Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA SINH HOẠT TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.24 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
_________________________

NHÓM 6

ĐỀ TÀI
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA SINH HOẠT TƠN GIÁO TÍN NGƯỠNG
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

TP.HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2020

1


Lời cảm ơn

Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Quản Trị
Kinh Doanh của Trường Đại học Cơng nghiệp thực phẩm thành phố Hồ
Chí Minh đã đưa môn học Nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào chương trình
giảng dạy. Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên
bộ môn - Cô Nguyễn Thu Huyền Trang đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến
thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong
thời gian tham gia lớp Nguyên lý của chủ nghĩa Mác của cô, chúng em đã
có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả,
nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để
chúng em có thể vững bước sau này.
Bộ mơn Ngun lý của chủ nghĩa Mác là môn học thú vị, vô cùng bổ ích
và có tính thực tế cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu
cầu thực tiễn của sinh viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế


và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù chúng em đã cố
gắng hết sức nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những
thiếu sót và nhiều chỗ cịn chưa chính xác, kính mong cơ xem xét và góp ý
để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
“Chúng em xin chân thành cảm ơn!”

2


MỤC LỤC
Trang
tham khảo
TS Bùi Thanh Hà (08/01/2019) phó trưởng ban tơn giáo chính phủ PGS, TS. Nguyễn Hồng Dương (2015), Nguồn lực tơn giáo, tín ngưỡng -nhận
thức luận, Tạp chí Công tác tôn giáo, Số 10(110), tr. 9-10
/> /> /> /> /> /> /> /> />
MỞ ĐẦU

Mối quan hệ giữa tôn giáo và kinh tế là một nội dung cơ bản trong quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tơn giáo. Đó là: tơn giáo có nguồn gốc từ
kinh tế, do đời sống sản xuất vật chất sinh ra, sự tồn tại hay biến đổi của tôn
giáo do đời sống kinh tế - xã hội quyết định. Tôn giáo là một cơ chế che giấu
3


các mối quan hệ của đời sống xã hội hiện thực, khi chế độ sản xuất thay đổi,
khoa học phát triển, đời sống vật chất, trình độ nhận thức của con người nâng
cao sẽ làm cho tôn giáo suy giảm và cuối cùng sẽ mất đi, nhưng đó là một quá
trình lâu dài và phức tạp. Mặt khác, với tư cách là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, tôn giáo cũng có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, trong đó
có đời sống kinh tế.

Cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 30 năm
qua đã làm chuyển biến sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có đời
sống tơn giáo, tín ngưỡng. Những biến đổi của đời sống tơn giáo ở Việt Nam
trong bối cảnh tồn cầu hóa và cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư (CMCN
4.0) trên các phương diện: biến đổi về diện mạo và cấu trúc tôn giáo; biến đổi
niềm tin tôn giáo và hệ lụy của nó; biến đổi về phương thức truyền giáo và sống
đạo, góp phần nâng cao nhận thức về đời sống tôn giáo ở nước ta hiện nay.
Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề đó, chúng em quyết định
chọn đề tài “Sự biến đổi của sinh hoạt tơn giáo tín ngưỡng trong kinh tế thị
trường”

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU VỀ TƠN GIÁO
1.

Định nghĩa về tơn giáo
Trước tiên, để tìm hiểu sự biến đổi của sinh hoạt tôn giáo trong kinh tế thị

trường như thế nào, thì ta phải hiểu Tơn giáo là gì?. Tơn giáo là một hệ thống,
văn hố để giải thích ,định nghĩa những tín ngưỡng trả lời về đặc tính con
người, sự đạo đức, sự chết và thần thánh, Đấng tạo ra thế giới, những hiện
tượng siêu nhiên hướng con người đến sự tốt đẹp nơi cuộc sống .Tôn giáo trong
tiếng Anh là religion được xuất phát từ tiếng Latinh religio mang nghĩa "tơn
trọng điều linh thiêng, tơn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa con
4


người với thần linh" ,xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để
giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho
vạn vật và con người. Đơi khi từ "tơn giáo" cũng có thể được dùng để chỉ đến

những "tổ chức tôn giáo" ,một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ
phụng.

Ảnh minh họa 1.1
Sự hình thành tơn giáo bắt nguồn từ một trình độ nhận thức cao của con
người, là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong đời sống xã hội ổn định. Tôn
giáo bắt đầu ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong
sản xuất và cuộc sống. Theo thời gian, nội dung của tơn giáo mang tính phổ
quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, các vị thần cụ thể, nghi thức cụ
thể nên sự bành trướng của nó diễn ra theo một cách thuận lợi.
Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tơn giáo
trên thế giới ngày nay, có những tơn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý nhỏ
nhưng có những tơn giáo có thể gọi là tơn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở
khắp nơi trên thế giới.
Thế giới có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tơn giáo
nào đó, chỉ có khoảng 13 phần trăm là khơng tơn giáo .Có khoảng 10.000 tơn
giáo khác nhau trên toàn thế giới, nhưng khoảng 84 phần trăm dân số thế giới

5


theo một trong năm nhóm tơn giáo lớn nhất, đó là Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ
giáo, Phật giáo hoặc các dạng tôn giáo dân gian.
2.

