Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài: ......................................................................................
2. Mục đích của đề tài: ................................................................................ 3
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu .................................... 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan. ....... 4
3.2. Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục của giáo viên trường THCS4
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................ 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4
7. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu.........................................................5
8. Cấu trúc đề tài ......................................................................................... 5
CHƯƠNG I .................................................................................................. 6
LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP - KINH NGHIỆM GIÁO DỤC .................... 6
HỌC SINH CHƯA NGOAN CỦA GIÁO VIÊN ....................................... 6
1. 1 Biện pháp - Kinh nghiệm ..................................................................... 6
1. 2. Giáo dục ............................................................................................... 6
1. 3. Học sinh chưa ngoan .......................................................................... 6
1. 4. Giáo viên THCS: Người dạy học ở bậc phổ thông ............................. 6
Tiểu kết chương I ....................................................................................... 6
CHƯƠNG II ................................................................................................ 7
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN TIẾN BỘ
7
2.1. Vài nét về trường ................................................................................. 7
2.2 Thực trạng học sinh chưa ngoan .......................................................... 8
2.2.1. Biểu hiện của học sinh chưa ngoan .................................................. 8
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chưa ngoan của học sinh ............... 8
2.3. Các biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan mà giáo viên nhà
trường đã thực hiện ................................................................................... 11
2.3.1. Các giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm đã quan tâm đến công
tác giáo dục học sinh .............................................................................. 11
2.3.2.Cụ thể: Giáo viên chủ nhiệm đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau
để giáo dục học sinh ............................................................................... 14
1/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng các biện pháp đã sử dụng ................ 19
2.3.3.1. Ưu điểm .................................................................................. 19
Nhờ có sự phối kết hợp nhiều biện pháp giáo dục khác nhau nên số
lượng học sinhchưa ngoan trong trường mỗi năm một giảm. .............. 19
2.3.3.2.Tồn tại: .................................................................................... 19
CHƯƠNG III .............................................................................................. 20
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN TIẾN BỘ ............. 20
3.1. Định hướng đề xuất biện pháp cho việc thực hiện các biện pháp . .. 20
3.1.1. Biết lắng nghe: ............................................................................... 20
3.1.2. Biết quan tâm. ................................................................................ 20
3.1.3. Có uy tín ........................................................................................ 20
3.1.4. Động viên và định hướng. .............................................................. 21
3.1.5. Là người bạn lớn ............................................................................ 21
3.1.6. Nghiêm khắc...................................................................................21.
3.1.7. Vui tính.............................................................................................21
3.1.8. Đặt chữ “tâm” lên hàng đầu ........................................................... 21
3.2. Các biện pháp của giáo viên trong việc giáo dục học sinh cá biệt .... 27
3.2.1. Giáo dục HSCN dựa vào các tiêu chí xếp loại hạnh kiểm của nhà
trường ...................................................................................................... 27
3.2.2. Giáo dục HSCN thông qua giờ sinh hoạt lớp ................................. 28
3.2.3. Phối kết hợp với hội cha mẹ để giáo dục học sinh ......................... 28
3.2.4. GVCN phối hợp với đoàn thể lực lượng khác trong xã hội ............ 28
3.2.5. Dùng phương pháp kết bạn ............................................................ 29
3.2.6. Dùng phương pháp “tấm gương”...........................................................29
3.2.7. Kết hợp với Ban giám hiệu (BGH) và giáo viên bộ mơn .................. 30
3.3.Ví dụ minh họa. ................................................................................... 30
KẾT LUẬN ................................................................................................ 35
1.Những bài học kinh nghiệm ................................................................... 38
2. Ý nghĩa của SKKN ................................................................................ 39
3. Khả năng ứng dụng và triển khai...........................................................35
4. Những khuyến nghị..................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 37
2/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu giáo dục của bậc THCS là “ … Tiếp tục phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ , thể chất , thẫm mỹ và các kỹ năng cơ bản của nhân cách con
người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa có trình độ học vấn THCS và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học PTTH, THCN, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống ”.
Vấn đề đặt ra là trường THCS có nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển
trở thành con người hữu ích cho xã hội và trước tiên là phát triển về mặt nhân
cách .
Về mặt nhân cách, hay nói cụ thể hơn là đạo đức, hạnh kiểm học sinh
(HS) phải được hình thành trên cơ sở tự rèn luyện của bản thân học sinh ngay
trên ghế nhà trường THCS. Đó là ý thức học tập nghiêm túc, chấp hành đúng
nội qui lớp học, trường học, chấp hành đúng pháp luật.
Nhưng thực trạng hiện nay, ở hầu hết các trường THCS đều xuất hiện
một bộ phận HS không chấp hành tốt nội qui nhà trường, học tập không
nghiêm túc …làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của nhà trường
và chất lượng học tập giảm sút . Số HS này thường được gọi là học sinh chưa
ngoan (cá biệt )( HSCB ) có xu hướng phát triển. Nhà trường, giáo viên cũng
đã có nhiều biện pháp uốn nắn, giáo dục nhưng chưa có hiệu quả. Đây đó
vẫn thường xuyên bị phản ánh về việc học sinh tụ tập đánh nhau mà với cả
HS nữ! Rồi những điều không hay như quay video đánh nhau tung lên
mạng…..
Trước tình hình vậy, là một trong những giáo viên dạy mơn chính lúc
nào cũng vinh dự được giao trọng trách chủ nhiệm – mà chủ nhiệm là người
gần gũi và hiểu các em hơn rất nhiều nên bản thân trăn trở và cố tìm ra biện
pháp tối ưu nhằm giáo dục HS chưa ngoan trở thành con ngoan, trò giỏi.
Với phạm vi bài viết này, bản thân đề xuất một số biện pháp để giáo
dục HSCN , mong tìm ra giải pháp tháo gỡ tình hình HSCN trong trường học,
biến những học sinh đó thành những học sinh đặc biệt như đúng nghĩa của
HSCB = cá tính + đặc biệt .
Vì vậy sau nhiều năm chủ nhiệm liên tục một lớp ( từ 6-8), cũng như chủ
nhiệm các lớp khác, tôi đã mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp và được sự
giúp đỡ của họ cũng như BGH, chúng tôi mạnh dạn quyết định nghiên cứu đề
tài “ Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ” .
Hy vọng bằng những kinh nghiệm tơi đã tích lũy được trong thực tiễn, tôi xin
chia sẻ với các bạn đồng nghiệp nhằm góp phần đáng kể vào việc ngăn chặn
sự gia tăng về số lượng học sinh cá biệt trong các nhà trường,góp phần xây
dựng nền giáo dục nước ta ngày càng lớn mạnh.
3/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
2. Mục đích của đề tài:
Việc giáo dục nhân cách cho học sinh, đặc biệt là công tác giáo dục học
sinh chưa ngoan, là việc làm không thể thành công trong một sớm một chiều,
bởi giáo dục là cả một quá trình. Quá trình này phải thực hiện xuyên suốt từ
các cấp học: Bậc mầm non là giáo dục lễ giáo, bậc tiểu học là môn đạo đức,
bậc trung học là môn giáo dục công dân. Thế nhưng vấn đề đạo đức học sinh
hiện nay đang là sự lo lắng, bức xúc của tồn xã hội.
