Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Thực hiện pháp luật về viên chức trong ngành y tế từ thực tiễn bệnh viện đa khoa đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH PHÚ HỮU

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIÊN CHỨC TRONG
NGÀNH Y TẾ TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN ĐA
KHOA ĐỒNG THÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT

NGHỆ AN, 8-2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH PHÚ HỮU

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIÊN CHỨC TRONG
NGÀNH Y TẾ TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN ĐA
KHOA ĐỒNG THÁP

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 6.38.01.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LUẬT

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Đinh Ngọc Thắng

NGHỆ AN, 8-2018




LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên em xin gởi đến Thầy, Cô trƣờng Đại học Vinh lời chúc
sức khỏe, thành công và vạn sự nhƣ ý. Đặc biệt là Khoa Luật của trƣờng Đại học
Vinh, với Thầy, Cô rất hiền hòa, thân thiện đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức
mới thật bổ ích. Em xin chân thành cảm ơn tất cả các Thầy, Cô rất nhiều.
Em xin cảm ơn cán bộ viên chức Phòng Tổ chức Cán bộ của Bệnh viện
Đa khoa Đồng Tháp; Phòng Tổ chức Cán bộ, Văn phịng Sở Y tế Đồng đã nhiệt
tình cung cấp cho em số liệu để thực hiện luận văn của mình.
Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Thực hiện pháp luật về viên chức trong
ngành Y tế từ thực tiễn Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp” đã hồn thành, với lịng
biết ơn sâu sắc, em trân trọng cảm ơn và gởi lời chúc tốt đẹp nhất đến GVC. TS.
Đinh Ngọc Thắng, Trƣởng khoa Luật của trƣờng Đại học Vinh, một ngƣời thầy
em rất quý và trân trọng, đã nhiệt tình hƣớng dẫn, giúp đỡ để em hồn thành
luận văn của mình.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song luận văn khơng tránh khỏi hạn chế, thiếu
sót. Kính mong Thầy, Cơ trong hội đồng đánh giá luận văn, chỉ bảo, góp ý kiến,
giúp em tiếp tục bổ sung cho luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Huỳnh Phú Hữu


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn chưa từng được cơng bố trong bất cứ cơng trình
nào.

TÁC GIẢ
Huỳnh Phú Hữu


DANH MỤC VIẾT TẮT
UBND: Ủy ban nhân dân
NVYT: Nhân viên Y tế
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIÊN
CHỨC TRONG NGÀNH Y TẾ ...................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm liên quan đến thực hiện pháp luật về Viên chức trong
ngành Y tế ......................................................................................................... 7
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế .................. 19
1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế ... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIÊN CHỨC
TRONG NGÀNH Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỒNG THÁP .......... 37
2.1. Khái quát về ngành Y tế ở tỉnh Đồng Tháp ............................................... 37
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế tại Bệnh
viện Đa khoa Đồng Tháp .................................................................................. 42
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp .................................................................... 57
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA
KHOA ĐỒNG THÁP ....................................................................................... 62
3.1. Quan điểm thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế tại Bệnh
viện Đa khoa Đồng Tháp .................................................................................. 62

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế ... 68
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 84


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực Y tế vốn đƣợc coi là một sự nghiệp chung cũng nhƣ sự nghiệp
cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Vì vậy phải
bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng cho đội ngũ Viên chức đang làm việc trong
lĩnh vực này. Quy định của pháp luật đối với Viên chức trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh phải thật sự tác động tích cực và tồn diện, nhằm giúp cho đội
ngũ Viên chức trong ngành Y tế có cơ hội, điều kiện tốt nhất để có thể mang đến
những phƣơng pháp điều trị mới và chất lƣợng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
Với sứ mệnh bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, ngành Y tế đang từng
bƣớc khẳng định tầm quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của đất nƣớc, trong
đó khơng thể bỏ qua vai trò của Viên chức trong ngành Y tế. Mỗi Viên chức
trong ngành Y tế luôn là những tấm gƣơng sáng về nỗ lực phấn đấu rèn luyện
vƣơn lên về chuyên môn, đạo đức, nghề nghiệp để không chỉ giúp ngƣời dân gìn
giữ sức khỏe, vƣợt qua bệnh tật mà cịn để lại những tình cảm, những kỷ niệm
khơng qn về tình ngƣời. Đó là trách nhiệm cao q mà mỗi ngƣời làm nghề y
phải gánh vác, vì mỗi hành động của họ dù nhỏ đến đâu đều liên quan đến tính
mạng con ngƣời và hạnh phúc của mỗi gia đình. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của Viên chức trong ngành Y tế, trong những năm qua Đảng và Nhà nƣớc đã rất
quan tâm tạo điều kiện cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế. Bên cạnh đó việc đổi mới cơng
tác tổ chức cán bộ về Viên chức trong ngành Y tế, cũng nhƣ việc thực hiện pháp
luật về Viên chức trong ngành Y tế để bảo đảm quyền lợi của những “Chiến sĩ
áo trắng” đang là đòi hỏi bức thiết của xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Năm 2010, Luật Viên chức đƣợc ban hành, là mốc quan trọng đánh dấu
một xu hƣớng mới về sự điều chỉnh của pháp luật đối với Viên chức trong các
đơn vị sự nghiệp cơng lập, có tác động lớn đến ngƣời lao động đang làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, Luật
Viên chức và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã bộc lộ thêm nhiều điểm bất
1