Nguồn lực của tôn giáo trong thế giới kinh tế
Xét trong vấn đề này chúng ta có thể thấy có rất nhiều yếu tố tác động

xung quanh như mơi trường, văn hố, tín ngưỡng, đức tin… nhưng tóm gọn lại
chúng ta chia làm hai nhóm chính là: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần.

Trước tiên chúng ta nói về nguồn lực vật chất đây là nguồn lực mang tính chất
hữu hình chúng ta thấy được qua nơi cuộc sống mỗi người bao gồm những yếu
tố môi trường tác động, qua những hành vi, qua cách sống. Những người có tơn
giáo lớn họ ln gắn bó với nhau rất đồn kết, họ có những hoạt động từ thiện
nâng cao tinh thần “lá lành đùm lá rách” che chở tạo nên một cộng đồng đầy ấp
tình thương và tốt đẹp điều này giúp nâng cao được mức sống của nhiều người,
họ có thêm được động lực cuộc sống mang đến một bầu khơng khí tích cực,
trong lành ở cộng đồng. Mang tôn giáo trên người, họ được hướng cho mình
một tinh thần sự thiện tức là họ sống với một đức tin “làm lành lánh dữ” khơng
dám làm những điều ác bất chính, tích cực tham gia vào các hoạt động sẻ chia
nâng cao đời sống mà Đảng ta vẫn hằng ngày hướng dẫn từng người dân chúng
ta giúp cho thị trường kinh kế càng phát triển.
Qua mặt tinh thần, tư tưởng “ dân là gốc”, “khoan thư sức dân, “Quốc thái
dân an”, “chăm lo người nghèo khó”, “lượng hình”, xá tội của Nho giáo, Phật
giáo được Đảng ta vận dụng vào trong đường lối, chính sách; có lối sống thiện
căn, tu tâm, dưỡng tính khuyên con người tích đức hành thiện, biết sợ phạm tội;
lối sống vì tha nhân của tơn giáo; có lễ hội truyền thống nhằm nhắc nhớ những
tư tưởng cho mỗi người tôn giáo về sự thiện nhớ về những đạo lý mà làm người
phải có, một nguồn lực trong việc giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có
nguồn lực của sức mạnh đồn kết, những cộng đồn tơn giáo vẫn thường ngày
giảng dạy các lí thuyết, những đạo lí làm người, sự thiện để mỗi giáo dân biết
cách sống đúng với giáo lí của họ là sự chính thiện, là sự trong sạch nơi cuộc

6


sống, là đời sống tốt đẹp, một cuộc sống không có những cái xấu chỉ con người
hạnh phúc với nhau.

CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN TƠN GIÁO TRONG XÃ HỘI

Nói đến “tôn giáo”, người ta thường nghĩ đến các hoạt động từ thiện,
nhưng thực tế trong các tôn giáo, khái niệm kinh tế tơn giáo đã xuất hiện từ lâu,
nó đã trở thành một thành phần kinh tế trong quốc gia, thậm chí trong các quan
hệ kinh tế thế giới. Chương này muốn đề cập đến một vài khía cạnh cơ bản
trong câu chuyện kinh tế của tơn giáo, đó là các tơn giáo đóng góp gì vào việc
tăng trưởng kinh tế cũng như tơn giáo có ý nghĩa gì trong việc phòng, chống
tham nhũng, kẻ thù của sự tăng trưởng kinh tế bền vững.
1. Sự đóng góp của tơn giao đến kinh tế.
Tơn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một thực thể xã hội
luôn tác động đến xã hội trên cả hai phương diện: tích cực và tiêu cực. Trong
bối cảnh ấy, "hịa bình chung sống", chủ động nhận diện nguồn lực tôn giáo để
phát huy và phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế đất nước đã trở
thành quan điểm ứng xử với tôn giáo của nhiều quốc gia thuộc các thể chế chính
trị khác nhau ...
a) Tiếp cận trên phương diện văn hóa
Khi viết về ý nghĩa của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện ở trang
cuối của tập thơ “Nhật ký trong tù” như sau: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những cơng cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa” Người đã tiếp cận tơn giáo như là một thành
tố của văn hóa.
Nhìn vào tơn giáo nội sinh, trường hợp đạo Cao Đài lại cho thấy khả năng
tích hợp các văn hóa, tín ngưỡng khác nhau của một tôn giáo. Từ Chúa Giê-su,
7


đến Đức Phật Thích ca mâu ni, cả thánh nhân và hiền nhân, cả nhà khoa học đến
nhà chính trị học, từ phương Đông qua phương Tây… đều được người sáng lập
đạo Cao Đài sùng bái, tôn vinh ngang hàng nhau.


Như vậy, không phải tôn giáo nào cũng đi ngược lại văn hóa truyền thống
của dân tộc, cũng khơng có tơn giáo nào là hồn tồn cản trở, phủ nhận văn hóa
dân tộc, ngược lại đều ít nhiều tham gia làm giàu, làm mới, lưu giữ và nuôi
dưỡng những nét đẹp của văn hóa dân tộc. Đây chính là nguồn lực của tơn giáo
trên phương diện văn hóa. Những nét đẹp của bản sắc văn hóa dân tộc sẽ sớm
muộn khẳng định chỗ đứng của nó trong lịng các tơn giáo dù là tôn giáo ngoại
nhập hay nội sinh.