Nhìn lại và so sánh tình hình chung về đạo đức của học sinh những năm
90 cùng với thực tế những năm công tác, tôi nghiên cứu đề tài này nhằm hạn
chế số lượng học sinh chưa ngoan của lớp chủ nhiệm. Qua đó góp phần kéo
giảm tỷ lệ học sinh vi phạm đạo đức ở nhà trường đến ngoài xã hội. Đồng
thời cũng qua nghiên cứu này nhằm nâng cao nghiệp vụ công tác của bản
thân và cũng để chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ.
3.2. Khách thể nghiên cứu:Công tác giáo dục của giáo viên trường THCS
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Giáo dục học sinh cá biệt (chưa
ngoan) tiến bộ.
- Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Trường THCS, Quận Thanh Xuân,
Hà Nội.
- Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục của giáo viên
trường .
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận của vấn đề: biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan.
- Nghiên cứu thực tiễn vấn đề giáo dục học sinh cá biệt ở trường.
- Đề xuất những sáng kiến, những biện pháp mới của bản thân trong quá trình
thực hiện.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận của vấn đề: Nghiên cứu,tìm hiểu và phân tích khái niệm
HSCN .
- Nghiên cứu các tác động thường thấy lên HSCN, cách tháo gỡ…
- Nghiên cứu thực tiễn vấn đề:Điều tra, quan sát, phỏng vấn,……...
- Phương pháp thống kê: Đánh giá kết quả thực hiện đề tài.
4/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
7. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Vận dụng tư tưởng tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
- Sự nhạy bén, linh hoạt trong kết hợp các phương pháp giáo dục học sinh.
- Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu trong giáo dục học sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm là “Người bạn lớn” của học sinh.
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, SKKN gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận về biện pháp giáo dục của giáo viên đối với hoạt
động giáo dục học sinh chưa ngoan.
- Chương II: Thực trạng giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
- Chương III: Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
9. Một số kí hiệu viết tắt trong đề tài:
- GVCN: giáo viên chủ nhiệm.
- HSCN: học sinh chưa ngoan.
- HSCB: học sinh cá biệt.
- BGH: Ban giám hiệu.
- THCS: trung học cơ sở.
- SKKN: sáng kiến kinh nghiệm.
5/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP - KINH NGHIỆM GIÁO DỤC
HỌC SINH CHƯA NGOAN CỦA GIÁO VIÊN
1.1. Biện pháp - Kinh nghiệm
Biện pháp là cách thức xử lí cơng việc hay giải quyết vấn đề.
Muốn có những biện pháp hữu hiệu cần có kinh nghiệm. Kinh nghiệm
là điều hiểu biết có được do tiếp xúc với thực tế, do từng trải. Mà sự hiểu
biết do đã từng trải công việc, đã thấy được kết quả khiến cho có thể phát huy
được mặt tốt và khắc phục được mặt chưa tốt: Có kinh nghiệm mà khơng có
lí luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ (Hồ Chí Minh ); Có thực hành
mới có kinh nghiệm (Trần Văn Giàu).
1.2. Giáo dục
Q trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi
dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự
nhiên và xã hội, cũng như những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong đời sống:
Khơng có, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế, văn hố.
1.3. Học sinh chưa ngoan (cá biệt)
Học sinh chưa ngoan là hậu quả của sự phá vỡ những mối liên hệ
bình thường của HS với gia đình, nhà trường và xã hội. Hiện nay HSCN còn
được gọi với thuật nhiều thuật ngữ như: HSCB, HS hư, khó dạy....
1. 4. Giáo viên THCS:Người dạy học ở bậc phổ thông
Tiểu kết chương I
Như vậy biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan của giáo viên THCS
là vận dụng sự hiểu biết do đã từng trải cơng việc có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho HSCN - những học sinh có sự bất thường về
tính cách, khơng có động cơ học tập, tâm lý không ổn định, thường là những
em xuất thân từ những hoàn cảnh đặc biệt- những phẩm chất đạo đức, những
tri thức cần thiết về tự nhiên và xã hội, cũng như những kĩ năng, kĩ xảo cần
thiết trong đời sống. Mục tiêu chính là các em trở thành “đặc biệt”, con
ngoan tị giỏi... – khơng phải gánh nặng của xã hội nữa!
6/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN TIẾN BỘ
2.1. Vài nét về trường
- Vị trí địa lí:Trường của chúng tôi hiện nay nằm trên địa bàn một
phường thuộc Quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Đây là một phường
có truyền thống hiếu học, từ xưa đã có câu ca : “ Mỗ, La, Canh, Cót / Tứ
danh hương” ( Bốn vùng đất nổi tiếng, có danh tiếng). Và hiện đang có sự
phát triển nhanh về kinh tế trong những năm gần đây của Quận Nam Từ
Liêm.
- Với hơn 50 năm hình thành và phát triển, nhà trường ln nhận được
sự quan tâm của Sở GD-ĐT Hà Nội, Quận ủy, HĐND Quận Nam Từ Liêm,
UBND phường , sự ủng hộ nhiệt tình của cha mẹ học sinh, nhân dân địa
phương. Nhà trường đã được xây dựng khang trang, sạch đẹp với hệ thống cơ
sở vật chất, trang thiết bị hiện đại tiến tới theo chuẩn quốc gia. Chỉ tính riêng
tháng 7 năm 2014, UBND phường đã đầu tư hơn bốn tỉ đồng cho riêng
trường THCS để nâng cấp thêm tầng ba cho hai dãy (thêm 8 phòng học),
trong học kì 1 và đầu học kì 2, PHHS đã xã hội hóa thành cơng – trang bị
tặng nhà trường 12 máy projecter….. đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục của nhà trường.
- Nhiều năm liền Phòng GD-ĐT Hà Nội tổ chức chuyên đề tại trường.
Nhà trường đã tham gia nhiệt tình các phong trào của Ngành và đạt các kết
quả cao. Cụ thể năm nào cũng có tham gia đầy đủ các phong trào, thi GVG,
chiến sĩ thi đua…..Năm học 2014-2015 là một thắng lợi vượt bậc của trường
– BGH đã tích cực chỉ đạo và động viên các GV thi đua lập thành tích. Có 10
GV tham gia thi GVG cấp Quận trong 2 đợt và cả 10 GV đều được công
nhận tiết dạy giỏi!.
Quy mô học sinh của nhà trường ngày càng tăng trong những năm gần
đây: Năm học 2011-2012 là 666 học sinh, năm học 2012-2013 là 673 học
sinh, năm học 2013-2014 là 712 học sinh và năm học 2014-2015 là 859 học
sinh . Đồng thời trong những năm gần đây, học sinh trong nhà trường cũng
đã gặt hái được những thành tích đáng tự hào. Cụ thể là năm nào cũng đứng ở
vị trí cao trong bảng xếp hạng so với các trường công lập trong Quận, có tỉ lệ
học sinh đỗ trường chuyên rất cao ( có năm lên đến 12 học sinh).Riêng năm
2014 – 2015 cũng đạt thành tích rất cao về số HS tham dự và đỗ vào đội
tuyển thi HSG cấp Quận, Thành phố.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đáng kể trên thì trong trường vẫn
cịn một số lượng không nhỏ học sinh cá biệt. Xuất phát từ những hạn chế
trên đòi hỏi đội ngũ giáo viên của nhà trường cần có những biện pháp phù
hợp, hiệu quả nhằm nâng cao tỉ lệ học sinh khá giỏi, giảm thiểu tỉ lệ học sinh
cá biệt trong nhà trường.
