Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.67 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH TRẦN MINH TÂM

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Nghệ An, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH TRẦN MINH TÂM

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 8.38.01.06

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THẾ LIÊN

Nghệ An, 2018


LỜI CÁM ƠN


Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn GS. TS. Hoàng Thế Liên đã hướng
dẫn và giúp đỡ tơi về mọi mặt để hồn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Vinh, các thầy giáo, cô giáo và
đội ngũ cán bộ, viên chức tại Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tơi
trong 02 năm qua để có được kết quả học tập của khóa học.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, cán bộ, công chức UBND xã Cổ Đạm,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; phòng Tư pháp huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh đã tạo điều kiện, hỗ trợ, giúp đỡ để tơi có thể hồn thành việc nghiên cứu
chủ đề luận văn đúng tiến độ.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, anh chị em học viên cùng khóa đã giúp đỡ,
chia sẻ, động viên tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..….01
1.Tính cấp thiết của Đề tài…………………………………………………. …………....01
2. Tình hình nghiên cứu…………………………………………………… ……………02
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn………………………… ……….....04
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………….…….04
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………… ….……..04
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn…………………………………….……….05
7. Kết cấu của Luận văn………………………………………………………….………05
CHƢƠNG 1. Một số vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở…..06
1.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở……...…06

1.2. Nội dung, phương thức thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ……………………..19
1.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở……………………...29
Tiểu kết chương 1………………………………………………………………………...35
CHƢƠNG 2.Thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh……………………………………………………….36
2.1.Điều kiện tự nhiên, dân cư và tình hình phát triển kinh tế - xã hội
ảnh hưởng đến hoạt động hòa giải cơ cở ở huyện Nghi Xuân…………………………..36
2.2.Thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân…….40
2.3.Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh……………………………………………………………………….48
Tiểu kết chương 2………………………………………………………………………...57
CHƢƠNG 3. Phƣơng hƣớng và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh……………………58
3.1. Phương hướng đảm bảo thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh…………………………………………………………………58
3.2.Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở
trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh……………………………………………64
Tiểu kết chương 3………………………………………………………………………...76
KẾT LUẬN………………………………………………………………...……………78
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………...……………80
PHỤ LỤC………………………………………………………………………………..86


BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTC

Bộ Tài chính

BTP


Bộ Tư pháp

CP

Chính phủ

HĐND

Hội đồng nhân dân

KNTC

Khiếu nại tố cáo

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc



Nghị định

NQ

Nghị quyết

PBGDPL

Phổ biến giáo dục pháp luật


PL

Pháp lệnh

QH

Quốc hội

TTLT

Thông tư liên tịch

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
- Bảng tổng hợp số liệu hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và phát nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên bộ mặt của xã hội và nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường là các mâu thuẫn,
tranh chấp, xung đột cũng ngày càng gia tăng với diện mạo mới, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng một phương thức thích hợp. Hịa giải ở cơ sở là một hình
thức giải quyết hữu hiện được lựa chọn để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp
ngay tại cơ sở.
Hòa giải ở cơ sở là n t đ p truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam, là
hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hòa giải ở cơ
sở có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần tăng cường tình đồn
kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp
thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật
tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải chuyển đến Tịa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước
và Nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của công tác hồ giải
ở cơ sở, Đảng và Nhà nước ln chú trọng đến công tác này. Ngày 20 tháng 6
năm 2013, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khố XIII đã thơng qua Luật hồ giải ở cơ sở, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2014, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động của
hồ giải ở cơ sở. Trong đìều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ,

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phát huy tác dụng của
hoạt động hoà giải ở cơ sở càng trở lên có ý nghĩa. Mặc dù đã có Luật hòa giải ở
cơ sở và các văn bản hướng dẫn về tổ chức, hoạt động hoà giải cơ sở, nhưng
thực tiễn cơng tác hồ giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh nói chung và huyện
Nghi Xuân nói riêng vẫn chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa vốn có của nó,