cập, những khó khăn, vƣớng mắc, khơng chỉ đối với Viên chức khi tuân thủ, thi
hành, sử dụng những quy định pháp luật liên quan, mà còn đối với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật.
Ngoài ra, việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh công lập đang tạo ra sự khác biệt, sự phân biệt rất lớn đối với
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ngồi cơng lập mà chúng ta chƣa tìm ra đƣợc
sự lý giải khoa học, những căn cứ thuyết phục. Thực tiễn cho thấy đến nay hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Viên chức vẫn chƣa đầy đủ,
chƣa tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động thực thi nghiệp vụ của Viên
chức trong ngành Y tế. Cơ cấu, chất lƣợng của đội ngũ Viên chức trong ngành Y
tế vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội. Một trong các nguyên nhân sâu xa
dẫn đến những hạn chế trên là do hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo
nhau, chƣa cụ thể hóa từng ngành đặc thù, chính vì thế đã hạn chế và chƣa đáp
ứng đƣợc yêu cầu phục vụ nhân dân.
Việc xây dựng, phát triển đội ngũ Viên chức trong các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh tại tỉnh Đồng Tháp nói chung, tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp nói
riêng cần đƣợc thực hiện trên nền tảng pháp lý vững chắc với các văn bản pháp
luật có giá trị pháp lý cao, thực sự phát huy đƣợc hiệu quả khi áp dụng vào thực
tiễn. Điều đó, một mặt giúp Nhà nƣớc thực hiện tốt chức năng của mình trong
việc quản lý về Y tế; mặt khác, còn bảo đảm sự thƣợng tôn pháp luật - một
nguyên tắc cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền hiện đại; đồng thời, bảo đảm quyền
con ngƣời, bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng, quyền tự do, dân chủ, phát huy

phẩm chất tốt đẹp, sức sáng tạo, trí tuệ, năng lực của đội ngũ Viên chức trong
ngành Y tế ở Đồng Tháp trong bối cảnh đất nƣớc hội nhập hiện nay.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Thực hiện
pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế từ thực tiễn Bệnh viện Đa khoa
Đồng Tháp” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về thực hiện pháp luật là một trong những nội dung quan
trọng của lý luận về pháp luật, xuất hiện trong rất nhiều cơng trình có tính chất
2


giáo khoa ở các cơ sở đào tạo trong và ngồi nƣớc. Các cơng trình nghiên cứu
này đều dành một chƣơng để giải quyết những khía cạnh cơ bản về thực hiện
pháp luật: đƣa ra quan niệm về thực hiện pháp luật, các hình thức thực hiện pháp
luật và tập trung luận giải về áp dụng pháp luật - một hình thức thực hiện pháp
luật. Trƣớc hết cần kể tới các cơng trình nhƣ: Giáo trình Lý luận về nhà nước và
pháp luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005-2007; Lý luận Nhà
nước và pháp luật của tác giả Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu, NXB Giao
thông Vận tải, 2009 và Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trƣờng
đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2010.
Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam
về thực hiện pháp luật đƣợc cơng bố nhiều hơn và có chiều sâu hơn, tập trung
làm rõ hơn những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể nhƣ hình sự, dân sự, hành chính, đất
đai... ở Việt Nam nhƣng chƣa có cơng trình nghiên cứu chuyên biệt về thực hiện
pháp luật đối với Viên chức trong ngành Y tế: các cơng trình nghiên cứu của
PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan từ năm 2009 đến năm 2013: “Thực hiện và áp
dụng pháp luật ở Việt Nam”, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, “Thực hiện pháp
luật và văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội”, NXB. Hồng Đức; Cuốn sách với
tựa đề: “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn” của tập thể tác giả: Nguyễn Thị Hồi, Nguyễn Thị Vân Anh, Nguyễn Hồng
Bắc cơng bố năm 2009.
Tóm lại, những cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật về Viên
chức nói chung, Viên chức trong ngành Y tế nói riêng đã dần xuất hiện nhƣng
chƣa đậm nét, còn đơn lẻ, đƣợc hợp chung với những nội dung nghiên cứu về
công chức hoặc dừng lại ở việc nghiên cứu hồn thiện pháp luật điều chỉnh một
vài khía cạnh đối với Viên chức nhƣ bồi dƣỡng, đào tạo, chế độ lƣơng... mà
chƣa có cơng trình chun khảo chun biệt nào tập trung nghiên cứu về thực
hiện pháp luật Về Viên chức trong ngành Y tế.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận của thực
3


hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế, đồng thời, đối chiếu liên hệ và
nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế ở
từng khâu, từng giai đoạn, hình thức cụ thể. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
những quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về Viên chức
trong ngành Y tế hiện nay.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
Tìm hiểu, phân tích và xây dựng khung các vấn đề lý luận của việc thực
hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế, cụ thể nhƣ: Khái niệm, nội dung,
đặc điểm và vai trò của việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế;
Những nhân tố đảm bảo và tác động tới thực hiện pháp luật về Viên chức trong
ngành Y tế.
Phân tích, đánh giá thực trạng, xác định những kết quả đạt đƣợc, bất cập,
hạn chế và phân tích nguyên nhân của những thành tựu, bất cập, hạn chế trong
việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế từ thực tiễn Bệnh viện
Đa khoa Đồng Tháp.

