khốn Việt Nam và việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần
của doanh nghiệp, ngân hàng trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được phép sở
hữu với tỷ lệ ngày càng cao trong các doanh nghiệp Việt Nam. Số liệu thống kê
sơ bộ cho thấy, nguồn đầu tư của nhà đầu tư nước ngồi trên thị trường chứng
khốn Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2-3% tống vốn đầu tư của khối cá nhân và tổ
chức trong nước. So với đầu tư trực tiếp, đầu tư vào thị trường chứng khốn có
tính rủi ro cao khi nhà đầu tư nước ngồi có thể thối lui nhanh, nếu có biến động
bất lợi. Việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu một tỷ lệ nhất định các
doanh nghiệp, đặc biệt các ngân hàng tạo điều kiện để thu hút mạnh hơn nguồn
lực bên ngoài. Tuy nhiên, việc cho phép này tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước
ngồi từng bước thâu tóm, thơn tính các cơ sở kinh tế quan trọng trong nước.
Nguồn lực từ xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nguồn lực này được
đánh giá thông qua kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên. Năm 2019, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt khoảng 300 tỷ USD - mức cao nhất từ
khi mở cửa nền kinh tế. Nguồn lực này thể hiện ở việc thu về thêm nhiều nguồn
ngoại tệ cho đất nước, tiếp cận đến nhiều thị trường mới và khai thác theo chiều
11
sâu các thị trường hiện có. Danh mục mặt hàng xuất khẩu được mở rộng và cơ
cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành có hàm lượng
chế biến, chế tạo và giảm bớt nhóm hàng khống sản hoặc hàng sơ chế, nguyên
nhiên liệu, góp phần bảo tồn các nguồn lực về khống sản, nơng sản.
Nguồn kiều hối và nguồn nhân lực chất lượng cao từ những người Việt
Nam định cư ở nước ngoài. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hàng
năm Việt Nam tiếp nhận lượng kiều hối trung bình khoảng 9-10 tỷ USD. Chính
sách khuyến khích Việt kiều định cư ở nước ngoài gửi tiền hoặc đầu tư nhiều
hơn về nước đã và đang phát huy tác dụng, nhất là quan điểm đặt Việt kiều trở
thành một phần không thể thiếu của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà khoa học,
chuyên gia chất lượng cao của Việt Nam có uy tín ở các trường đại học, viện
nghiên cứu, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp… ở nước ngồi có đóng góp quan
trọng trong việc hỗ trợ, chuyển giao kiến thức đối với đội ngũ các nhà khoa học
trong nước. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn lực này còn hạn chế so với tiềm
năng hiện có.
Nguồn lực thu được từ xuất khẩu lao động. Mỗi năm Việt Nam xuất khẩu
trung bình được khoảng 80.000 - 90.000 lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ gửi về
nước ít nhất từ 180-200 triệu USD/năm. Người lao động xuất khẩu cịn là chủ
thể cung cấp thơng tin quan trọng về thị trường lao động xuất khẩu, hiểu biết sâu
sắc và tồn diện hơn về lối sống, văn hóa tại nơi xuất khẩu, tăng cường hiểu biết
xã hội mà điều đó nếu chỉ làm việc trong nước cần chi phí đào tạo và phổ biến
kiến thức. Xuất khẩu lao động gặp phải những khó khăn như tính khơng ổn định
của thị trường và cơng tác quản lý.
Bên cạnh đó, cịn có nguồn lực từ nhập khẩu lao động trình độ cao như
các chuyên gia tư vấn chính sách, chiến lược doanh nghiệp, chuyên gia kỹ thuật,
các nhà khoa học đầu ngành và các doanh nhân thành đạt. Trên thực tế, nhiều
lao động giản đơn nhập cư vào Việt Nam gây ảnh hưởng đến việc làm cũng như
công tác quản lý.