2

thậm chí cịn có nhiều đơn vị khơng chú trọng đến hoạt động này. Thực tiễn
huyện Nghi Xuân cho thấy ở những xã, thị trấn làm tốt cơng tác hịa giải ở cơ sở
thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo sự ổn định về chính trị - xã
hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những nơi cịn coi nh cơng
tác hịa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến
mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn, va chạm trong
cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm giải quyết kịp
thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là nguyên nhân
xuất hiện những điểm nóng về khiếu kiện. Do đó, việc nghiên cứu tìm ra những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả cơng tác hồ giải ở cơ sở trên địa
bàn huyện Nghi Xuân là yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề :
“Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở từ thực tiễn huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, về hòa giải ở cơ sở đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu dưới các góc độ khác nhau. Trong có phải kể đến các cơng trình nghiên
cứu sau đây:
- Sách : Hướng dẫn quản lý cơng tác hịa giải ở cơ sở, Nhà xuất bản
Tư pháp năm 2007; Cẩm nang bồi dưỡng cho hòa giải viên cơ sở, Nhà xuất
bản Tư pháp năm 2007; Những nội dung cơ bản của Luật Hòa giải ở cơ sở,
Quách Dương (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội - 2013; Quản lý

nhà nước về cơng tác hịa giải ở cơ sở, Nguyễn Phương Thảo, Nhà xuất bản
Tư pháp, Hà Nội - 2012;
- Sách: “Cẩm nang công tác hòa giải ở cơ sở” của luật gia Dương Bạch
Long, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Sách “Hòa giải ở cơ sở” của Nguyễn Phương Thảo, Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội, 2007.


3

- Sách “Hỏi đáp về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở” của Minh
Anh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
- Sổ tay đào tạo giảng viên hòa giải cơ sở, tài liệu vụ phục vụ Đề án 2
“Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác
PBGDPL, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước” của Bộ Tư
pháp năm 2012.
- Luận án tiến sĩ luật học: Thực hiện pháp luật về Hòa giải cơ sở ở các
tỉnh Đồng bằng Sông Cửu long, NCS Đồng Việt Phương, năm 2016;
Ngồi ra, cịn có một số bài báo, tạp chí như: “Thương lượng và hịa
giải - các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tư pháp” của
Nguyễn Trung Tín trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01(237)/2008;
“Một cách làm tốt cơng tác hịa giải ở cơ sở” của Ngọc Hiển, báo Pháp luật
Việt Nam, ngày 27/9/2010; “Vai trò và sự phối hợp của MTTQ Việt Nam các
cấp với các cơ quan tư pháp trong cơng tác hịa giải ở cơ sở”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 6/2009; “Vai trò của chính quyền các
cấp trong cơng tác hịa giải ở cơ sở”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
chuyên đề tháng 6/2009...
Các cơng trình nghiên cứu kể trên mới chỉ dừng lại ở một phạm vi h p, đề
cập những vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tổ hịa giải, một số khía cạnh
trong cơng tác hịa giải ở cơ sở, không đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận cơng tác

hịa giải ở cơ sở. Có cơng trình lại chỉ cập đến các quy định của pháp luật về
cơng tác hịa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ khơng đi vào
phân tích, đánh giá, nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật về cơng
tác hịa giải ở cơ sở. Cịn một số bài trên các tạp chí chun ngành đề cập đến
thực tiễn cơng tác hịa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng
cao hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định.
Tuy nhiên, đến nay việc nghiên cứu mang tính chuyên sâu nhất là về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn một huyện cụ thể thì có thể