7/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
2.2. Thực trạng học sinh chưa ngoan
2.2.1. Biểu hiện của học sinh chưa ngoan thường gặp
Trong các năm học thường học sinh chưa ngoan có các biểu hiện cá
biệt sau:
- Cá biệt về học tập:
+ Là những học sinh có biểu hiện lười biếng, yếu kém hầu hết các môn
học, trong q trình học cịn hay nằm oằn ồi, bị ra trên bàn học.
+ Thường lơ đãng không chú ý nghe giảng, không ghi chép bài, về nhà
không làm bài tập, sách vở luộm thuộm nhàu nát, chữ viết và trình bày cẩu
thả (thậm chí cịn chưa viết được chính xác chính tả).
+ Lực học ngày một sa sút.
+ Trong giờ học thích xin ra ngồi rồi đi chạy nhảy ở hành lang.
- Cá biệt về tính cách:
+ Khơng chấp hành nội quy của lớp, của trường, nghỉ học, bỏ giờ tùy
tiện, ham chơi điện tử, bi-a,...
+ Thành lập băng nhóm gây gổ đánh nhau, bắt nạt bạn bè, có hiện
tượng trộm cắp tiền và tài sản của bạn bè, của nhân dân.
+ Ln ln thể hiện mình là đàn anh, luôn là gánh nặng cho GVCN
và nhà trường.
+ Lúc nào cũng bị các GV bộ môn phản ánh là hỗn, láo.
+ Bị ghi sổ đầu bài trong hầu hết các tiết.
+ Vứt sổ đầu bài.
.....
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chưa ngoan của học sinh
Theo chúng tơi có nhiều nguyên nhân:
- Đặc điểm tâm lý của học sinh THCS:
+ Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ thời kỳ thơ ấu sang tuổi trưởng thành.
+ Thời kỳ lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt
cơ thể. Tầm vóc các em lớn lên nhanh như thổi…Sự phát triển thể chất nhanh
chóng bắt đầu trong giai đoạn chuyển đổi, đánh dấu bằng việc tăng cân, chiều
cao, kích cỡ của tim, dung tích phổi và sức mạnh cơ bắp. Xương phát triển
nhanh hơn bắp thịt và sự phát triển không đồng đều của xương và bắp thịt
đem lại sự thiếu kết hợp và sự vụng về ở các em.
+ Sự phát triển của hệ thống tim mạch của các em cũng khơng cân đối.
Do đó xảy ra một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn: tăng huyết áp, tim
đập nhanh, hay gây nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi khi làm việc, học tập.
+ Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng)
8/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do tác động của những
kích thích gây cho các em tình trạng bị ức chế, hay ngược lại xảy ra tình
trạng bị kích động mạnh. Vì vậy, những chấn động thần kinh mạnh, hoặc
những biến cố, đều có thể tác động mạnh mẽ đến lứa tuổi này, làm cho một
số em bị uể oải, thờ ơ, lơ đễnh, tản mạn, số khác có những hành vi xấu,
khơng đúng bản chất các em.
+ Các em thường lóng ngóng vụng về, khơng khéo léo khi làm việc,
thiếu thận trọng, hay làm đổ vỡ. Điều đó gây cho các em một số biểu hiện
tâm lý khó chịu.
+ Sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi học sinh THCS làm cho các em
có những đặc điểm nhân cách khác với các em lứa tuổi trước. Các em có nghị
lực dồi dào, tính tích cực cao, có nhiều dự định lớn lao.
+ Tuy nhiên quá trình hình thành cái mới thường kéo dài thời gian và
phụ thuộc vào điều kiện sống, hoạt động của các em. Do đó, sự phát triển tâm
lý diễn ra khơng đồng đều về mọi mặt. Điều đó dẫn đến sự tồn tại song song:
“vừa có tính trẻ con, vừa có tính người lớn”.
+ Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi học sinh THCS
là tính tích cực xã hội mạnh mẽ của bản thân các em nhằm lĩnh hội những giá
trị, những chuẩn mực nhất định, nhằm xây dựng những quan hệ thỏa đáng
với người lớn, bạn bè và cuối cùng nhằm vào bản thân, thiết kế và hồn
thiện nhân cách của mình. Bạn cùng tuổi trở thành các chuẩn mực và hình
mẫu để bắt chước. Các em cũng dễ bị ảnh hưởng của người lớn và cố gắng
bắt chước người lớn.
+ Ở lứa tuổi này các em được xã hội thừa nhận như một thành viên tích
cực và được giao cho một số công việc nhất định. Các em muốn làm những
việc mọi người biết đến, làmviệc cùng người lớn, muốn được mọi người thừa
nhận mình là người lớn. Đó là một nhu cầu của các em. Vì thế các em rất tích
cực tham gia các cơng tác ngồi xã hội. Các em thích làm những cơng việc có
tính chất tập thể, những công việc liên quan đến nhiều người và được nhiều
người cùng tham gia.
+ Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng sâu
sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập và sự
hình thành mốiquan hệ qua lại với mọi người. Nhu cầu tự ý thức nẩy sinh từ
nhu cầu cuộc sống, từ hoạt động thực tiễn, từ yêu cầu mong muốn
của tập thể, của người lớn qui định. Từ sự phát triển mối quan hệ với tập thể,
với đời sống xã hội mà học sinh THCS nẩy sinh nhu cầu đánh giá bản thân
mình, tìm kiếm vị trí của mình trong tập thể.
- Do gia đình:
Bác Hồ đã có câu:
“Lành dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
9/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
Câu khác Bác lại khẳng định:
“Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài”
Điều đó muốn nói rằng tính cách của con người, nhất là ở tuổi thiếu
niên chịu ảnh hưởng rất lớn từ điều kiện và hoàn cảnh sống của gia đình.
Ngồi thời gian rất ít ỏi đi học trên lớp còn lại hầu hết thời gian các em sống
với gia đình mà mỗi gia đình lại có hồn cảnh sống khác nhau:
+ Với gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn: bố mẹ mải làm ăn kinh
tế nên trẻ không được quan tâm chăm chút, đôi khi phải phụ giúp bố mẹ làm
kinh tế gia đình khiến học tập bị sa sút, trẻ chán học và dễ hư hỏng.
+ Với gia đình có điều kiện kinh tế khá giả: nhiều gia đình bố mẹ mải
bn bán làm ăn kiếm được nhiều tiền nhưng bận rộn việc kinh doanh và
không chú ư đến việc học hành của con, chỉ đáp ứng nhu cầu tiền bạc cho
con. Vơ tình họ tạo điều kiện cho con cái tiêu tiền quá sớm với nhiều mục
đích khơng cần thiết như: ăn q, sử dụng điện thoại di động, đua đòi về ăn
mặc, chơi bời... khiến trẻ dễ bị phân tâm sao nhãng về học tập, dẫn đến học
kém, chán học, mải chơi, hư hỏng.
- Do mơi trường học tập:
+ Có thể do lớp học quá đông (sĩ số đến 50 học sinh) GVCN không có
điều kiện sâu sát đến từng em.
+ Do sự chọn lọc một số lớp mũi nhọn, đồng trình độ nên có lớp tập
trung nhiều học sinh cá biệt nên các em càng có điều kiện đua nhau (dẹp
được chỗ này chỗ khác lại nổi lên)
+ Do chỗ ngồi trong lớp không phù hợp: Một số học sinh cá biệt ngồi
xa tầm quan sát của giáo viên hoặc ngồi gần nhiều bạn yếu kém sẽ chịu ảnh
hưởng không tốt.