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tế nhƣ nêu ở các mục trên,
luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật
về Viên chức trong ngành Y tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Luận văn chỉ tiến hành nghiên cứu thực hiện pháp luật về Viên chức trong
ngành Y tế tại bệnh viện.
Luận văn khơng phân tích tồn bộ việc thực hiện pháp luật đối với ngƣời
lao động trong các bệnh viện tƣ, các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ngồi cơng
lập, bệnh viện Qn Dân Y (chỉ đi sâu vào phân tích việc thực hiện pháp luật về
Viên chức tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng. Đề tài đƣợc
thực hiện trên cơ sở tiếp cận từ góc độ lý luận và thực tiễn để từ đó hồn thiện
hệ thống pháp luật về Viên chức trong bệnh viện hiện nay.
4


Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp, bao gồm phƣơng pháp lịch sử,
phƣơng pháp lôgic, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp
để nghiên cứu cơ sở lý luận khoa học, hoàn thiện hệ thống lý luận pháp lý. Các
phƣơng pháp đƣợc sử dụng một cách linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính
thuyết phục của việc nghiên cứu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.
Luận văn chỉ ra và phân tích sự khác biệt của thực hiện pháp luật về Viên
chức trong bệnh viện so với việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong các
ngành khác. Từ đó giúp thấy rõ những bất cập trong các quy định pháp luật hiện
hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về Viên chức;
Luận văn đã phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về Viên chức,
về thực hiện pháp luật đối với Viên chức ở một số bệnh viện trên địa bàn thành
phố Cao Lãnh nhƣ: Bệnh viện Y học Cổ truyền, Bệnh viện Quân Dân y, Bệnh

viện Phục hồi Chức năng. Trên cơ sở đối chiếu, so sánh với việc thực hiện pháp
luật về Viên chức trong các bệnh viện trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, luận
văn đã tổng kết đƣợc những kinh nghiệm quý báu mà Bệnh viện Đa khoa Đồng
Tháp có thể tiếp thu trong việc thực hiện pháp luật về Viên chức tại đơn vị;
Luận văn đã đƣa ra và phân tích những quan điểm mới, xây dựng những
giải pháp và kiến nghị mới, thiết thực nhằm bảo đảm quá trình thực hiện pháp
luật về Viên chức trong ngành Y tế đạt hiệu quả cao, đáp ứng kịp thời tính đặc
thù, yêu cầu nghề nghiệp của Viên chức trong ngành Y tế, xu thế và sự phát
triển của bệnh viện, của xã hội.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
Bổ sung và phát triển về mặt lý thuyết những vấn đề lý luận cơ bản đối
với thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế, tạo cơ sở khoa học cho
việc nghiên cứu nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Viên chức nói
chung, Viên chức trong ngành Y tế tại các bệnh viện cơng lập nói riêng. Đồng
thời, những luận cứ dựa trên sự phân tích, đánh giá của luận văn còn là cơ sở
đáng tin cậy để đối chiếu và điều chỉnh thực tiễn thực hiện pháp luật về Viên
chức trong ngành Y tế;
5


Luận văn cũng có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
phổ biến, tập huấn các vấn đề về thực hiện pháp luật Viên chức trong ngành Y tế
tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, là tài liệu tham
khảo hữu ích, cung cấp những tri thức khoa học, thiết thực cho các tác giả sau
nghiên cứu về chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật, các số
liệu cụ thể cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với việc nghiên
cứu và thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế tại các bệnh viện.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục viết tắt và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng.


6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ VIÊN CHỨC TRONG NGÀNH Y TẾ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến thực hiện pháp luật về Viên chức
trong ngành Y tế
1.1.1.Khái niệm Viên chức và Viên chức trong ngành Y tế
1.1.1.1 Khái niệm Viên chức
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hịa, thuật ngữ
Cơng chức, Viên chức chƣa đƣợc sử dụng, thay vào đó là thuật ngữ nhân viên,
đƣợc thể hiện tại các Điều 37, 47, 51, 52. Điều 52 Hiến pháp năm 1946 quy định
Chính phủ có quyền hạn Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ
quan hành chính hoặc chun mơn. Thuật ngữ nhân viên cịn đƣợc sử dụng để
phân biệt các đối tƣợng khác nhau phục vụ tại các cơ quan Nhà nƣớc.
Chế độ Công chức dần đƣợc thay thế bằng chế độ Cán bộ, Công nhân Viên
chức, bao gồm tất cả những ngƣời làm việc trong các cơ quan Nhà nƣớc, cơ
quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế Nhà nƣớc. Tất cả đều thuộc biên
chế Nhà nƣớc, hƣởng lƣơng theo những thang bậc định sẵn và đƣợc gọi là Cán
bộ, Công nhân Viên chức Nhà nƣớc chung chung, không phân biệt ai là Cán bộ,
Công chức, Viên chức. Điều này đƣợc thể hiện tại Điều 6 Hiến pháp năm 1959:
Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân
chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân.
Đến Hiến pháp 1980, thuật ngữ nhân viên Nhà nƣớc bắt đầu đƣợc sử dụng
chính thức, đƣợc thể hiện tại các Điều 8, 10, 12, 59. Điều 8 Hiến pháp năm
1980 quy định: Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến

và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghiêm
cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Điều 12 quy định: Tất cả
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên các tổ
chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
7


pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm, các việc
làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật hoặc quy định tại Điều 59: Công nhân,
Viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng
quyền lợi bảo hiểm xã hội. Nhƣ vậy, những ngƣời làm việc trong các cơ quan,
tổ chức Nhà nƣớc đƣợc gọi là Cán bộ, Viên chức trừ đối tƣợng là công nhân.
Thuật ngữ “Viên chức” đã đƣợc nêu trong Hiến pháp năm 1992. Điều 8
Hiến pháp quy định: Các cơ quan Nhà nước, Cán bộ, Viên chức Nhà nước phải
tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng. Nhƣ vậy, Hiến
pháp quan niệm những ngƣời phục vụ trong các cơ quan, tổ chức Nhà nƣớc bao
gồm Cán bộ, Viên chức. Thuật ngữ “Viên chức” đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng
gồm tất cả những ngƣời trong biên chế của các cơ quan, tổ chức sự nghiệp của
Nhà nƣớc thực hiện các công việc của cơ quan, tổ chức đó.
Để thực hiện và cụ thể hoá Hiến pháp, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh Cán bộ, Công chức (năm 1998). Tuy nhiên Pháp lệnh lại không
đi theo hƣớng sử dụng thuật ngữ “Cán bộ, Viên chức” Nhà nƣớc mà chỉ dùng
thuật ngữ “Cán bộ”, “Cơng chức” nói chung và Pháp lệnh cũng không đƣa ra
định nghĩa riêng cho từng đối tƣợng “Cán bộ”, “ Công chức”.
Năm 2003, Pháp lệnh Cán bộ, Công chức đƣợc sửa đổi, bổ sung, thuật ngữ
“Viên chức” xuất hiện và có sự phân biệt nhất định với “Cơng chức”. Theo đó,
Viên chức là: Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch Viên
chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp

của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (điểm d, khoản 1,
Điều 1 của Pháp lệnh). Trong thời kỳ này, Viên chức vẫn là một “bộ phận”
thuộc phạm vi “Cán bộ, Công chức”.
Năm 2008, Luật Cán bộ, Công chức đƣợc ban hành chỉ điều chỉnh những
quan hệ xã hội liên quan tới đối tƣợng mà luật gọi là “Cán bộ, Công chức”,
không đề cập tới những đối tƣợng mà trƣớc đây đƣợc gọi là “Viên chức”.
Năm 2010, Luật Viên chức ra đời, tách “Viên chức” ra khỏi đối tƣợng “Cán
8


bộ, Công chức”. Viên chức đƣợc quy định tại Điều 2 Luật Viên chức là: Công
dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp
công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Và theo khoản 1, Điều 3 Luật
Viên chức thì: Viên chức quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý
có thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số
công việc trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là Công chức và
được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý. Từ quy định này, Viên chức có những đặc
điểm phân biệt với Cán bộ, Công chức qua lao động của họ nhƣ sau:
Thứ nhất, lao động của Viên chức là hoạt động mang tính nghề nghiệp
nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con ngƣời. Đây là những dịch vụ
chăm lo, bảo đảm về thể lực, trí tuệ, văn hóa, tinh thần của ngƣời dân, gắn với
nhu cầu cá nhân mỗi con ngƣời trong xã hội.
Thứ hai, lao động của Viên chức đƣợc thực hiện thông qua hoạt động của
các tổ chức, đơn vị sự nghiệp chuyên ngành và theo các tiêu chuẩn chuyên môn
thống nhất.
Thứ ba, lao động của Viên chức nhằm cung cấp cho ngƣời dân sản phẩm
phi hiện vật, đƣợc thực hiện bởi những đơn vị sự nghiệp công lập, thể hiện trách
nhiệm của Nhà nƣớc trong quá trình cung cấp các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho
đại đa số ngƣời dân và các nhu cầu cung cấp có thu phí hoặc lệ phí nhƣng khơng

hồn tồn theo cơ chế thị trƣờng.
Thứ tư, lao động của Viên chức khơng mang tính quyền lực Nhà nƣớc.
Hoạt động lao động của họ đƣợc xã hội thừa nhận và khẳng định là hoạt động
nghề nghiệp.
Thứ năm, hoạt động nghề nghiệp của Viên chức mang tính nghề nghiệp
và chun mơn cao, địi hỏi tính trách nhiệm, sự tận tụy, cần tn thủ các quy
định của đạo đức nghề nghiệp và pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm Viên chức trong ngành Y tế
Theo Nghị định số 63/2012/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế. Tại Điều 1, vị trí và chức
9


năng của Bộ Y tế quy định: Bộ Y tế là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về Y tế, bao gồm các lĩnh vực: Y tế dự phòng; khám
bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y tâm
thần; y dược cổ truyền; sức khỏe sinh sản; trang thiết bị Y tế; dược; mỹ phẩm;
an toàn thực phẩm; bảo hiểm Y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình; quản lý Nhà
nước các dịch vụ cơng trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ.
Theo quy định trên và từ đặc điểm của Viên chức có thể thấy:
Viên chức trong ngành Y tế là những ngƣời đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm
vào một ngạch Viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thƣờng xuyên trong hệ
thống Y tế Việt Nam từ Trung ƣơng xuống địa phƣơng;
Viên chức trong ngành Y tế hƣởng lƣơng từ ngân sách Nhà nƣớc.
Có thể nói Viên chức trong ngành Y tế bao gồm những ngƣời cung cấp
dịch vụ Y tế, ngƣời làm công tác quản lý và cả nhân viên giúp việc mà không
trực tiếp cung cấp các dịch vụ Y tế. Theo đó Viên chức trong ngành Y tế đƣợc
xác định là một trong những khối xây dựng cốt lõi của một hệ thống Y tế bao
gồm bác sĩ, điều dƣỡng, nữ hộ sinh, nhân viên Y tế công cộng, kỹ thuật viên y,
quản lý hành chính, cử nhân luật, kế toán viên, hộ lý, văn thƣ, nhân viên xã hội