12
Nguồn lực từ đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam. Tính
đến hết năm 2019, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam đã “phủ
sóng” đến 25 quốc gia với tổng số vốn đăng ký 12,87 tỷ USD và vốn thực hiện
3,8 tỷ USD, lượng tiền chuyển về nước đạt khoảng 430 triệu USD và có xu
hướng tăng nhanh trong giai đoạn tới. Thơng qua các doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài, nhiều nguồn lực quan trọng về thị trường, nguyên liệu, ưu đãi chính
sách của chính phủ sở tại được khái thác và giảm thiểu được rủi ro. Đầu tư ra
nước ngồi góp phần hình thành các tập đồn đa quốc gia của Việt Nam. Đây là
nguồn lực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế Việt Nam.
Nguồn hỗ trợ của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ như: Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO), Quỹ Nhi đồng
Liên Hợp quốc (UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)…; Các cơ quan phát
triển quốc tế của các chính phủ hoặc tổ chức phi chính phủ về các dự án bảo vệ
môi trường và các vấn đề xã hội. Nhiều loại hoạt động từ thiện, học bổng học
tập, nghiên cứu, tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế của các tổ chức,
doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ cấp cho học sinh, sinh viên, nhà nghiên
cứu Việt Nam thực hiện các học tập và nghiên cứu tại Việt Nam và ở nước
ngoài... [6, tr.76].
Các khoản vay thương mại từ nước ngồi do Chính phủ hoặc các doanh
nghiệp tự vay theo quy định của đối tác cho vay nước ngồi theo lãi suất thị
trường như thơng qua phát hành trái phiếu trên thị trường trái phiếu quốc tế vay
thông qua các quan hệ hay giao dịch kinh doanh và thanh toán theo hợp đồng
vay thương mại. Các khoản vay này đóng vai trị cung cấp nguồn tài chính để
doanh nghiệp hoặc tập đồn khắc phục được tình trạng thiếu vốn trong thời gian
ngắn và có tác dụng tạo tính liên tục của các hoạt động kinh doanh của DN…
Tuy nhiên, những ràng buộc chặt chẽ của đối tác cho vay cũng hạn chế đáng kể
việc tiếp cận nguồn lực này.
13
Các nguồn lực này có thể là thơng tin do quan hệ cá nhân tiếp cận được về
thị trường, chính sách chính phủ, chiến lược doanh nghiệp, tập đồn, văn hóa,
lối sống, thói quen kinh doanh tại nước ngồi… Nguồn lực này có thể là những
giao dịch dân sự như vay mượn cá nhân, khai thác các quan hệ cá nhân, uy tín
của tổ chức hoặc tập thể hoặc hỗ trợ nhau trong việc nâng cao kiến thức về
ngành nghề, ngoại ngữ, các loại kỹ năng cần thiết để giải quyết những cơng việc
mang tính cá nhân.
Tóm lại, có thể nói, mỗi loại nguồn lực ngồi nước có đặc thù riêng, cho
nên giải pháp khai thác những nguồn lực này cũng khác nhau. Việt Nam có quan
điểm khá tồn diện và tổng thể về thu hút nguồn lực trên nguyên tắc Việt Nam
sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có giải pháp riêng biệt, có tính cạnh
tranh cao như nhiều nước áp dụng chính sách bán quốc tịch, cho thuê đất vĩnh
viễn, cho người nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Khẳng định vai trò ngày
càng quan trọng của nguồn lực ngoài nước trong phát triển nền kinh tế đặt ra cho
Đảng ta cần có quan điểm, chủ trương để phát triển nguồn lực này; giải quyết tốt
mối quan hệ giữa nguồn lực ngoài nước với nguồn lực trong nước.
4. Quan điểm của Đảng ta về nguồn lực trong nước đóng vai trị quyết
định; nguồn lực ngồi nước đóng vai trị quan trọng trong phát triển nền
kinh tế Việt Nam
Đảng ta khẳng định nguồn lực trong nước đóng vai trị quyết định - Đó là
nền kinh tế độc lập tự chủ đáp ứng nhu cầu xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, có khả
năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Để xây dựng một nền kinh tế như vậy,
trước hết chúng ta phải phát huy nội lực của chính mình trên tinh thần “đem sức
ta để giải phóng cho ta”. Chúng ta phải bắt đầu từ xây dựng nền kinh tế, vì đó là
đầu mối của mọi vấn đề.