b) Tiếp cận trên phương diện kinh tế

Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) khẳng định: Văn hóa vừa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
Tôn giáo với tư cách là một thành tố của văn hóa, tơn giáo tất yếu có ảnh hưởng
nhất định đến sự phát triển của kinh tế. Sự ảnh hưởng là thúc đẩy hay kìm hãm
kinh tế cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó tự do tơn giáo được tổ chức
Pew Porum (Hoa Kỳ) chỉ ra là yếu tố có tính quyết định đến ảnh hưởng của tôn
giáo lên kinh tế. Cụ thể, Pew Porum chỉ ra:
Tự do tôn giáo giúp giảm bớt tham nhũng bởi các giá trị đạo đức tơn giáo
được phát huy. Tình trạng tham nhũng là một trong những yếu tố tác động mạnh
và tiêu cực đến sự phát triển kinh tế bền vững. Luân lý và đạo đức tôn giáo đều
khuyến thiện và cỗ vũ lối sống trung thực, lìa xa sự lợi dụng vì mục đích cá
nhân, ích kỷ, dưới bất kỳ hình thức nào... Do đó tự do tơn giáo tạo điều kiện
thuận lợi để những người kinh doanh có thể đưa những giá trị tôn giáo và giáo
lý đạo đức vào trong ứng xử và hoạt động kinh doanh của họ, làm cho họ trở
thành những đối tác tin cậy và trách nhiệm hơn, các hợp đồng kinh tế sẽ được
minh bạch hơn.
Tự do tơn giáo góp phần tích cực vào việc kiến tạo hịa bình bằng cách
giảm căng thẳng, xung đột bạo lực liên quan đến tơn giáo và điều đó là quan
trọng đối với doanh nghiệp. Nơi có sự ổn định sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư và

8


tiến hành các hoạt động kinh doanh bình thường và có thể dự báo được, đặc biệt
là trong các thị trường mới nổi và thị trường mới.

Không những thế, nếu biết cách vận dụng tài năng, năng khiếu của mỗi tín
đồ vào trong việc thể hiện nền văn hóa của tơn giáo đó thì việc vừa nâng cao giá
trị văn hóa vừa tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Chẳng hạn như
việc điêu khắc nên những bức tượng phật bằng những nguyên vật liệu khác
nhau như: gỗ, nhôm, vàng, kim loại, … những hành động này mang lại việc làm
cho rất nhiều người dân yêu thích điêu khắc, nghệ thuật.
Hầu hết các hoạt động tôn giáo ở các mức độ khác nhau đều mang ý nghĩa
kinh tế. Các hoạt động tôn giáo, từ việc đi lại để tham gia các sinh hoạt liên
quan tôn giáo, hoạt động truyền thông tôn giáo và tổ chức các sự kiện tôn giáo,
đến việc xây dựng các cơ sở tôn giáo, ... đều phát sinh giao dịch mang tính cung
- cầu. Chính vì vậy, hoạt động tơn giáo được tự do sẽ làm gia tăng các giao dịch
kinh tế, kích cầu, tạo thêm việc làm, ... do đó trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh
tế ở địa phương hay quốc gia.
Khi tự do tôn giáo được tôn trọng, đạo đức tôn giáo sẽ được phát huy vào
cuộc sống nói chung, hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, góp phần ngăn
ngừa việc sử dụng hóa chất gây hại cho sức khỏe con người hay mơi trường
sống và hạn chế tình trạng khai thác kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên,
cũng như giảm thiểu chất thải có hại cho mơi sinh.
Du lịch tâm linh là một ví dụ điển hình cho việc tôn giáo thúc đẩy kinh tế,
tạo việc làm và thu nhập (chùa Bái Đính, khu du lịch Đại Nam, lễ hội Chùa
Hương,..) Và theo Giáo sư, cựu Viện trưởng Viện xã hội học Việt Nam Bùi Đình
Thanh trong tham luận "Một vài suy nghĩ về phương pháp luận nghiên cứu xã
hội học tôn giáo" cho rằng: không chỉ đơn giản là hiện tượng mê tín mà cịn có
mối liên hệ với kinh tế. Cũng trong tham luận này, Giáo sư dẫn kết quả nghiên

cứu của tác giả J. Naisbitts và P.Aburdens về thành công trong phát triển kinh tế
- xã hội của một số quốc gia, vùng lãnh thổ được cho là có liên quan đến tơn
giáo như sau: "Thành công của Hồng Kông là sự biết kết hợp Khổng giáo với lề
lối kinh doanh của Mỹ; thành công của Thái Lan là do biết thuên theo con
đường trung dung của đạo Phật, L.Vandermesch, nguyên Giáo đốc trường Viễn
Đông Bắc Cổ trong tác phẩm "Thế giới hán hóa" cũng nhấn mạnh nhân tố hán
hóa trong sự cất cánh của bốn con rồng ở Đông Á và Đông Nam Á (Hàn Quốc,
Đài Loan, Hồng Kông, Singapo)".
9


Rõ ràng, tơn giáo (một thành tố của văn hóa) có khả năng trực tiếp và gián
tiếp tác động đến sự phát triển của kinh tế. Văn hóa kinh doanh phản ánh văn
hóa tơn giáo.

c) Tiếp cận dưới góc độ quan hệ của tổ chức tôn giáo
Tôn giáo ở Việt Nam phần lớn có nguồn gốc từ nước ngồi. Cơng giáo từ
Pháp vào, hiện quan hệ trực tiếp với Vatican và với các quốc gia có Cơng giáo.
Tin lành từ Mỹ đến, hiện quan hệ đa phương với tất cả các châu lục, quốc gia,
vùng lãnh thổ có đạo Tin lành. Phật giáo từ Trung Quốc, Ấn Độ sang, hiện là
một kênh gắn kết ba nước Đông Dương, lớn hơn là các quốc gia thuộc tiểu vùng
sông Mêkông, Phật giáo Việt Nam đã có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hồi
giáo ở Việt Nam tuy nhỏ nhưng vẫn là một phần của Hồi giáo thế giới, vẫn có
khả năng đưa sản phẩm Việt Nam ra thế giới thông qua thương hiệu Halah của
Hồi giáo, ...