về sức khỏe… và hợp đồng theo Nghị định 68/2012/NĐ-CP; những ngƣời có thể
khơng cung cấp dịch vụ trực tiếp nhƣng họ góp phần quan trọng trong việc thực
hiện hầu hết chức năng hệ thống Y tế. Trên cơ sở quan niệm về Viên chức nói
chung thì Viên chức trong ngành Y tế là công dân Việt Nam đƣợc tuyển dụng
theo vị trí việc làm, làm việc tại các cơ sở Y tế công lập theo chế độ hợp đồng
làm việc, hƣởng lƣơng từ quỹ lƣơng của ngân sách Nhà nƣớc mà Sở Y tế giao
số lƣợng biên chế về các đơn vị trực thuộc.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Viên chức 2010, các bộ, cơ quan
ngang bộ đƣợc giao quản lý Nhà nƣớc về các lĩnh vực hoạt động của Viên chức
sẽ phải phối hợp với Bộ Nội Vụ quy định cụ thể tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp. Mỗi bộ tiêu chuẩn quy định cụ thể về các nội dung: Mã số, phân hạng
chức danh nghề nghiệp; Tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp; Nhiệm vụ; Tiêu chuẩn
về trình độ đào tạo, bồi dƣỡng; Tiêu chuẩn năng lực, chuyên môn nghiệp vụ
10


cũng nhƣ hƣớng dẫn bổ nhiệm và xếp lƣơng theo chức danh nghề nghiệp. Cụ thể
đối với ngành Y tế gồm có:
Thơng tƣ liên tịch số 10/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 27 tháng 5 năm
2015 của Bộ trƣởng Bộ Y tế và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y học dự phịng, y sĩ:
Thơng tƣ liên tịch số 26/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 7 tháng 10 năm
2015 của Bộ trƣởng Bộ Y tế và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp điều dƣỡng, hộ sinh, kỹ thuật y.
Thông tƣ liên tịch số 11/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 27 tháng 5 năm
2015 của Bộ trƣởng Bộ Y tế và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp Y tế công cộng:
Thông tƣ liên tịch số 27/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07 tháng 10 năm
2015 của Bộ trƣởng Bộ Y tế và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp dƣợc:

Thông tƣ liên tịch số 28/2015/TTLT-BYT-BNV ngày 07 tháng 10 năm
2015 của Bộ trƣởng Bộ Y tế và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp dinh dƣỡng:
Viên chức trong ngành Y tế ngoài những đặc điểm của Viên chức nói
chung cịn mang những đặc điểm riêng nhƣ sau:
Thứ nhất, hoạt động của Viên chức trong ngành Y tế liên quan trực tiếp
đến sức khỏe nhân dân, tính mạng người bệnh và địi hỏi nhiều lao động, do đó:
Việc cung ứng các dịch vụ Y tế địi hỏi một đội ngũ Viên chức trong
ngành Y tế đủ lớn. Bởi trong cung ứng mỗi dịch vụ Y tế, ít nhất cần có sự tiếp
xúc riêng trực tiếp giữa Viên chức trong ngành Y tế và ngƣời bệnh. Trong
những ca phức tạp có thể cần tới cả một tập thể Viên chức trong ngành Y tế với
các thành phần khác nhau dành riêng cho việc chăm sóc cho một ngƣời bệnh.
Lao động trong môi trƣờng không thuận lợi, không phù hợp với tâm lý
con ngƣời. Tiếp xúc với ngƣời bệnh đau đớn, bệnh tật, độc hại, lây nhiễm, hoá
chất, chất thải môi trƣờng bệnh viện. Là lao động cực nhọc căng thẳng , chịu sức
ép nặng nề của dƣ luận xã hội, thái độ hành vi không đúng của ngƣời bệnh và
11


thân nhân bệnh nhân khi không thoả mãn nhu cầu của họ trong khi điều kiện đáp
ứng khơng có và ngƣời thầy thuốc không thể thực hiện đƣợc.
Lao động của Viên chức trong ngành Y tế là loại lao động ln tiếp xúc
với những ngƣời có sức khỏe về thể chất và tinh thần khơng bình thƣờng. Vì vậy
họ buồn phiền, cáu gắt dễ có phản ứng phức tạp, nếu nhƣ trình độ nhận thức
hiểu biết chƣa tốt, thiếu giáo dục, thiếu bản lĩnh thì họ sẽ có những hành vi
không đúng mực đối với thầy thuốc - những ngƣời đang tìm cách cứu sống họ.
Thứ hai, đào tạo Viên chức trong ngành Y tế cần sự đầu tư lớn và liên tục.
Lực lƣợng Viên chức trong ngành Y tế ln phải đƣợc duy trì đáp ứng
nhu cầu gia tăng theo dân số. Ngoài ra, việc đào tạo Viên chức trong ngành Y tế,
và đặc biệt là đội ngũ bác sĩ, cần một khoảng thời gian rất dài với sự kiểm tra