Nguồn lực trong nước đóng vai trị quyết định, trước hết là độc lập tự chủ
về đường lối phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng thời phải
14
xây dựng được tiềm lực kinh tế, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, có
năng lực nội sinh về khoa học công nghệ… đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
trên chính khả năng của mình và phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, an tồn về tài
chính, an ninh lương thực, năng lượng… đủ sức ứng phó với các tình huống xấu
xảy ra.
Việc phát huy nội lực gắn với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế càng trở
nên quan trọng và bức thiết trong công cuộc đổi mới đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế. Xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ mới Đảng ta luôn xác định phải tiếp
tục thực hiện đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tức là
giải quyết đúng đắn mối quan hệ nội lực và ngoại lực trong xây dựng nền kinh tế
ở nước ta. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, hai nguồn lực đó gắn
kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Phát huy nội lực
gắn chặt với nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trở thành nhu cầu tất yếu có tính
quy luật. Chỉ có phát huy nội lực, phát huy sức mạnh tiềm năng của đất nước
mới nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Ngược lại nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế ngày càng cao, mới khai thác phát huy nội lực ngày càng lớn. Sự kết hợp
đó khơng đơn thuần chỉ là sự cộng lại mà đó chính là sự thẩm thấu, hịa quyện
chặt chẽ không tách rời tạo nên tổng lực sức mạnh, trong đó phát huy nội lực có
ý nghĩa quyết định.
Theo tinh thần đó phải gắn chặt xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội
nhập kinh tế có hiệu quả và ngược lại hội nhập kinh tế có hiệu quả tạo điều
kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Mở cửa hội nhập kinh tế
với mặt trái của nó, khơng ít “rác rưởi” cuốn theo như văn hóa xấu độc, bệnh
hoạn xã hội và có cả gián điệp, tình báo, sự phá hoại của các thế lực thù địch.
Nhưng trong hoàn cảnh nhiều nước đầu tư vào nước ta và ta có quan hệ với
nhiều nước, việc cài thế đan xen quyền lợi giữa các nước, ta có thể thực hiện
được. Trong trường hợp đó một quốc gia, một thế lực nào đó có mưu đồ gây
chiến xâm lược, phá hoại cuộc sống bình yên của Tổ quốc ta chắc chắn sẽ bị
nhiều nước phản đối, trước hết là vì quyền lợi kinh tế của họ gắn với hịa bình,
15
ổn định và cũng vì lương tri của nhân loại. Với tầm quan trọng đó, Đảng ta xác
định: “nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế”.
Hiện nay trên thế giới và khu vực đang diễn ra quá trình giao lưu, hội
nhập rộng rãi. Để tận dụng và phát huy tối đa mọi nguồn lực từ bên ngồi địi
hỏi chúng ta cũng phải tham gia vào q trình đó. Tuy nhiên việc hội nhập ở đây
khơng phải là sự hịa nhập bị động với trào lưu phát triển mới của thời đại, càng
không phải là sự tham gia hội nhập bằng mọi giá để tự đánh mất mình, mà phải
là sự tham gia có lựa chọn, tính tốn chặt chẽ đến lợi ích quốc gia vầ chủ quyền
dân tộc. Đảng ta đã khẳng định: “chủ động hội nhập quốc tế và khu vực”. Điều
đó đã nói nên rằng chỉ có chủ động tham gia vào quá trình hội nhập chúng ta
mới có thể tận dụng và phát huy tối đa các nguồn lực từ bên trong như: vốn,
khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý… kết hợp với các nguồn lực bên
trong để xây dựng và phát triển đất nước. Chỉ có trên cơ sở của sự hội nhập
chúng ta mới có thể tạo được sự đan cài về lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội giữa
nước ta với các nước, với cấc tổ chức quốc tế và khu vực. Để khi có những tình
huống phức tạp xảy ra thì một mặt chúng ta sẽ hạn chế đến mức thấp nhất nguy