- Do mối quan hệ với thầy, cơ giáo:
Chẳng hạn “cá biệt” có thầy cơ có thành kiến khơng hiểu học sinh,
thiếu sự ân cần, gần gũi thân thiện khiến cho các em bị mặc cảm hoặc thầy cô
giảng bài không hấp dẫn nên các em khó hiểu sinh chán học, sa sút. Thậm chí
có thầy cơ nói năng thiếu thiện cảm gọi hình tượng những HS đó là “ Động
vật” vì ( con người = động vật + ý thức mà các em đã mất đi phần “ý thức”
vì lúc nào cũng bị nhắc mà không thay đổi.)
- Do mặc cảm tự ti:
Ln thấy mình yếu kém, hay bị thầy cơ mắng mỏ, tập thể lớp xa lánh,
có cảm giác bị ruồng bỏ gây ức chế, dễ bng xi. Từ đó các em cũng muốn
lảng tránh các bạn hoặc có tư tưởng “ khơng ăn được thì đạp đổ”, “mày
khơng thích tao thì tao cũng chẳng cần mày”...
10/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
- Do môi trường xã hội:
Xã hội phát triển là điêù đáng mừng, nhưng khi phát triển theo cơ chế
thị trường nó kéo theo một bộ phận khơng lành mạnh khác như dịch vụ giải
trí khơng lành mạnh, phim ảnh ảnh bạo lực, tình cảm lứa đơi q trớn …
Hiện nay, do sự quản lí khơng chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bida,
internet, ka raokê … được tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em
vào các trị chơi vơ bổ.
Ngày nay lại có tình trạng sách báo, phim ảnh, Internet có nhiều hình
ảnh và nội dung thiếu lành mạnh tự do (thậm chí mình đang lên mạng tra cứu
nhưng những hình ảnh hay lời mời gọi...rất hấp dẫn và rất dễ truy cập. Tất cả
đã khiến cho các em bỏ bê việc học tập, bị cuốn hút vào những trị đó qn cả
học, thậm chí nhiều em còn bị ảnh hưởng xấu đến tư cách đạo đức.
- Do bệnh tật (phần này chúng tôi chỉ nêu nguyên nhân, không nghiên
cứu, bàn đến nhiều):
Một số em mắc bệnh bẩm sinh, chẳng hạn: thần kinh không ổn định,
tăng động giảm chú ý,tật nguyền.
2.3. Thực trạng việc giáo dục học sinh chưa ngoan mà giáo viên nhà
trường đã thực hiện
Qua thực tế tìm hiểu các biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan của
giáo viên trong trường , tôi thấy các đồng nghiệp của mình đã thực hiện một
số biện pháp sau:
2.3.1. Các giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm đã quan tâm đến
công tác giáo dục học sinh chưa ngoan:
2.3.1.1. Trước khi muốn giáo dục HSCN chúng tơi đã tiến hành các bước lần
lượt:
- Tìm hiểu từng đối tượng học sinh: Người giáo viên chủ nhiệm phải
nắm rõ được tình hình của lớp thơng qua:
+ Sơ yếu lý lịch mà giáo viên chủ nhiệm yêu cầu học sinh ghi đầu năm,
chú ý cảm tưởng của từng học sinh.
+ Giáo viên chủ nhiệm cũ ( nếu nhận chủ nhiệm sau).
+ Các giáo viên bộ môn giảng dạy lớp năm trước.
+ Gặp gỡ, trao đổi với học sinh trong các buổi lao động tổng vệ sinh đầu
năm.
Việc làm này để bước đầu tìm hiểu, phát hiện các học sinh cốt cán cũng
như học sinh chưa ngoan. Từ đó có thể kiện tồn đội ngũ Cán bộ lớp và phát
huy các mặt mạnh, các truyền thống tốt đẹp của lớp.
- Lập kế hoạch cho lớp:
11/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
Giáo viên chủ nhiệm cùng Cán bộ lớp lập kế hoạch hoạt động của lớp và
phổ biến cho lớp sau đó thông qua buổi sinh hoạt lớp, lồng ghép trong hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Cụ thể là nội dung thi đua của các tổ trong
lớp, việc thực hiện nội quy của lớp, quyền và nhiệm vụ của mỗi cá nhân, phát
động phong trào thi đua (có sơ kết, tổng kết ở cuối mỗi học kỳ). Các nội dung
này bám sát vào nội quy của trường và các nội dung thi đua của tổng phụ
trách Đội như xoay quanh việc thực hiện đồng phục, truy bài đầu giờ, thực
hiện nội quy trường lớp, rèn luyện tác phong, ngôn phong,…
Sau khi hoàn chỉnh kế hoạch, giáo viên chủ nhiệm phổ biến và hướng
dẫn Cán bộ lớp cách làm việc, cách quản lý tổ viên của tổ mình. Nêu rõ
nhiệm vụ của từng thành viên trong Cán bộ lớp từ lớp trưởng, lớp phó học
tập, lớp phó lao động, lớp phó trật tự, lớp phó văn thể mỹ đến các tổ trưởng,
các cán sự bộ môn. Nội dung này cần phổ biến trước tập thể lớp nhằm thể
hiện tính cơng khai, dân chủ trước học sinh. Mặt khác còn nhằm đưa tập thể
lớp vào ổn định nề nếp và hơn hết là nhằm giúp các học sinh chưa ngoan
phần nào nhận thức được vai trị, nhiệm vụ của mình trong tập thể lớp để từ
đó có những hành vi phù hợp hay chỉ mới là ý nghĩ vừa được manh nha.
- Lập kế hoạch giáo dục học sinh chưa ngoan:
Trên cơ sở lý luận, sau khi đã thực hiện được 2 bước nói trên giáo viên
chủ nhiệm vừa vạch ra vừa thực hiện kế hoạch tiếp theo tùy tình hình diễn
biến của các học sinh chưa ngoan. Chú ý tập trung vào những việc sau:
.) Cần nắm rõ số lượng học sinh chưa ngoan của lớp.
.) Tìm hiểu kỹ và phân loại học sinh chưa ngoan đầy đủ và chính xác về:
Hoàn cảnh sống từng học sinh, điều kiện kinh tế gia đình của học sinh,
sự quan tâm của cha mẹ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình,…
Những đặc điểm thể chất, sinh lý từng học sinh. Thể trạng bình thường
hay khơng.
Những đặc điểm về tâm lý: khả năng nhận thức, nhu cầu giao tiếp, tình
cảm như: cởi mở hay lầm lì, ưu tư, nóng nảy, ln nghĩ mình bị mọi người
“cơ lập”, “bỏ rơi”,…
Nắm được tính cách và hành vi đạo đức từng học sinh: lười học, ba hoa,
không trung thực, cách ứng xử với mọi người xung quanh…
Nắm được sở trường và sở thích của học sinh: khả năng ca hát, bóng đá,
bơi lội, chơi game, yêu thích thơ văn,…
Đặc biệt cần chú trọng đến mối quan hệ của học sinh với những thanh
thiếu niên bên ngoài và học sinh chưa ngoan khác trong nhà trường.
.) Thực hiện thường xuyên công tác phối hợp.
.) Phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ lớp.