giám sát chặt chẽ và rất tốn kém. Thời gian đào tạo của bác sĩ nội trú là 9 năm,
bác sĩ là 6 năm, dƣợc sĩ là 5 năm; trong khi đó nhiều ngành khác thời gian đào
tạo đại học chỉ từ 4 đến 5 năm.
Các phƣơng pháp phòng ngừa và chữa bệnh cũng có tiến bộ nhanh chóng.
Ngồi ra, các loại máy móc, thiết bị ngày càng hiện đại đòi hỏi Viên chức trong
ngành Y tế phải biết cách sử dụng, thao tác đúng. Do đó, các kỹ năng về sử dụng
các loại thiết bị Y tế cũng phải đƣợc cập nhật, hoàn thiện. Việc đào tạo liên tục
và không ngừng nâng lên của đội ngũ Viên chức trong ngành Y tế cịn là vì địi
hỏi ngày càng cao của ngƣời dân về chất lƣợng phục vụ và điều trị.
Thứ ba, Viên chức trong ngành Y tế có đặc thù riêng về đạo đức nghề
nghiệp.
Ở Việt Nam, ngành Y tế lúc nào cũng nhắc đến lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là “Lƣơng y nhƣ từ mẫu”. Ðó là một nghề đặc biệt, địi hỏi hiểu biết
sâu rộng, phải có lịng nhân ái, dám chịu đựng vất vả, hy sinh để cứu ngƣời.
Nghề y là một nghề cao quý, đƣợc xã hội tôn trọng trƣớc hết bởi vì có nhiệm vụ
chữa bệnh cứu ngƣời, bảo vệ sự sống và nâng cao sức khỏe của nhân dân. Tuy
nhiên, nghề y cũng nhƣ đội ngũ Viên chức trong ngành Y tế phải chịu sự phán
xét cao của dƣ luận xã hội khi xảy ra những sai sót trong chuyên môn, tai biếng
y khoa và đạo đức nghề nghiệp.
12


Thứ tư, Viên chức trong ngành Y tế chịu ảnh hưởng bởi đặc thù ngành Y
tế.
Tình hình sức khỏe và các can thiệp Y tế luôn luôn chứa đựng nhiều rủi ro
và sự không chắc chắn. Bản chất không chắc chắn nói trên địi hỏi tăng cƣờng
các cơ hội chia sẻ kinh nghiệm lâm sàng, nhƣng cũng đòi hỏi giám sát và điều
tra khi nào có tai biến xảy ra nhằm rút kinh nghiệm và giúp cải tiến quá trình ra
quyết định của các thầy thuốc đang đối mặt với nhiều sự khơng chắc chắn.
Ngồi ra, Viên chức trong ngành Y tế chịu áp lực về thời gian và môi trƣờng

làm việc (đôi khi làm việc liên tục 24/24 giờ; trực đêm, trực vào các dịp lễ, tết;
nhất là ở các bệnh viện quá tải); môi trƣờng làm việc độc hại (dịch bệnh, truyền
nhiễm, phóng xạ,…)
Thứ năm, Viên chức trong ngành Y tế địi hỏi sự kiểm sốt của Nhà nước
ở mức độ cao.
Bản chất đặc thù của ngành Y tế cần phải sử dụng nhiều lao động và nhu
cầu đầu tƣ lớn cho Viên chức trong ngành Y tế, do đó địi hỏi sự kiểm sốt, quan
tâm của Nhà nƣớc trong việc lập kế hoạch và điều phối các nguồn lực hỗ trợ.
Phƣơng pháp giáo dục, thuyết phục đƣợc áp dụng chủ yếu trên cơ sở đặc
thù của ngành Y tế là nhân đạo, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con
ngƣời nên phải đặc biệt coi trọng giáo dục tƣ tƣởng về hành nghề y trên cơ sở y
đức, y đạo. Đây là phƣơng pháp luôn đƣợc đặt lên hàng đầu, phải làm thƣờng
xuyên, liên tục và nghiêm túc.
Tóm lại, qua sự phân tích nói trên tác giả mạnh dạn đƣa ra khái niệm về
Viên chức trong ngành Y tế nhƣ sau: Viên chức trong ngành Y tế là một bộ phận
của đội ngũ Viên chức nói chung, bao gồm đội ngũ quản lý Y tế mà không phải
là Công chức, Viên chức được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp thuộc lĩnh
vực Y tế, Viên chức không trực tiếp làm công tác chuyên môn, làm việc tại các
khoa, phòng, trực thuộc các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật và thực hiện pháp luật về Viên chức trong
13


ngành Y tế
* Pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế:
Pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế xác định là tổng hợp các văn bản
quy phạm pháp luật có mối quan hệ thống nhất nội tại do chủ thể có thẩm quyền
ban hành và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên
quan đến Viên chức trong ngành Y tế, bao gồm các quy định về pháp lý của