I.Những đóng góp của tôn giáo trong phát triển kinh tế:
1. Tôn giáo và sự ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Những năm gần đây, các nhà nghiên cứu kinh tế và tôn giáo thường đặt ra
câu hỏi, cộng đồng các tơn giáo có khả năng tác động tích cực hay cản trở sự

tăng trưởng kinh tế? Nếu như, năm 2004 Robert Barro mới đưa ra nhận định
rằng, tương tác giữa tôn giáo và một loạt các yếu tố chính trị xã hội tuy có khác
nhau nhưng chắc chắn “tơn giáo ngày càng có vai trị quan trọng với thực hành
kinh tế thơng qua các tác động của đức tin đến những đặc điểm hoạt động kinh
tế, như: đạo đức làm việc, tính trung thực,… và những điều này có thể tạo nên
khuynh hướng khuyến khích năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế”, thì
những nghiên cứu vĩ mơ mới đây của Trung tâm nghiên cứu Pew (Mỹ) và Quỹ
Tự do Tôn giáo và Kinh doanh của B. Grim, đã có câu trả lời, khẳng định rằng
giữa đức tin tôn giáo và tăng trưởng kinh tế (Reliogious Faith and Economic
10


Growth) có mối quan hệ đặc biệt. Nghiên cứu trên cho thấy, những biến chuyển
của Trung Quốc và Ấn Độ thuộc số nước “tôn giáo gốc” hoặc “thức tỉnh tôn
giáo”. Theo một nghiên cứu đã công bố năm 2015, cùng với sự “hồi sinh” của
tơn giáo thế giới nói chung (số người gắn kết với một tôn giáo được ước tính
tăng tới 2,3 tỷ người, nghĩa là từ 5,8 tỷ năm 2010 lên 8,1 tỷ năm 2050), người ta
đặt câu hỏi, sự tăng của dân số tơn giáo có liên quan gì với nền kinh tế của thế
giới hiện nay? nhưng đến năm 2050, chỉ một trong năm nền kinh tế hàng đầu
được dự đốn có dân số Ki tơ giáo chiếm đa số đó là Hoa Kỳ. Các nước thuộc
loại "siêu kinh tế" khác vào năm 2050 được thấy bao gồm: một nước với đa số
Ấn Độ giáo (Ấn Độ), một nước đa số Hồi giáo (Indonesia) và hai nước với các
mức độ đa dạng tôn giáo cực kỳ cao (Trung Quốc và Nhật Bản).
Không chỉ nghiên cứu vĩ mơ, có nhiều thí dụ cụ thể trong mỗi quốc gia
mỗi tôn giáo, cũng cho thấy, tôn giáo ngày nay quả thực có ảnh hưởng khơng
nhỏ đến sự tăng trưởng kinh tế. Một nghiên cứu mới khác của Trung tâm
HamkiKhalfaoui (2015) thuộc Đại học Tunis El Manar (Tunisia), thông qua việc
nghiên cứu thực nghiệm dữ liệu tôn giáo và kinh tế của 20 nước Hồi giáo
(1990- 2014) đã chỉ ra rằng, phần lớn các nước Hồi giáo khơng khuyến khích
tăng trưởng kinh tế, nhưng ông rút ra một số nhận định cụ thể và khá giá trị, đó

là:
Các nước Hồi giáo nếu có tỷ lệ cư dân là người Hồi giáo càng cao thì mức
phát triển kinh tế càng thấp;
Điều kiện xã hội luôn là quan trọng. Tác động tiêu cực của Hồi giáo lên
tăng trưởng kinh tế sẽ càng tăng nếu các nước Hồi giáo ấy chịu tác động mạnh
của nạn mù chữ, thất nghiệp…
Thực ra ý tưởng về nền kinh tế tôn giáo đã xuất hiện từ những thập kỷ 40 50 của thế kỷ XX với ít nhất là nhà Kinh tế học Anh, gốc Đức Schumacher
11