4

khẳng định là chưa nhiều. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp
luật về tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng chúng trên địa bàn
huyện Nghi Xuân và từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là góp phần xây dựng cơ sở khoa học
và thực tiễn cho việc tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp
luật về hòa giải ở cơ sở.
Để đạt được mục đích nói trên luận văn có các nhiệm vụ như sau:
i) Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của
hoạt động hòa giải đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật
đối với công tác hịa giải ở cơ sở.
ii) Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật
về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh
iii) Đề xuất những phương hướng và giải pháp để nâng cao chất
lượng, hiệu quả cơng tác hịa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống quy phạm pháp luật điều
chỉnh về lĩnh hòa giải ở cơ sở đặc biệt là Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và
thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật
về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2013
đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết những vấn đề


5

khoa học của đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp
lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội, thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể được khai thác, sử dụng trong nghiên cứu về cơng tác hịa giải ở cơ sở của
các cơ quan tư pháp.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ Tư pháp - Hộ tịch,
hòa giải viên trên địa bàn huyện Nghi Xuân có thể khai thác, vận dụng những
kết quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những giải pháp với
cơ quan có chức năng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác hịa
giải ở cơ sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về hòa giải ở cơ sở
như: quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các chương trình phối
hợp...
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở.
Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở trên địa bàn

Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về hoà
giải ở cơ sở từ thực tiễn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.


6

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về hòa
giải ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về hòa giải ở cơ sở
1.1.1.1. Khái niệm về hòa giải ở cơ sở
Trong xã hội, con người gắn kết với nhau bởi những mối quan hệ hết sức
đa dạng. Việc xảy ra xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp giữa các cá nhân là điều
khó tránh khỏi. Khi mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh, có nhiều phương thức để
giải quyết như: thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án...Trong các phương thức
nêu trên, hòa giải là một phương thức quan trọng để giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp trong đời sống xã hội.
Hiện nay có nhiều quan niệm, khái niệm khác nhau về hòa giải, trong
khoa học cũng như trong thực tiễn, tùy theo cách tiếp cận mà có các khái niệm
khác nhau. Một số Luật gia cho rằng, hòa giải là chế định pháp luật về hòa giải,
coi hòa giải như là một quy định, một trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh
chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai…cịn các nhà thực tiễn thì cho rằng
hịa giải là hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những mâu thuẫn, bất
đồng.
Theo Hiệp hội hồ giải Hoa Kỳ, Hòa giải cũng là giải quyết các tranh
chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp,
thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh
chấp). Hịa giải cịn được hiểu ở góc độ rộng hơn là một q trình, trong đó bên

thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của
họ.
Theo từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2003 thì
hịa giải được hiểu là “thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích
mích một cách ổn thỏa” [58,tr.446]. Quan niệm này nêu lên phương thức và mục


7

đích của hịa giải, nhưng chưa khái qt được bản chất, nội dung và các yếu tố
cấu thành các loại hình hịa giải.
Về mặt pháp lý, theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản
năm 2006 thì hịa giải là: “Là tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các
bên bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua sự trung gian của một người khác”
[57.tr.208]. Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về hịa giải trong lý luận
cũng như trong thực tiễn.
Theo quy định của pháp luật nước ta có nhiều hình thức hịa giải: hòa giải
tại tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hơn nhân gia đình, hịa giải
về lao động theo quy định của pháp luật lao động, hòa giải về tranh chấp đất đai,
hòa giải về tranh chấp thương mại, hòa giải theo thủ tục tố tụng trọng tài, hòa
giải các tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư bằng hịa giải ở cơ sở…Như
vậy, có thể chia các hình thức hịa giải thành hai loại: hịa giải trong tố tụng và
hịa giải ngồi tố tụng.
Hình thức hịa giải trong cộng đồng dân cư đã có từ lâu , trước khi Pháp
lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở ra đời. Điều 127, Hiến pháp 1992
ghi nhận “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết
những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định
của pháp luật” [38]
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt
được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi

phạm pháp luật theo quy định của Luật hòa giải. Khác với các hình thức hịa giải
tại tịa án và tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều mang tính thủ tục, bắt
buộc thì hoạt động hịa giải ở cơ sở mang tính tự nguyện, tự quản xã hội; xuất
phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc, lối sống cộng đồng,
truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.