Viên chức; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dƣỡng Viên chức; chức danh, vị trí
việc làm của Viên chức; các chế độ, chính sách đối với Viên chức; đánh giá, xếp
loại Viên chức; thanh tra, kiểm tra, khen thƣởng, xử lý vi phạm đối với Viên
chức trong ngành Y tế và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với việc
xây dựng và phát triển đội ngũ Viên chức trong ngành Y tế.
* Thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế:
Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân do
Nhân dân và vì Nhân dân. Nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt theo pháp luật, vì
vậy Nhà nƣớc phải ban hành pháp luật và đồng thời tổ chức thực hiện pháp
luật phải đồng thời với việc tăng cƣờng pháp chế, tăng cƣờng sự ngự trị của
pháp luật đối với mọi cơ quan tổ chức cá nhân trong xã hội. Tăng cƣờng pháp
chế đồng nghĩa với tăng cƣờng tổ chức thực hiện pháp luật. Pháp chế là chế
độ của đời sống chính trị xã hội trong đó Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp
luật. Các cơ quan Nhà nƣớc, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị kinh tế và mọi công dân đều phải tôn
trọng thực hiện Hiến pháp, pháp luật. Mọi vi phạm Hiến pháp, pháp luật đều
bị xử lý theo Hiến pháp và pháp luật.
Về phƣơng diện lý luận thực hiện pháp luật đã đƣợc nghiên cứu tổng kết
và đúc kết trong giáo trình lý luận chung về Nhà nƣớc và pháp luật của các
trƣờng đại học, cao đẳng chuyên ngành Luật. Trên cơ sở coi pháp luật là ở dạng
lý thuyết, hệ thống quy phạm pháp luật ghi trên hệ thống văn bản luật (nhƣ Hiến
pháp, luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, thông tƣ, quyết định…) Còn thực hiện
pháp luật là hành vi pháp lý của con ngƣời thể hiện trong hoạt động của con
ngƣời trong đời sống xã hội. Vì thế khái niệm thực hiện pháp luật đƣợc hiểu
14


khá thống nhất: Đó là khái niệm: Thực hiện pháp luật là hoạt động có ý thức
có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật làm cho chúng đi
vào cuộc sống trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể của pháp

luật.
Nhƣ vậy thực hiện pháp luật là hoạt động của con ngƣời, từ ý thức pháp
luật chỉ đạo hành vi (hành động hay không hành động) của chủ thể trong các
quan hệ pháp luật. Thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau trong các
quan hệ pháp luật khác nhau, bởi quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống
do các quan hệ pháp luật cụ thể điều chỉnh. Thực hiện pháp luật là hành vi thể
hiện ra ngoài cuộc sống, tổng hợp các hành vi pháp luật với quy định của pháp
luật là đời sống của pháp luật.
Từ khái niệm thực hiện pháp luật nói chung có thể đƣa ra khái niệm riêng
về việc thực hiện pháp luật đối với Viên chức trong ngành Y tế nhƣ sau: Thực
hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế là q trình hoạt động mang tính ý
thức, có chủ định của cơ quan, tổ chức, cá nhân làm cho các quy phạm pháp
luật về Viên chức trong ngành Y tế đi vào cuộc sống nhằm thực hiện một cách
có hiệu quả các quy định của pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế từ thực
tiễn.
1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế là một bộ phận cấu thành của
chế định pháp luật về Viên chức nói chung. Do đó, ngồi các đặc điểm của pháp
luật nói chung, pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế có những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế thể chế hóa trách
nhiệm của Nhà nƣớc đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ Viên chức
trong ngành Y tế đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, nhằm tạo điều kiện cho Viên chức trong ngành Y tế tự do phát
triển nghề nghiệp, dân chủ hóa hoạt động quản lý đội ngũ Viên chức trong
ngành Y tế. Đó là các quy định về pháp lý của Viên chức trong ngành Y tế, quy
định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dƣỡng, chính sách, khen
15



thƣởng... đối với Viên chức trong ngành Y tế.
Thứ hai, pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế trực tiếp bảo đảm
quyền con ngƣời, dân chủ và bảo đảm công bằng xã hội trong ngành Y tế.
Pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của Viên chức, bảo đảm sự tự do hoạt động nghề nghiệp của Viên chức trong
ngành Y tế, để Viên chức trong ngành Y tế có cơ hội cống hiến, tận tâm, đam
mê với nghề, bảo đảm công bằng xã hội trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh,
trong tham gia vào chăm sóc bệnh nhân, bảo đảm quyền lợi cho nhân dân đến
khám bệnh và điều trị bệnh, bình đẳng trong đối xử của thầy thuốc đối với bệnh
nhân và thân nhân bệnh nhân.
Thứ ba, pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế gắn với đổi mới cơ chế
hoạt động của các bệnh viện công lập theo hƣớng tự chủ và tự chịu trách nhiệm
trong các lĩnh vực chuyên môn, tuyển dụng, đào tạo, tổ chức, nhân sự và tài
chính,…; xóa bỏ cơ chế chủ quản; bảo đảm vai trò kiểm tra, giám sát của cộng
đồng; phát huy vai trị của các đồn thể, tổ chức quần chúng trong việc giám sát
chất lƣợng khám bệnh, chữa bệnh.
Thứ tư, pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế bảo đảm tƣơng quan
giữa điều chỉnh pháp luật với điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức và các quy
phạm xã hội khác. Nhằm thực hiện đƣợc vai trò là phƣơng tiện điều chỉnh hàng
đầu pháp luật cần có sự hỗ trợ của các quy phạm xã hội khác, đặc biệt là đạo đức
truyền thống và đạo đức tiến bộ. Điều đó địi hỏi mỗi cá nhân, dù ở cƣơng vị
nào, trong điều kiện hoàn cảnh nào, cũng cần phải ý thức đƣợc về bản thân, ý
thức đƣợc nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với ngƣời khác và đối với xã hội.
Đặc biệt là ngành Y tế, phải có y đức, giao tiếp, ứng xử với nhân dân phải xứng
đáng với câu “Lƣơng y nhƣ từ mẫu”.
1.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Các qui phạm pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế có số lƣợng rất lớn với
nhiều nội dung phong phú. Vì thế, hình thức thể hiện pháp luật về Viên chức