12/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
Hơn cả giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn, Cán bộ lớp là
những người có thời gian gần gũi, tiếp xúc với các học sinh chưa ngoan trong
lớp nhiều nhất. Do vậy, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong cán bộ lớp
quan sát và quan tâm, giúp đỡ các học sinh chưa ngoan dưới sự hướng dẫn,
giám sát của giáo viên chủ nhiệm là việc làm rất hợp tình hợp lý. Bằng hình
thức “Đơi bạn cùng tiến”, học sinh giỏi sẽ nhận trách nhiệm kèm học sinh
yếu, cả trong rèn luyện đạo đức. Ở đây đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
phải thật tinh ý, sáng suốt. Thông qua Cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm càng
hiểu rõ hơn về từng đối tượng học sinh, về các học sinh chưa ngoan của lớp.
- Thực hiện kế hoạch giáo dục học sinh chưa ngoan.
2.3.1.2. GVCN luôn sát sao với các hoạt động của lớp ( truy bài – lúc nào các
GVCN cũng đến lớp vào giờ truy bài để hướng dẫn cách truy bài, kiểm tra
đột xuất....).
2.3.1.3. Chúng tôi ln có các buổi họp chủ nhiệm thật bổ ích.
2.3.1.4. Chúng tôi luôn chia sẻ những kinh nghiệm cho nhau, giúp nhau cùng
tiến bộ. Mặt khác, phải luôn tâm niệm HS lớp nào cũng là con của ta để ta
phải quan tâm, giáo dục. Vì nếu ta khơng chủ nhiệm thì ta có thể dạy bộ mơn
nào đó, hoặc có thể năm nay ta không dạy không chủ nhiệm nhưng có thể
năm nào đó mình lại dạy lớp ấy....
2.3.1.5. Chúng tơi cịn cùng nhau tìm ra giải pháp làm thế nào để biến HSCB
thành HSĐB. Tìm hiểu tác hại của của các trò chơi đến với các em nhất là
nghiện game (cái phổ biến nhất dễ lôi cuốn HS nhất bởi tính hấp dẫn của
nó).Để rồi sau đó tìm ra phương pháp “cai” những hạn chế đó.
2.3.1.6. Chúng tơi kết hợp trong các tiết sinh hoạt luôn lồng ghép các bài học
và kĩ năng sống.
Có những lần chúng tơi trình chiếu tác hại của game, thuốc lá...kết hợp với
môn Ngữ văn – rất nhân văn mà cũng thật dễ hiểu – nó truyền tải rất tốt...
VD:
13/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
2.3.2. Cụ thể: Giáo viên chủ nhiệm đã sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau để giáo dục học sinh chưa ngoan như:
-Giáo dục bằng giao việc:
Theo nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học thì hiện tượng học sinh
hiếu động, cá biệt chủ yếu do dư thừa năng lượng (bệnh ADHD) và do mơi
trường giáo dục khơng phù hợp. Nếu tình trạng này kéo dài từ lứa tuổi học
sinh đến khi trưởng thành thì rất khó chữa, thậm chí trở thành nỗi lo cho xã
hội. Chính vì vậy, việc giáo dục các em bằng cách huy động hết năng lượng
dư thừa vào việc chơi thể thao và các hoạt động bổ ích sẽ cải thiện được tâm
lý và thể chất của các em
Ví dụ: chúng tơi cho các em tự lên mạng tìm hiểu về tác hại của những thứ
hấp dẫn với con người, với các em. Như vậy các em vẫn được lên mạng, tiếp
xúc máy tính...nhưng là để làm việc, tìm hiểu. Sau đó các em ít nhiều đọc, rồi
gọi lên thuyết trình...giúp các em hiểu hơn, thấy sợ hơn các trị vơ bổ. Thấy
được ích lợi của việc làm việc đúng đắn.
- Giáo dục bằng “ cương mà nhu” trong các hoạt động
Chúng tôi vẫn đáp ứng nhu cầu của các em theo thời đại thế hệ trẻ.
Tìm thấy niềm đam mê trong ca hát, thể thao, võ thuật....chúng tôi đã thay
14/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
các bản nhạc du dương bằng một ca khúc trẻ hoặc sôi động hay là các bản
nhạc hot, remix...
Tổ chức nhiều hoạt động bổ ích: giải đá bóng trong khối, thi nhảy, làm
DJ, vẽ....Tất cả các hoạt động sẽ giúp các em có tinh thần tập thể cao. Mà các
hoạt động đó thì các HSCB lại thường xuất sắc hơn các “con mọt sách” nên
các em trở thành những cán bộ đại tài dẫn dắt các bạn khác. Lập tức các em
thấy mình “oai”, có ý nghĩa, được người khác khâm phục, và khi đó các
thành viên khác cũng có cái nhìn khác với các em.
Tơi cịn nhớ trong năm trường tổ chức chuẩn bị thi nhảy các bài dân
vũ, bản thân tơi lo lắng vì mình khơng biết nhảy thì hướng dẫn thế nào? Các
con chưa bao giờ nhảy thì làm sao? Vậy mà hứng khởi nhất trong lớp là
Nam, Thianh – hai HS nghịch nhất của tôi vui sướng vô cùng. Tôi liền giao
cho hai em là “đội trưởng”, các em về tìm bài nhảy trên mạng tham khảo, cho
tơi duyệt xong thì hướng dẫn các bạn. Lúc nhìn bài dân vũ với bao động tác
khó thế tơi cũng chia sẻ : “ Cơ thấy khó q con ạ! Làm sao mà nhớ các động
tác, lại đúng nhạc nữa...” Các em cịn an ủi tơi : “ Cơ n tâm, bọn em làm
được”. Và quả thực, trong mỗi buổi tập các em say mê giúp đỡ các bạn còn
cứng trong động tác, hướng dẫn tỉ mỉ lắm, chúng còn dạy cả tơi, làm tơi cuốn
vào trị đó. Mà lúc đó và sau này những lời xuýt xoa “ Sao Thanh nhảy đẹp
thế, dẻo thế...” làm cho em sung sướng. Từ đó tình đồn kết ngày càng lên.
Mỗi người vui vẻ giúp đỡ nhau những điểm yếu của mình trong cả hoạt động
và học tập.
- Giáo dục bằng tâm lý:
GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ gần gũi với các em, thật sự là chỗ
dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. Khi giao tiếp với các em
GVCN phải ln cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa được các em.Khi có
được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình cảm với GVCN mà
không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo của GVCN sẽ có
tác dụng lớn đối với các em.Nhiều lúc phải biết khích lệ các em hoặc lấy ví
dụ từ chính bản thân để làm độ tin cậy với các em.
Đây là quá trình cần lâu dài để tạo ra độ tin tưởng ở các em. Hãy ln
đóng vai trị là bạn của em.
Ví dụ như em Nam học sinh lớp 6D của tôi từ năm đầu tiên tôi chuyển
công tác về trường. Em là một HS yếu, viết chữ hay mất nét, thích chơi điện
tử, hay chạy ra khỏi chỗ đặc biệt là rất hay đánh bạn với phương châm “ Lấy
thịt đè người” (vì Nam tuy mới lớp 6 nhưng to cao vạm vỡ như thanh niên, có
khi gấp đơi các bạn khác trong lớp). Trong mấy tuần đầu khi nhận lớp tôi đã
thấy sự ngỗ nghịch của em nên càng để ý the dõi và kiểm tra nhiều hơn.