trong tác phẩm: Small and Beautiful, A Study of Economics, As If People
Mattered (Blond and Briggs, London, 1977). Xuất phát từ luận điểm: “Tiến bộ
kinh tế chỉ có thể có được khi bản năng tham lam của con người được kích thích
và đó là điều phần lớn các tơn giáo đều muốn chống lại”. Mặt khác, kinh tế chỉ
để ý đến giá trên thị trường (Market Value) chứ không chú ý đến giá thực. Giải
quyết mâu thuẫn này ông đã đề xuất khái niệm “Kinh tế Phật giáo” (Buddhist
Econmics) để giải quyết xung đột ấy, bởi theo ông “Phật giáo khơng khuyến
khích lịng ham muốn, gia tăng nhu cầu hưởng thụ. Phật giáo khác với mácxít,
khơng xem tư hữu là xấu xa vì nó khơng ít thì nhiều có liên hệ đến nghiệp quả
của từng cá nhân miễn là lợi tức này làm ra bằng các phương tiện chính đáng và
hợp pháp… Có hai yếu tính của nền kinh tế Phật giáo là tính giản dị và khơng
bạo động…”
Vậy điều kiện nào để tơn giáo có khả năng tham gia phát triển kinh tế? Đối
với xã hội, khả năng kích thích kinh tế, xã hội của tơn giáo cịn ở chỗ nhiều tơn
giáo có khả năng cung ứng những dịch vụ tâm linh, giá trị đạo đức và an ninh
sinh tồn cho những cộng đồng ngồi tơn giáo của nó, khi mà thế kỷ XXI được
coi là "Thế kỷ của tâm linh" (Malreaux).


Khơng phải mọi tơn giáo đều có khả năng kích thích tăng trưởng kinh tế,


xã hội. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào việc chủ thể tôn giáo và nhà nước có
khả năng khuyến khích những mặt tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của
chúng. Ở đây có vai trị quyết định của mơi trường luật pháp, khả năng gắn
kết cộng đồng, chính sách kinh tế xã hội và đặc biệt chính sách tơn giáo.
2. Tơn giáo phòng chống tham nhũng
Robert Barro nhà nghiên cứu kinh tế nổi tiếng của Mỹ cho rằng, tính tơn
giáo có thể được coi là một chỉ số tăng trưởng kinh tế đối với nhiều nước có
cộng đồng tơn giáo mạnh và được tính theo số đo GDP.

12


Theo ơng, tác động của tính tơn giáo lên thực hành kinh tế được hiểu trên
hai phương diện:



Sự thực hành tơn giáo của các tín đồ
Vai trị nhận thức và tâm lý của đức tin khi tham gia hoạt động kinh tế, xã hội
(Tin vào kiếp sau, địa ngục, cứu rỗi, thiên đường, …).
Cũng như M. Weber trước đây khen ngợi đạo đức của người Tin lành, như:
tiết kiệm, chăm chỉ, ưa thích làm giàu mà khơng hề mâu thuẫn với ý Thiên
Chúa, sáng tạo trong vận dụng khoa học kỹ thuật,… thì ngày nay, người ra cũng
hết sức chú ý trong việc khai thác những mặt tích cực này ở nhiều tơn giáo
khác, kể cả Hồi giáo. Barro cịn nói rằng, quả thực ngày nay tính tơn giáo vẫn
rất quan trọng với thực hành kinh tế, tác động của đức tin tôn giáo, tâm linh là
rất sâu sắc đến những phạm trù thuộc hoạt động kinh tế, như: đạo đức và mục
đích làm việc, sự trung thực và kỷ luật trong lao động, và đặc biệt trong phân
phối sản phẩm, tiêu dùng,… nhưng trước hết phải kể đến tác động tính tơn giáo

cũng có thể là một động lực của sự khuyến khích và tăng trưởng.
Nói đến tác động của tôn giáo trong việc tăng trưởng kinh tế liệu có thể có
những mối liên hệ gì đến việc phịng chống tham nhũng? Rõ ràng đây là một
vấn đề rất phức tạp. Thật tốt khi chúng ta đã có những nghiên cứu đầu tiên về
vấn đề này những năm gần đây. Leila Shadabi đã có những nhận xét đáng chú ý
về tác động của tôn giáo đối với hành vi tham nhũng.
Theo tác giả, tôn giáo vừa là hệ thống ứng xử và hành động của con người
tôn giáo đồng thời nó cũng là một chỉ số văn hóa có tác động khá tích cực trong
đạo đức sản xuất kinh doanh cũng như trong việc phòng chống tham nhũng khi
đưa ra câu hỏi: “Nếu như hối lộ và lạm dụng kinh tế của cải bị cấm trong Hồi
giáo và Ki tơ giáo, vậy thì điều gì nói lên tác động của các tôn giáo này với việc
chống tham nhũng”?

13


Xin đưa ra một vài ví dụ để phân tích điều này. Khi nói về nền kinh tế tơn
giáo, người ta thường chú ý đến hai yếu tố:



Biến số độc lập (đạo đức, đức tin tôn giáo)
Biến số phụ thuộc (chính sách tơn giáo quốc gia)
Trong đó biến số thứ nhất có tính nội tại khá quyết định, bởi bên cạnh các
yếu tính đạo đức và đức tin cịn có luật lệ của các tơn giáo ít nhiều cũng chi phối
hoạt động kinh tế của các chủ doanh nghiệp có tơn giáo và tín đồ các tơn giáo
trong vai trị người dân tham gia sản xuất, kinh tế.
Khi nghiên cứu hoạt động của nền kinh tế, tài chính của một nước Hồi
giáo, như trường hợp Malaysia chẳng hạn cho thấy rõ điều này. Một trong
những mục tiêu chính của người Hồi giáo khi hoạt động kinh tế là phải “bảo tồn