cơ xảy ra chiến tranh và mặt khác nếu chiến tranh có xẩy ra thì chắc chắn chúng
ta sẽ nhận được sự ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần từ các nước. Như
vậy, việc chủ động tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế khơng chỉ có ý nghĩa
đơn thuần về mặt kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt quốc phòng
an ninh, phục vụ tốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đất nước ta đang thực hiện một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chúng ta không phủ nhận những thành quả mà nền kinh tế thị
trường đem lại. Nhưng, chúng ta cũng cảm thấy rất lo ngại về những tác động
tiêu cực của nó trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, nhất là đối với
lĩnh vực quốc phịng - an ninh. Do đó, để tận dụng và phát huy tối đa các yếu tố
tạo thành sức mạnh nội lực trong nhiệm vụ phát triển kinh tế hiện nay, Đảng ta
đã có những cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích mọi thành phần kinh tế,
mọi giai cấp tầng lớp trong xã hội vừa tích cực, chủ động trong phát triển kinh
tế. Đảng chủ trương giải quyết hài hịa các lợi ích kinh tế, chính trị - xã hội của
16
tất cả các giai cấp tầng lớp, các thành phần kinh tế để tìm ra những điểm tương
đồng, đó là lợi ích quốc gia, chủ quyền dân tộc, sự mất còn của Tổ quốc.
Phát huy vai trò quyết định của nguồn lực trong nước trong phát triển
kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính,
hướng tới việc xây dựng bộ máy chính phủ tinh giản, gọn nhẹ hơn, hoạt động
nhanh nhạy, hiệu lực, hiệu quả, ngày càng phục vụ tốt hơn các nhu cầu và lợi ích
hợp pháp của người dân, cũng như xã hội… Trong đó, cần thiết phải thực hiện
quyết liệt, đồng bộ, sáng tạo, có hiệu quả, tập trung vào sáu nội dung cơ bản, đó
là: cải cách thể chế hành chính nhà nước; cải cách thủ tục hành chính; cải cách
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, cơng chức; cải cách tài chính cơng; và hiện đại hóa hành chính.
Xây dựng và hồn thiện chính phủ điện tử, chính quyền số tại các địa
phương trong cả nước. Việc xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền số hướng
tới chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số, góp phần xây dựng nhà nước
chuyên nghiệp, hiệu quả nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, qua đó tác động
tích cực đến việc khai thơng các nguồn lực vốn còn chưa được “đánh thức”,
hoặc còn gặp những trở lực, vướng mắc từ chính nền hành chính còn cồng kềnh,
lạc hậu, chưa cải cách quyết liệt, thật sự vì người dân, doanh nghiệp, vì sự phát
triển của đất nước. Đồng thời, từng bước hoàn thiện, vận hành hiệu quả các
trung tâm hành chính cơng trên cả nước nhằm đáp ứng địi hỏi ngày càng cao
của cơng dân và xã hội đối với Nhà nước; tiếp tục triển khai có hiệu quả cơ chế
một cửa, một cửa liên thơng tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục
hành chính…
Cùng với đó, cần chú trọng tuyên truyền kịp thời, rộng rãi đồng thời quán
triệt, thực hiện nghiêm túc, sáng tạo, đạt hiệu quả cao nội dung Nghị quyết số
39-NQ/TW, ngày 15-1-2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý,
17
khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Bám chắc, sát,
thực hiện tốt các mục tiêu cụ thể, về nguồn nhân lực, nguồn vật lực, nguồn tài
lực theo từng giai đoạn xác định cụ thể để có quan điểm, chính sách, giải pháp
phù hợp, hiệu quả trong việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao thơng qua các hình thức khác nhau, cả ở trong và ngồi nước. Bên
cạnh đó, triển khai có hiệu quả các chính sách liên quan vấn đề thu hút, sử dụng,
trọng dụng, đãi ngộ cán bộ có trình độ cao, để họ tồn tâm, tồn ý đóng góp cho
sự phát triển đất nước…
Cần chủ động khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực
xã hội đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau, nhất là xây dựng, phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Gợi ý giải pháp cho vấn đề này là cần ngày càng
tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, ban hành những cơ chế, chính sách tạo
điều kiện hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất,
nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đầu tư nguồn lực xã hội góp
phần thúc đẩy tăng trưởng, đạt những kết quả tích cực, khác biệt… Bên cạnh đó
cần rà sốt, chỉnh sửa, hồn thiện các cơ chế, chính sách về nhiều lĩnh vực khác
nhau, nhất là thuế, tín dụng, đất đai… nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các thành
phần kinh tế hoạt động hiệu quả, tránh tình trạng gây khó dễ, hạch sách, phiền hà,
tiêu cực trong các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính cụ thể…
Quan tâm hơn nữa, đối xử bình đẳng với kinh tế tư nhân. Ngày 3-6-2019,
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/T.Ư về
“Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Rõ ràng, kinh tế tư nhân đã được đối xử
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, ngày càng trở thành động lực của
nền kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp đổi mới, phát triển của kinh
tế - xã hội đất nước. Và thực tế đã chứng minh, khi được đối xử bình đẳng, được
coi trọng, được “cởi trói”, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển thần tốc, khai
18
thông nguồn lực từ khu vực tư nhân, tạo những đột phá trong phát triển đúng
theo đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước…
Khai thơng nguồn lực đất đai cho phát triển. Sau nhiều năm tiến hành triển
khai, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ những bất cập, không đồng bộ với các luật
khác, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện đấu thầu dự án có sử dụng đất theo
pháp luật về đấu thầu và đấu giá quyền sử dụng đất… Đơn cử như trong việc thực
hiện chính sách tích tụ, tập trung ruộng đất, “dồn điền, đổi thửa” cũng cịn những
khó khăn, vướng mắc, chưa thể đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa nơng nghiệp,
liên kết chuỗi giá trị sản xuất trong nơng nghiệp, chưa góp phần mạnh mẽ để hình
thành nền nơng nghiệp hàng hóa hiện đại, giá trị cao…
Phát huy vai trị quan trọng của nguồn lực ngồi nước trong phát triển
kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
Nguồn lực ngoài nước là cần thiết và to lớn nhưng cần được thu hút hiệu
quả nhằm tạo khả năng chuyển hóa triệt để thành nguồn lực bên trong. Việc thu
hút kịp thời và hiệu quả nguồn lực ngoài nước cũng đồng nghĩa với việc tận
dụng cơ hội phát triển. Trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tự do
hóa thương mại, mức độ tiếp cận các nguồn lực ngày càng thuận lợi, cạnh tranh
thu hút nguồn lực găy gắt giữa các quốc gia. Việt Nam có chủ trương chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế cho nên cần áp dụng phương châm này trong thu hút
Nguồn lực ngoài nước.
Bên cạnh đó, mục tiêu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2045, đòi hỏi Việt Nam cần tăng cường thu
hút nguồn lực ngồi nước. Vì thế, cần có các giải pháp cả từ phía Chính phủ,
doanh nghiệp, tổ chức thậm chí đối với các cá nhân với tầm nhìn xa, trơng rộng
song phù hợp với điều kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Cần nâng cao nhận thức về bản chất của từng loại nguồn lực và có quan
điểm tổng thể, tồn diện trong thu hút nguồn lực cũng như quan điểm cụ thể và
đặc thù của từng loại. Quan điểm thu hút nguồn lực đòi hỏi loại bỏ các loại định
19
kiến hoặc sự phân biệt đối xử trong thu hút nguồn nhân lực. Do đó, về phía Nhà
nước, cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn lực ngoài nước mang tính dài hạn
và tồn diện trên ngun tắc khuyến khích thu hút đến mức cao nhất nguồn lực
chất lượng cao từ bên ngoài và bảo hộ thỏa đáng nguồn lực thu hút.