Nhưng em chỉ ngồi yên trong tiết của tơi. Cịn lại nhất là tiết tốn do cơ giáo
cịn trẻ, lại hiền nên em thường xun lấy lí do ra mượn bạn thước kẻ, bút chì
hoặc com-pa...để ra khỏi chỗ trong giờ, ra cấu đứa này cái, vụt hay búng tai
15/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
đứa khác cái, đứa nào mà tỏ thái độ khơng thích là bị dọa “ra chơi mày biết
tay”; mà không bao giờ cần cô đồng ý hay không “mồm hỏi chân đã đi ra”!
Nên trong giờ toán thật là vất vả cho cơ và ngay cả trị khác cũng chán. Thế
là trong tuần tiếp theo tôi làm biện pháp mạnh : dọa mời bố mẹ, đình chỉ nếu
cịn tiếp diễn, khi nào có tiết tốn mà tơi trong giờ là tơi trở thành “thám tử”
hoặc “giám khảo” dự giờ đột xuất của GV tốn! Nhưng em cũng nắm được
lịch của tơi, nên cũng ngồi n trong tiết biết tơi có thể đi qua cịn lại chưa có
chuyển biến gì. Tơi phải gọi điện mời PH nhưng không ai nghe máy, đến tận
nhà cũng chẳng có ai để nhắn đến gặp.
Chưa biết giải quyết thế nào, bất chợt gặp Nam đang hí húi dưới bếp
bắc nồi cơm lên bếp than tổ ong. Tơi chợt thấy em nhìn đáng thương làm sao,
nhìn cậu bé mới thật hiền lành. Để cho Nam xong công việc, tơi mới lên tiếng
: “ Nam à, có ai ở nhà khơng con?”. Một ánh mắt ái ngại vì biết tôi đến nhà
và trông thấy sự tồi tàn của căn nhà, em đang chuẩn bị nấu cơm. Thế là tôi đã
ngồi lại cùng trông nồi cơm cùng em, hỏi han về gia đình em. Lúc đó mới rõ
hơn: cha mẹ em cách đây 3 năm đã thường xuyên cãi nhau vì bố đi lái tắc-xi
nhưng có bồ bịch nên bỏ bê công việc, bán cả chiếc xe để đi chơi, chưa đủ về
địi bán đất của ơng bà nội Nam...Đến năm ngối vì khơng chịu được và bố
Nam cũng muốn danh chính ngơn thuận đón cơ gái kia về làm vợ nên hai bố
mẹ đã li hôn. Nhưng rồi bố Nam cịn mê mẩn cơ gái đến mức địi bán đất
không được liền đuổi ông bà Nam xuống căn nhà cũ (vì căn nhà tầng của nhà
Nam trước do được đền bù tiền ông bà xây cho và sang tên cho Nam – dưới
sự giám hộ của bố Nam thơi). Thật trớ trêu! Thế nên Nam nói em thấy xấu hổ
lắm, em khơng cịn tâm trí để học.
Đúng là cảnh đời lắm nỗi, khơng biết nói gì tơi an ủi Nam và mong con
cố gắng vì mình và ít nhất vì ơng bà. Lần đầu tơi nhìn thấy Nam ngân ngấn
nước mắt, ánh mắt toát lên sự buồn mà vui, ánh mắt ấy mới hiền làm sao.
Rồi càng tìm hiểu tơi cịn biết em rất say mê đánh cờ tướng vì từ nhỏ
em đã được ơng nội dẫn đi trong những buổi ông dạy các anh chị tuyển thủ
của xóm, làng ; xem trong các ngày hội làng đánh cờ người ; lúc nào cũng
muốn học thật giỏi để ông dạy cho hết các nước cờ hay, làm thế nào phá
được các nước cờ khó....Tơi nghĩ, nếu Nam giỏi được cờ tướng thì khơng lí
nào khơng giỏi văn hóa được. Vì thế vào mỗi dịp có tổ chức thi các giải thể
thao ở trường, huyện (trước) tôi đều ghi tên em và quả thực em đã mang về
cho trường giải cao.
Cũng từ đó em bắt đầu cố gắng hơn trong mọi hoạt động, đã dần tiến
bộ, cuối kì cịn được HSTT.
-Giáo dục bằng tập thể:
Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội
của các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần
thiết hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường
16/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
có biểu hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng
học sinh cá biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần
lớn các em đều trả lời một câu chung nhất( không biết) - đối với những em có
quan hệ gần gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại khơng dám nói ra sự
thật vì sợ sự đe doạ của các bạn...Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ,
những việc làm của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng
khối là biết rõ nhất.
Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều
tra bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một
đối tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách
bảo mật thơng tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn
tin chính xác nhất. Sau khi nắm được thơng tin, phân tích tình hình, GVCN
hướng dẫn các em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất
là tạo cho những em cá biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan
hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ rõ cá tính khơng e ngại. GVCN thường xuyên giữ
mối quan hệ với các em này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục
HS cá biệt để tháo gỡ khó khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện
pháp xử lý kịp thời những biến động của các đối tượng và động viên các em,
tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
Ví dụ: Em Nguyễn Văn Thịnh lớp 7 A5 do cô Đỗ Thị Hương chủ
nhiệm là một HSCB, rất hay gây gổ và dường như đánh “ không thương tiếc”
đối với các bạn bằng một “máu liều” đến nỗi hai ba bạn to con nhất lớp còn
phải nể sợ dù em nhỏ con hơn nhiều.
Em rất hay gây sự bằng cách là ngáng chân các bạn khi các bạn đi qua
lớp mình, bạn nào lên tiếng là Thịnh sửng cồ lên luôn và thế là xông vào
đánh nhau. Rồi chẳng ai dám nói khi Thịnh làm điều gì q đáng, bị đánh cho
sưng hết cả mơi vều ra, rách mơi phía trong mà khi cơ giáo hỏi thì bảo em bị
ngã. Cơ Hương đã rất vất vả để có thể tìm được câu trả lời thực, ban đầu là từ
các HS khối trên nói ra vì Thịnh “ nổi tiếng” lắm. Điều này buộc cô Hương
phải vào cuộc nhiều hơn. Cô đã phải một lần nhờ một bạn gây sự lại để cô
chứng kiến được cuộc ẩu đả sắp diễn ra (được báo trước - vì cơ biết rằng với
tính hung hăng ấy thì chỉ cần một lí do nhỏ thơi cũng làm Thịnh tức và xơng
vào đánh nhau ngay.). Đến lúc này Thịnh mới nhận lỗi.
Qua điều tra, hỏi han cô Hương cũng mới rõ hơn vì Thịnh là HS nơi khác
chuyển đến. Thịnh là con nhà giàu có lắm, nhưng bố Thịnh lại rất hay cục
cằn, đánh mẹ Thịnh có lần cịn phải đi khâu. Em cũng chịu những trân địn
của bố khơng kém. Vì vậy em muốn có sức mạnh để người khác sợ.
Bằng giáo dục tập thể, cô Hương đã mạnh dạn và trao đổi để Thịnh vạch
lưng để các bạn xem những vết lằn roi. Và phân tích với lớp, Thịnh rằng ai
đánh cũng bị đau cả, mình khỏe hơn người này nhưng có người khác khỏe
hơn mình thì sao?
17/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
Từ đó Thịnh bớt dần và kiềm chế được mình, say sưa việc học hơn. Trở
thành “ đại ca Dế Mèn cho các chị nhà Trò trước bọn nhện”, và từ đó biệt
danh Thịnh Dế Mèn ra đời. Em vui vẻ chấp nhận nó.