của cải” và của cải phải được tạo ra và lưu thơng theo luật Shari’ah. Theo đó,
của cải khơng thể bị thu giữ hoặc độc quyền bởi thiểu số hoặc bởi những người
nghèo mà không được quyền sử dụng. Sự giàu có của một quốc gia bị hủy hoại
bởi hối lộ, tham nhũng hoặc chi tiêu quá mức; sự tương trợ và hợp tác trong
quan hệ xã hội và kinh tế theo nguyên tắc “mở rộng láng giềng”… Như vậy, thế
giới quan Hồi giáo nói chung đã tạo ra một sự cam kết sâu sắc để người Hồi
giáo có sự thành cơng trong hoạt động kinh tế xã hội, vì nó đã có những nguyên
tắc đức tin và đạo đức, giới luật chặt chẽ về sự ổn định giá cả, tăng trưởng kinh
tế và việc làm, khắc phục sự phân biệt đối xử và đồng thuận.
Nói riêng về doanh nhân, doanh nghiệp của người Hồi giáo trong hoạt
động tài chính cũng cho thấy điều này. Luật Hồi giáo trong khi ngăn cấm “sự
mập mờ” thiếu minh bạch trong giao dịch giữa các bên cũng như các giao dịch
bị cấm khác trong kinh doanh (sản xuất rượu, thịt lợn, vũ khí, mại dâm, kinh
doanh giải trí có tính tham nhũng,…) thì đồng thời lại khuyến khích các chủ
doanh nghiệp theo “nguyên tắc lợi nhuận và chia sẻ rủi ro”. Các ngân hàng
kinh doanh tài chính của người Hồi giáo tầm quốc gia và khu vực, quốc tế ngày
14


càng lớn mạnh, nhưng họ ln khuyến khích kinh doanh hiệu quả nhưng cấm
kinh doanh nợ xấu, việc “kinh doanh nợ”,… Đồng thời luôn hướng các chủ
doanh nghiệp tôn trọng sự thiêng liêng của các hợp đồng, thúc đẩy công bằng,
tương trợ giữa các bên liên quan.
Một truyền thống khác của Hồi giáo cũng góp phần khơng nhỏ trong việc
hạn chế và ngăn cấm tham nhũng hối lộ, đó là “cấm cho vay nặng lãi”. Theo
đó, với người Hồi giáo tăng trưởng kinh tế sẽ là vô nghĩa nếu không có cơng
bằng xã hội và kinh tế, …
Đương nhiên khi nói về những lợi thế của đạo đức tơn giáo trong kinh
doanh thì cũng khơng thể ảo tưởng một cách siêu hình rằng, hoạt động kinh tế
của họ diễn ra đúng như mong đợi của thần linh! Việc chống tham nhũng và

kiểm sốt tham nhũng, tự nó khơng thể chỉ là kết quả của bất kỳ thứ đạo đức tôn
giáo nào, mà nó cịn phụ thuộc vai trị quyết định cuả các chính phủ liêm khiết,
hành động và kiến tạo, cũng như của một hệ thống luật pháp kinh tế, xã hội đủ
mạnh của Nhà nước.
II. Phát triển kinh tế từ nơi ý thức của người dân
1. Những đạo lý của phật thấm vào tư tưởng người dân
Phật giáo luôn đề cao về sự ý thức khả năng tiến bộ không giới hạn của
con người, sống và làm việc theo tinh thần duyên khởi tính, khiến người Phật tử
làm việc khẩn trương tối đa, và luôn luôn học hỏi ở người khác giỏi hơn mình.
Học hỏi rất chăm chỉ, người Phật tử thấy không cần phải phát hiện lại những
điều mà người khác đã tìm ra được, qua một quá trình lao động khó nhọc.
Cho nên, khi người Phật tử trong vai trị lãnh đạo tối cao của cơng ty,
người đó khơng nên xem cơng nhân như là phương tiện mà chính là mục đích
của cơng ty mình phụ trách, thì điều đó khơng có nghĩa hy sinh mục đích cho
phương tiện mà xem mục đích như là nội hàm, trong tất cả mọi phương tiện
15


được sử dụng để đạt tới mục đích đó. Vận dụng nguyên tắc này, hệ quả, công
nhân rất mực trung thành và tự hào với cơng ty của mình, thậm chí sẵn sàng tự
nguyện chịu giảm lương để cơng ty có thể khởi động lên và làm ăn có lãi. Tất
nhiên khi công ty phát triển, đời sống cá nhân và gia đình họ đều tăng thêm thu
nhập. Và để đền đáp lại, công nhân làm việc thêm giờ tự nguyện, sẵn sàng hiến
dâng những sáng kiến ở mọi cấp, chứ không phải từ cấp lãnh đạo công ty mà
thôi.
Phật có một bài thơ rất hay “nhẫn nhịn nhường” để luôn nhắc nhở chúng ta
rằng phải biết nhẫn nhục. Thực tế, trong kinh doanh chúng ta phải biết nhẫn
nhịn. Nhẫn nhịn không phải để trả thù, mà nhẫn nhịn để khơng gây sự với nhau
sống trong một tập thể hịa đồng vui vẻ.