Đồng thời, cần xây dựng cơ chế sàng lọc từng loại nguồn lực và có sự lựa
chọn thậm chí khắt khe các nguồn lực có khả năng gây ra tác động tiêu cực
nhiều hơn tác động tích cực. Các tiêu chuẩn để đánh giá, sàng lọc nguồn lực
ngoài nước trong từng lĩnh vực, ngành, vùng cần được xây dựng và công bố
công khai để các cấp, ngành, địa phương áp dụng phù hợp. Hơn nữa, cần xây
dựng quy hoạch thu hút nguồn lực cụ thể, chi tiết, khoa học trên cơ sở dự báo
nhu cầu thu hút nguồn lực này hiệu quả.
Việc học hỏi kinh nghiệm các quốc gia trong thu hút nguồn lực ngoài
nước cần được coi trọng đặc biệt cần nghiên cứu và đánh giá cả những bài học
thành công và chưa thành công của các quốc gia để xây dựng hệ thống giải pháp
có hiệu quả cao nhất.
Rà sốt, đánh giá các chủ trương, chính sách, và biện pháp thu hút nguồn
lực ngoài nước trong thời gian qua để đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế
và ngun nhân nhằm hồn thiện cao nhất chính sách, biện pháp, quan niệm
cũng như bộ máy thực hiện. Sẵn sàng nói khơng với các nguồn lực khơng bảo
đảm chất lượng, thậm chí gây tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
Cần phát huy vai trò của các cơ quan ngoại giao, các doanh nghiệp, tổ
chức hoạt động, cá nhân đang định cư, học tập ở nước ngoài và các cơ quan
chính phủ, cá nhân nước ngồi để khảo sát, tìm hiểu, phân tích, phát hiện và tìm
giải pháp khai thác các tiềm năng về nguồn lực ngoài nước phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân cần có sự đồng thuận về nhận
thức với Chính phủ và các địa phương để vừa tranh thủ thu hút nguồn lực ngoài
nước ở mức cao nhất vừa có giải pháp để giảm thiểu các nguồn lực ngoài nước
tiềm ẩn hoặc bộc lộ tác động tiêu cực để vừa khống chế, giảm thiểu, thậm chí
loại bỏ chúng mà chính sách, bộ máy chưa sàng lọc và lựa chọn hiệu quả. Bên
20
cạnh đó, cần coi trọng việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thu hút để tránh
lãng phí hoặc bị mất đi do cạnh tranh thu hút từ các quốc gia khác.
21
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người vẫn luôn
là kim chỉ nam cho ý chí và hành động của dân tộc. Trong sự nghiệp xây dựng
kinh tế và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận
rõ vai trò, tầm quan trọng của việc kết hợp nguồn lực trong nước và nguồn lực
ngoài nước để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho phát triển kinh tế.
Thực tiễn quá trình vận động và biến đổi của cách mạng nước ta cho thấy:
ở giai đoạn cách mạng nào, thời kỳ nào việc nhận thức đúng vị trí, vai trị của
nguồn lực trong nước và nguồn lực ngồi nước thì nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, ngược lại thời kỳ, giai đoạn cách mạng nào, không nhận thức đúng vị trí, vai
trị của nguồn lực trong nước và nguồn lực ngồi nước thì nền kinh tế gặp trở
ngại và khó phát triển. Vì vậy, việc nhận thức, qn triệt đúng quan điểm của
Đảng nguồn lực trong nước đóng vai trị quyết định; nguồn lực ngồi nước
đóng vai trị quan trọng trong phát triển nền kinh tế Việt Nam trong tình hình
hiện nay có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong bối cảnh diễn biến phức tạp
của thế giới đương đại và đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Vân Anh (2017), Tạo dựng nguồn lực trong nước - Một số kinh
nghiệm của các nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Trần Thọ Đạt (2015), Các nguồn lực tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
4. Đào Minh Hồng, (2018), Nhận dạng các nguồn lực cho phát triển kinh
tế trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, 2011.
6. Trần Thị Thúy (2019), Kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh bên
ngồi cho phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23