- Kết hợp với phụ huynh học sinh:
Một số GVCN trao đổi việc giáo dục học sinh cá biệt qua các cuộc
họp phụ huynh học sinh chung của lớp, GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của
từng em và mời phụ huynh các đối tượng này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự
mặc cảm của phụ huynh.Ngoài ra GVCN còn trao đổi việc giáo dục các em
qua việc đến thăm gia đình học sinh. Khi đến thăm gia đình học sinh, GVCN
có thể tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm được tình hình của
các em ở nhà.Hay GVCN có thể trao đổi việc giáo dục học sinh cá biệt bằng
phiếu liên lạc, tin nhắn qua sổ liên lạc điện tử. Ở một số lớp, GVCN quy định
mỗi em có một sổ liên lạc giữa phụ huynh học sinh và GVCN lớp. Để tránh
trường hợp các em giả mạo việc nhận xét vào sổ, đầu năm các giáo viên yêu
cầu phụ huynh ghi đầy đủ thông tin và ký tên vào sổ, nộp cho GVCN, hằng
tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh, GVCN sẽ ghi vào sổ để các em
đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và nộp lại cho GVCN vào thứ
hai. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi với phụ huynh và kịp
thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em.Đối với một số trường
hợp đặc biệt, GVCN cũng có thể gửi thơng tin về gia đình học sinh thơng qua
mạng liên lạc điện tử. Cách làm này có tính chất cập nhật thơng tin nhanh
chóng, chính xác và qua đó giúp gia đình học sinh nắm bắt thơng tin nhanh
và có biện pháp phối kết hợp với GVCN để giáo dục học sinh kịp thời.
- Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ mơn:
Như phần trình bày ngun nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của
các em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những
phản kháng đối với những hành động q đáng của một vài giáo viên. ví dụ
như có giáo viên dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét học sinh
không thuộc bài cũ, không hiểu được bài hay có những biểu hiện áp đặt, thiếu
cơng bằng ... Để xác định chính xác cá biệt của học sinh từ ngun nhân này
hay khơng, GVCN thăm dị hỏi tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có
biện pháp giáo dục thích hợp và cũng từ đó GVCN có thể góp ý ngay với
giáo viên trong việc cần phải tôn trọng và công bằng trong đối xử với HS .
Cũng có thể do tính cách cá biệt của các em, ở mỗi mơn học em có một
biểu hiện cá biệt khác nhau, GVCN tổng hợp các ý kiến để xác định nguyên
nhân cơ bản.
Từ việc trao đổi trên GVCN tìm ra những ưu điểm của các em để động
viên đồng thời lồng vào từng chút một những khuyết điểm của các em để
nhắc nhở khắc phục.
- Kết hợp với các ban ngành, các bộ phận trong và ngoài nhà trường:
+ Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên:
18/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục hạnh kiểm học sinh. Tổ chức
này có ban chỉ huy liên chi đội, có đội sao đỏ thường xuyên theo dõi các hoạt
động của tồn trường và từng lớp học, có một tổng phụ trách Đội chuyên
trách tổ chức các hoạt động Đội và kịp thời xử lý những vi phạm của học
sinh, hơn thế nữa có phong trào thi đua làm địn bẩy nên thường các biện
pháp ln đạt hiệu quả giáo dục cao.
+ Đối với đội cờ đỏ: GVCN yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả
những em vi phạm - có như vậy mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt
điểm những vi phạm đựơc.
+ Với tổng phụ trách Đội: GVCN thường xuyên giữ mối quan hệ chặt
chẽ. Đề nghị TPT Đội tham mưu với chính quyền nhà trường và cơng an
phường phối hợp tổ chức giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt.
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng các biện pháp đã sử dụng
2.3.3.1. Ưu điểm
Nhờ có sự phối kết hợp nhiều biện pháp giáo dục khác nhau nên số lượng học
sinh chưa ngoan trong trường mỗi năm một giảm. Tìm được nhiều tài năng
cá biệt từ những HSCN.
2.3.3.2. Tồn tại:
Bên cạnh những kết quả khả quan mà thầy và trò nhà trường đã đạt
được đặc biệt là việc giảm tỉ lệ học sinh cá biệt thì vẫn cịn những em chưa
cải tạo được hết, năm học 2015 - 2016 nhà trường đã buộc phải đuổi học 1
năm với em Trần Đăng Tú lớp 6B.
Như vậy, giáo dục HSCN là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy,
cơ GVCN phải đóng nhiều vai: vừa là tác giả, vừa là đạo diễn, là diễn viên,
khán giả thậm chí có lúc tự coi mình là học sinh. Làm thầy phải hiểu trị đang
nghĩ gì, làm gì. Nếu thuở ấy mình là học sinh như bọn trẻ bây giờ mình thích
thầy sẽ xử lý ra sao thì nay con trẻ cũng thế thơi. Phải biết rằng bài giảng là
một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ “ăn”, bỏ học dẫn đến kết quả
giáo dục của thầy kém hiệu quả.
Và tôi đọc ở đâu đó có người nói và kịp ghi chép lại làm kim chỉ nam
cho mình: “ Quản lý, đào tạo, chăm sóc và giáo dục các học trị cá tính của
tơi khơng khác gì chế tác sản phẩm thủ cơng mỹ nghệ cao cấp, người nghệ
nhân phải tự tay làm tỉ mỉ, giàu cảm xúc sáng tạo, không thể làm ào ào
như hàng công nghiệp sản xuất đại trà….”.
Từ việc nghiên cứu các dạng HS cá biệt và những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng ấy cũng như nghiên cứu các biện pháp mà đồng nghiệp đã sử
dụng,cũng tự mình thực hành ,tơi đã tìm ra những phương pháp tối ưu để
từng bước cảm hoá giáo dục các em.
19/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
CHƯƠNG III
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CHƯA NGOAN TIẾN BỘ
Từ những thực tế trên, sau đây là một vài cách giáo dục của bản thân
trong việc giáo dục HSCN tiến bộ mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp
qua đề tài này.
3.1: Định hướng đề xuất biện pháp cho việc thực hiện các biện pháp cụ
thể của GVCN:
* Xuất phát từ những biện pháp của các đồng nghiệp, định hướng của nhà
trường, mỗi GVCN có những cách khác nhau áp dụng cụ thể cho từng lớp
của mình. Riêng tơi, qua những điều trên, tơi thiết nghĩ mình cần phải có một
số phẩm chất sau:
3.1.1. Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần gũi,
thân thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh chưa ngoan, hãy khuyến khích
các em nói ra những điều mình nghĩ bằng nhiều cách khác nhau. “Lắng nghe
và thấu hiểu” là điều mà các học sinh chưa ngoan thật sự rất cần ở giáo viên
chủ nhiệm.
3.1.2. Biết quan tâm: Giáo viên chủ nhiệm quan tâm bằng cách trị chuyện,
hỏi thăm hồn cảnh gia đình học sinh, về bạn bè thân của các em, biết được
sở thích, cá tính cũng như thái độ, sự lễ phép của học sinh đối với người lớn.
Kêu gọi và yêu cầu các học sinh khác trong lớp quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ
bạn mình, khơng nên xem thường hay cơ lập các bạn chưa ngoan đó. Dưới sự
hỗ trợ của cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm luôn theo dõi được những biểu
hiện hàng ngày của học sinh chưa ngoan, tránh được sự kết luận về vấn đề
nào đó thiếu chính xác làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em.