Ảnh minh họa 2.1

Khơng những thế, Phật cịn dạy những đạo lý làm người khi tham gia phát
triển nền kinh tế thị trường:” Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối
mình, dối người, và bị người dối”. Từ xưa đến nay con người chúng ta vẫn
khơng thể thốt khỏi nhau sự lừa dối. Người bán lừa dối người mua bằng những
16


lời ca tụng sản phẩm tốt, mặc dù đó là thành quả của thuốc trừ sâu. Người mua
cũng lừa dối người bán bằng tiền giả, trả thiếu tiền,… Sự lừa dối khơng chỉ
dừng ở người lạ, mà cịn ở cấp độ người bạn cùng cơng ty. Chỉ vì muốn tham
nhũng, thăng quan chức lớn mà lừa dối lẫn nhau, thậm chí là sát hại lẫn nhau.
Lời đạo lý đầy ẩn ý như muốn nhắc nhở chúng ta rằng, phải quang minh chính
đại. Những người làm việc với tâm ác, trước sau gì cũng bị người đời dạy lại
một bài học tương tự. Đó là quả báo.
Ngồi những điều trên, phật vẫn không quên nhắc nhở chúng ta phải giúp
đỡ những người khác, dù là trên thương trường. Bởi lẽ đức tính “sống yêu
thương, biết chia sẻ” đã thấm nhuần vào trong tiềm thức người dân ngay từ đầu
chấp nhận quy y cửa phật. Mặc dù biết khắc ghi những lời phật dạy, nhưng
những người phàm vẫn khơng thốt khỏi sự tham lam. Điển hình là vụ tu sĩ lừa
đảo bán 5000, chiếm hơn 6 tỷ và bôi nhọ đức Phật rồi bỏ trốn. Khẩu phật tâm
xà, lợi dụng lòng tin của mọi người đối với phật mà lừa đảo. Thầy Pháp Hịa
từng nói Phật khơng cần những lời nói, Phật cần những hành động từ bi đấy mới
là lời Phật dạy.
2. Đạo lý của hồi giáo
Hồi giáo luôn muốn mọi người đồn kết với nhau, nhưng lại khơng muốn
kết thân với các tôn giáo khác. Rõ ràng hồi giáo muốn có một mơi trường khép
kín, điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đối với nền kinh tế. Không thể kết thân với
các tôn giáo khác đồng nghĩa với việc không liên kết với các một số công ty,

điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển công ty, phát triển nền kinh
tế nước nhà.
Đạo hồi cũng cấm ăn các món ăn liên quan đến thịt chó, thịt lợn, tiết canh,
… Điều này cũng ảnh hưởng rất nhiều đến các công ty xuất khẩu vào thị trường
của những người đạo hồi, cụ thể là Ấn Độ. Theo quan niệm trong kinh thánh
Koran: “Trong những điều đã đuợc khải thị (truyền dạy), ta không thấy luật cấm
17


ăn mọi thứ, ngoại trừ xác chết, máu tuơi hoặc thịt lợn, bởi vì đó là vật ơ uế; hay
thực phẩm khơng đúng quy trình, hay đã bị cúng tế cho ai khác ngoài Allah”
(Al-‘An`ām 6:145).

Ảnh minh họa 2.2

Hồi giáo cũng giống Phật giáo. Dạy phải giúp người gặp hoạn nạn, phải
biết sống trung thực, khơng đặt lợi ích của mình trên lợi ích người khác. Phải
biết tự học hỏi, tìm tịi những điều mới và truyền lại cho người khác nếu được.
bởi lẽ những đức tính tốt ln được các bậc thánh nhân dạy, luôn dạy điều tốt để
con người chúng ta có một cuộc sống tốt hơn.
3.

Đạo lý của kito giáo
Kito giáo ảnh hưởng rất lớn đến tiềm thức người dân Việt Nam, bởi đây là

tôn giáo lớn thứ 2 ở Việt Nam. Các bài kinh thánh có tầm ảnh hưởng lớn phải kể
đến “10 điều răn”, “kinh cải tội bảy mối”. Hai bài kinh thánh này, nếu xét về
khía cạnh kinh tế sẽ mang lại rất nhiều bài học cho chúng ta. Hai bài này rất là
tương đồng với nhau, đều nhắc nhở cấm dâm dục, phải nhẫn nhịn, không cờ bạc
nhậu nhẹt, cấm đố kỵ, tham lam.


18


Ảnh minh họa 2.3 và 2.4

Ơng cha ta có câu” Cần cù bù thông minh”, Trong kinh thánh cũng vậy,
Điều thứ 7 trong cải tội bảy mối có viết – “Thứ bảy: Siêng năng việc Đức Chúa
Trời, chớ làm biếng”. Muốn thành cơng thì khơng được lười biến, đó là điều
kiên quyết. muốn phát triển đất nước thì khơng ngừng tìm tịi, học hỏi những cái
mới.

Tóm lại, mỗi tơn giáo đều có những phép tắt riêng cho mình, nhưng xét
cho cùng thì đều muốn những điều tốt đẹp cho người dân. Rất nhiều nét tương
19


đồng trong việc dạy bảo những người theo đạo. Đều muốn siêng năng, học hỏi,
tìm tịi những thứ mới, nhẫn nhịn người khác. Tránh làm điều ác, tránh gian lận,
tham nhũng, …

CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT
GIỮA TÔN GIÁO VÀ THỊ TRƯỜNG KINH TẾ
1. Những ảnh hưởng do chính bản thân tôn giáo gây ra
Con người trong thế giới quan tơn giáo là vơ cùng nhỏ bé chính vì vậy con
người khơng hề có tác dụng trong việc cải biến xã hội. Nếu chỉ con người chỉ
nhận thức thế giới dưới thế giới quan tơn giáo thì chắc chắn cuộc sống của
chúng ta sẽ không bao giờ được như ngày nay mà chúng ta sẽ mãi mãi chỉ là
những sinh vật nhỏ bé và chịu ảnh hưởng hoàn toàn của các sức mạnh tự nhiên.
Ở phương Tây đã có một thời Thiên chúa giáo chi phối hoàn toàn nhận

thức của con người. Khi đó những ai đi ngược lại những suy nghĩ của đạo Thiên
chúa đều phải nhận lấy những hình phạt nặng nề, như Galile chứng minh được
rằng Trái đất quay xung quanh mặt trời nhưng nhà thờ lại quan niệm rằng trái
đất là trung tâm và mặt trời phải quay quanh trái đất và kết cục là Galile đã phải
lĩnh án hoả thiêu.