16


trong ngành Y tế cũng rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, có thể
xác định thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế bao gồm các hình
thức: tuân theo pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng
pháp luật.
1.1.3.1. Thi hành pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế)
là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. (Ví dụ: Viên chức trong
ngành Y tế phải có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tƣ; có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong hoạt động nghề
nghiệp; thực hiện đúng các quy định, nội quy, quy chế làm việc của đơn vị; tu
dƣỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, thực hiện tốt y đức, quy tắc ứng xử của
Viên chức...)
1.1.3.2. Tuân thủ pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
Ở hình thức thực hiện này địi hỏi chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động,
thực hiện các quy phạm pháp luật dƣới dạng không hành động.
Nhƣ vậy, tuân thủ pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế là một hình
thức thực hiện pháp luật, trong đó u cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân không
tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. (Ví dụ, Viên chức khơng đƣợc
trốn tránh trách nhiệm, thối thác cơng việc hoặc nhiệm vụ đƣợc giao; gây bè
phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc; tham gia đình cơng; lợi dụng hoạt động nghề
nghiệp để tuyên truyền chống lại chủ trƣơng đƣờng lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nƣớc hoặc gây phƣơng hại đối với thuần phong, mỹ tục, đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và xã hội; Giám đốc bệnh viện không đƣợc
đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng làm việc với Viên chức trong các trƣờng hợp

Viên chức đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc riêng và những trƣờng hợp nghỉ
khác đƣợc Giám đốc cho phép hoặc Viên chức nữ đang trong thời gian có thai,
nghỉ thai sản, nuôi con dƣới 36 tháng tuổi, trừ trƣờng hợp bệnh viện ngừng hoạt
17


động)
1.1.3.3. Sử dụng pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ
thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà
pháp luật cho phép). Có nghĩa là các chủ thể của phòng, chống tệ nạn xã hội
phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong khn khổ pháp luật quy định.
Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực
hiện hoặc khơng thực hiện quyền đƣợc pháp luật cho phép theo ý chí của mình
chứ khơng bị bắt buộc phải thực hiện.
Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, có thực sự đi vào cuộc sống
đạt hiệu quả cao khi tất cả những quy định của nó đều đƣợc thực hiện chính xác,
triệt để. Nhƣng nếu chỉ thơng qua các hình thức tuân theo, thi hành và sử dụng
pháp luật thì sẽ có nhiều các quy phạm pháp luật khơng thể thực hiện, Bởi nó
cịn tuỳ thuộc vào sự nhận thức, ý thức chấp hành của các chủ thể thực hiện
pháp luật, hoặc họ không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của các
cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền. Khi đó cần phải có hoạt động áp dụng pháp
luật.
Nhƣ vậy, sử dụng pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế là một hình
thức thực hiện pháp luật mà ở đó các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện những
hành vi mà pháp luật cho phép. (Ví dụ, Viên chức đƣợc đăng ký thi hoặc xét
thay đổi chức danh nghề nghiệp nếu bệnh viện có nhu cầu và đủ điều kiện, tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật; Viên chức đƣợc cử tham gia đào tạo, bồi
dƣỡng và đƣợc hƣởng tiền lƣơng và phụ cấp theo quy định của pháp luật và quy
chế của bệnh viện).

1.1.3.4. Áp dụng pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó, Nhà nƣớc thông qua các cơ
quan Nhà nƣớc hoặc cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho Cán bộ, Cơng chức,
Viên chức, ngƣời lao động trong ngành Y tế thực hiện các quy định của pháp
luật Viên chức, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định pháp luật về Viên chức để
tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những
18


quan hệ pháp luật liên quan đến Viên chức. Ở hình thức này, các chủ thể thực
hiện các quy định pháp luật về Viên chức ln có sự can thiệp của cơ quan Nhà
nƣớc hay cá nhân có thẩm quyền.
Hoạt động áp dụng pháp luật Viên chức trong ngành Y tế đƣợc tiến hành
trong những trƣờng hợp cụ thể sau:
Một là, khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những Viên chức,
ngƣời lao động trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh vi phạm pháp luật.
Hai là, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của Viên chức không mặc
nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nƣớc.
Ba là, đối với một số quan hệ pháp luật quan trọng mà Nhà nƣớc thấy cần
thiết phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào
quan hệ pháp luật Viên chức.
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
1.2.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế
1.2.1.1. Vai trò, trách nhiệm của các chủ thể thực hiện pháp luật về Viên
chức trong ngành Y tế
Việc thực hiện pháp luật về Viên chức trong ngành Y tế chỉ có thể thực
hiện tốt khi vai trị, trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp
luật về Viên chức trong ngành Y tế đƣợc phát huy đầy đủ, đúng đắn và kịp thời.
Ở nƣớc ta hiện nay, các chủ thể của thực hiện pháp luật về Viên chức
trong ngành Y tế đƣợc thể hiện cụ thể nhƣ sau:

Tổ chức Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc
và xã hội, lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Do đó, các
tổ chức Đảng trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cơng lập giữ vai trị quan
trọng, có tác động rất lớn đối với việc thực hiện pháp luật về Viên chức, thông
qua các hoạt động của Đảng ủy, chi bộ trực thuộc cũng nhƣ các hoạt động tích
cực, gƣơng mẫu của các đảng viên là cán bộ chủ chốt của đơn vị, Viên chức,
ngƣời lao động trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Chính phủ: là cơ quan thống nhất quản lý Nhà nƣớc về Viên chức. Chính
phủ là cơ quan hành chính Nhà nƣớc cao nhất của nƣớc ta, là cơ quan chấp hành
19


×