3.1.3. Có uy tín với học sinh và đồng nghiệp về chun mơn và tư cách đạo
đức, tác phong sinh hoạt: Giáo viên có tầm hiểu biết rộng rãi ngồi việc biết
tốt bộ mơn của mình, bao giờ cũng giải đáp được vấn đề học sinh đang qua
tâm thì ảnh hưởng và uy tín của giáo viên sẽ tác động mạnh đến việc giáo dục
đạo đức học sinh. Mặt khác, uy tín về tư cách đạo đức của giáo viên có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành ý thức và hành vi của học sinh. Nếu được
như vậy, chắc chắn rằng tầm ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm đối với các
học sinh chưa ngoan sẽ không nhỏ.
3.1.4. Động viên và định hướng: Thông thường các học sinh chưa ngoan
không định hướng được mình cần rèn luyện thế nào để giúp ích bản thân và
hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, một trong những nguyên nhân chủ
yếu làm học sinh chưa ngoan đều bắt đầu từ sự học kém, dẫn đến bất mãn,
chán học rồi bỏ mặt mọi việc. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm là người
giúp học sinh biết định hướng và động viên, khích lệ các em trên tinh thần
“Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “Có cơng mài sắt có ngày nên kim”. Hãy tìm và
tun dương những mặt tốt ở các em dù nhỏ thay vì cứ phê bình khi các em
sai phạm.
20/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
3.1.5. Là “Người bạn lớn”: Giáo viên chủ nhiệm hãy là “Người bạn lớn” của
học sinh. Chính điều này làm cho học sinh chưa ngoan thấy mình khơng hề bị
“bỏ rơi”, tình cảm thầy trị được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho
những tâm sự, chia sẻ. Khi đó những lời động viên, những định hướng của
giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
3.1.6. Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm tỏ ra nghiêm khắc với tất cả học
sinh trong lớp, tôn trọng học sinh, xử lý mọi việc công bằng cho dù là cán bộ
lớp hay học sinh chưa ngoan vi phạm. Như thế các học sinh chưa ngoan sẽ
cảm thấy giáo viên chủ nhiệm đều tôn trọng mọi học sinh, khơng thiên vị,
khơng hề “ghét bỏ” mình.
3.1.7. Vui tính: Ngồi những điều trên, giáo viên chủ nhiệm cần phải có óc
khơi hài, ln vui vẻ với mọi người, kể cả học sinh chưa ngoan. Điều này
giúp cho học sinh có cảm giác dễ gần với giáo viên, dễ sẻ chia tâm sự, mối
quan hệ giữa thầy trò tránh được sự căng thẳng.
3.1.8. Đặt chữ “Tâm” lên hàng đầu: Người giáo viên được xem là “Kỹ sư
tâm hồn”. Chính cái “Tâm” của người giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp cho họ có
đủ kiên nhẫn để thực hiện hết trách nhiệm của mình. Đó là năng lực để cảm
hóa học sinh. Việc dùng nhân cách để giáo dục nhân cách chính là việc người
thầy dùng nhân cách của mình để tác động vào học sinh, dạy học sinh bằng
chính nhân cách của mình.
* Tiếp tục tơi đã tiến hành điều tra qua phiếu để hiểu tâm tư nguyện vọng của
các em để có hướng xây dựng tốt các biện pháp:
Mẫu phiếu:
21/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
MỘT SỐ CÂU HỎI KHẢO SÁT HỌC SINH
Chú ý: Các câu trả lời của các bạn không ảnh hưởng đến việc xếp loại hạnh kiểm
và học tập trên lớp mà nhằm góp phần vào phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài khoa
học trong giáo dục.
1. Bạn hãy điền vào một số thơng tin dưới đây:
Thơng tin cá nhân (có thể khơng ghi):
Họ tên …………………… Lớp……
Sở thích cá nhân:…………………………………………………
Sở trường:……………………………………………………………
Số người trong gia đình:…, là con thứ … trong gia đình:…,
số anh chị em:…
Mơ ước hiện tại:……………………………………………
Mơ ước tương lai:……………………………………………
Học lực năm học trước:……… Hạnh kiểm năm học trước:………
2. Bạn đã bằng lòng với kết quả HL và HK năm trước chưa?
a. Bằng lịng.
b. Chưa bằng lịng.
3. Bạn làm gì vào ngày nghỉ cuối tuần (chủ nhật)?
Ôn bài, đọc sách báo.
Xem phim.
Chơi game.
Trả lời khác: …………
4. Bạn có thường giúp đỡ cha mẹ việc nhà khơng?
a. Có.
b. Khơng.
5. Theo bạn việc học tập có quan trọng khơng?
a. Quan trọng.
b. Khơng quan trọng.
6. Theo bạn, tập thể lớp của bạn là một tập thể đoàn kết?
a. Phải. Những biểu hiện của sự đồn kết:
………………………………………………………
b. Khơng. Những biểu hiện của sự mất đồn kết:
………………………………………………………
22/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
7. Theo bạn quan sát, lớp bạn có bao nhiêu bạn học sinh chưa ngoan?
Nam: …… Nữ: ……
8. Bạn tự xếp mình thuộc diện nào sau đây:
a. Rất ngoan.
b. Ngoan.
c. Chưa ngoan.
9. Bạn nhận thấy bản thân có chăm học khơng?
a. Có.
b. Khơng.
10. Bạn thích đi học khơng?
a. Thích.
b. Khơng.
11. Bạn hãy nhận xét về tình hình đạo đức hiện nay của HS?
Đa số ngoan.
Đa số ngoan, một số đạo đức sa sút.
d. Trả lời khác: …………
12. Theo bạn, đâu là sự ảnh hưởng lớn nhất đối với đạo đức của HS hiện
nay?
a. Gia đình.
b. Nhà trường.
c. Bạn bè.
d. Trả lời khác: …………
13. Thời gian bạn tự học ở nhà là bao nhiêu giờ?
……….tiếng / ngày.
14. Cha mẹ bạn quan tâm đến bạn như hiện nay đối với bạn là:
a. Đủ.
b. Chưa đủ.
c. Trả lời khác: ……………
15. Thầy cô quan tâm đến bạn như hiện nay đối với bạn là:
a. Đủ.
b. Chưa đủ.
c. Trả lời khác: ……………
23/37
Biện pháp giáo dục học sinh chưa ngoan tiến bộ
16. Bạn cần cha mẹ quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: ……………
17. Bạn cần thầy cơ quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: ……………
18. Bạn cần thầy cô chủ nhiệm quan tâm đến bạn về điều gì nhất?
Học tập.
Tâm lý.
c. Trả lời khác: ……………
19. Bạn có cho rằng “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”?
Có.
Khơng.
20. Bạn hãy chọn các đức tính về một giáo viên chủ nhiệm mà bạn mơ ước
sẽ gặp trong tương lai (Gợi ý: Có thể chọn tùy thích nhiều đức tính
cùng lúc).
Đạo đức tác phong tốt, tầm hiểu biết rộng.
Biết lắng nghe.
Quan tâm đến HS.
Là “người bạn lớn” của HS.
Nghiêm khắc.
Vui tính.
Gương mẫu.
Khó tính.
Trả lời khác: ………….
Cảm ơn các bạn!
24/37