Hình minh họa Galile

20


Chính vì thế giới quan tơn giáo có sự sai lệch như vậy nên sự sai lầm trong
nhận thức của những người theo đạo là một điều tất nhiên. Tuy đã bước sang thế
kỉ XXI thế kỉ của văn minh, nhưng chỉ mới chỉ trước cái khoảnh khắc mà chúng
ta đang sống một thời gian ngắn thơi đã có những quan niệm hết sức sai lầm:
tiêu biểu nhất là quan niệm về ngày tận thế (khi con người bước vào thế kỉ mới)
khiến cho rất nhiều người phải chết oan bởi những vụ tự sát tập thể vì một viễn
cảnh được cứu rỗi khi bước sang thế giới bên kia.
Cũng chính bởi nhận thức sai lệch mà trong một số giáo phái xuất hiện
những tư tưởng rất cực đoan: như vụ đầu độc bằng khí độc tại ga tàu điện ngầm
của giáo phái Aum mấy năm trước tại Nhật Bản, hoặc những vụ khủng bố của
những phần tử Hồi giáo cực đoan như vụ khủng bố 11/9 tại trung tõm thương
mại Thế Giới _Mỹ vừa rồi của những phần tử này mà cầm đầu là Bin Laden.
2. Những ảnh hưởng xấu do tôn giáo bị lợi dụng bởi các thế lực khác:
Cũng chính bởi tơn giáo là một bộ phận cấu thành xã hội nên nó là phương tiện
để người ta sử dụng nó cho các mục đích khác. Chúng ta hẳn con nhớ những vụ
xây chùa giả rầm rộ ở chùa Hương để nhằm mục đích bịn rút những đồng tiền
thành tâm của các tín đồ. Rồi những trị nhảm nhí như lên đồng, gọi hồn, xem
bói, giải hạn…vv…Tất cả chỉ là lợi dụng tôn giáo để kiếm tiền bất chính.


Hình minh họa: lợi dụng tơn giáo để xem bói lên đồng
Ở nước ta tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng là quyền của mỗi cơng
dân, nhưng có một số kẻ xấu đã sử dụng chiêu bài tôn giáo để phá hoại nước ta.
Như những vụ truyền bá tư tưởng phản động của đao Hồi cực đoan vào các tỉnh
miền nam nước ta, hay lợi dụng tôn giáo để các thế lực thù địch xúi bẩy sự nổi
21


dậy của nhân dân các tỉnh Tây nguyên nhằm các mục tiêu chính trị của những
kẻ phản động với sự chuẩn bị ra đời của nhà nước mới.
KẾT LUẬN:
Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một bộ
phận đông đảo quần chúng tham gia. Đây là tình hình chung khơng chỉ ở Việt
Nam mà trên tồn thế giới.
Bên cạnh đó tơn giáo cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế
thơng qua nền văn hóa của nó, qua những nét lịch sử và nét đặc trưng thu hút
khách du lịch mà tơn giáo đó mang lại. Một số tơn giáo có sự biến đổi liên tục
nhanh chóng phù hợp với sự thay đổi về kinh tế xã hội.
Tuy nhiên một số tôn giáo ở vùng dân tộc đang bị các thế lực phản động sử
dụng, đây là địa bàn khó kiểm sốt vì dân trí khơng cao và các thế lực thù địch
có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm của Đảng gây kích thích sự chia rẽ
đồn kết dân tộc. Chính vì vậy việc tun truyền chính sách mới của Đảng hiện
nay rất quan trọng. Các luận điểm chủ yếu của chính sách tơn giáo mới gồm:
Mọi tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật .
Tơn giáo chỉ có ý nghĩa trong sinh hoạt văn hố tinh thần khơng cịn tham
gia vào các hoạt động chính trị. Tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín
ngưỡng của mọi người. Phát huy mặt tích cực của tơn giáo và hạn chế các mặt
tiêu cực có hại cho đời sống xã hội …
Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển khơng có định hướng đúng đều để lại
phía sau một bãi hoang mạc. Tôn giáo là một bộ phận trong xã hội lồi người nó

có một số mặt tốt như đạo Phật quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo...,
Thiên Chúa giáo răn dậy các tín đồ của mình phải sống lương thiện đó là những
ưu điểm mà con người cần phát huy. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên thì tơn
giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ đứng của mình, điều đó là tất nhiên bởi theo
quy luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ bị thay thế bởi cái mới phát triển hơn.
Con người càng ngày càng phát triển và dưới sức mạnh của Khoa học Cơng
nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức đầy đủ về thế giới và họ có
thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và theo ý muốn của mình.

22


Hết.

23



×