8

Điều 1 Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25/12/1998 cuả Ủy
ban thường vụ Quốc hội về Tổ chức và hoạt động hịa giải ở sở quy định: “Hồ
giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được thoả
thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ nhằm giữ gìn đồn kết trong nội bộ nhân dân, phịng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.”[59]
Điều 2 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở
sở cũng đưa ra khái niệm về hịa giải ở cơ sở “Hồ giải ở cơ sở là việc hướng
dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải
quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đồn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý
truyền thống tốt đ p trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.”[19]
Đến Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013, khái niệm hòa giải ở cơ sở đã được
quy định rõ, tại Điều 2: “ Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp
đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật này” và cũng giải thích rõ
thuật ngữ “cơ sở” – nơi xảy ra tranh chấp là “thơn, làng, ấp, bản, bn, phum,
sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung
là thôn, tổ dân phố) và “các bên là cá nhân,, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia

đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật”. Như vậy, khái niệm
hòa giải ở cơ sở trong Luật Hịa giải ở cơ sở năm 2013 có tính kế thừa, phát triển
mang tính khoa học và phù hợp hơn cả với thực tế hiện nay.
1.1.1.2. Đặc điểm của hòa giải ở cơ sở
Hòa giải ở cơ sở với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết với nhau các vi phạm pháp luật và tranh chấp, mâu thuẫn
nhằm giữ gìn đồn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố và phát huy tình cảm,


9

đạo lý, truyền thống tốt đ p trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa
và hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng
dân cư, Hòa giải ở cơ sở có một số đặc điểm sau:
- Hịa giải ở cơ sở là một hình thức giải quyết tranh chấp do các bên
tranh chấp thỏa thuận, lựa chọn, tự định đoạt. Thơng qua sự thuyết phục, vận
động, giúp đỡ của hịa giải viên các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn,
tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia
đình, xóm giềng, góp phần giữ gìn ổn định, trật tự an tồn xã hội ở cơ sở.
- Trong hoạt động hoà giải, có sự hiện diện của một bên thứ ba làm trung
gian hoà giải, giúp các bên đạt được thoả thuận, chấm dứt tranh chấp, bất đồng,
đó là các hịa giải viên của tổ hịa giải. Họ những người nhiệt tình, tâm huyết, có
tinh thần trách nhiệm cao đối với cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt
động không lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham gia hòa giải.
- Phạm vi hòa giải là những tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật
được giới hạn theo quy định của pháp luật hòa giải ở cơ sở.
- Nội dung thoả thuận của các bên tranh chấp phải phù hợp với pháp
luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đ p, kinh nghiệm của dân gian,
hiệu quả là có tính thuyết phục cao, mang lại kết quả ổn thỏa, lâu bền.
- Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật đã và đang ngày càng phát huy vai trò quan trọng của nó trong việc
đưa pháp luật vào cuộc sống.
- Hòa giải ở cơ sở là một phương thức thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở, để
thực hiện quyền tự quản của dân, là biểu hiện dân chủ, người dân tự hành
động phù hợp với pháp luật và đạo đức trong quá trình giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn.
Trong lịch sử nước ta, hòa giải được xem như một phương thức giải quyết
có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội. Nó là một hiện tượng xã


10

hội - pháp luật - văn hóa đã thấm vào đời sống nhân dân ta hàng thế kỷ nay,
chi phối và tác động đến nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội và nhà nước, trở
thành một n t văn hóa truyền thống tốt đ p của cộng đồng người Việt.
Hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là cần thay đổi cách thức quản lý
xã hội. Nhà nước cần hạn chế sự can thiệp vào các quan hệ mang tính chất
“tư”, tơn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của cá nhân, tổ chức. Đây là
một trong những tiền đề quan trọng để cho hịa giải nói chung và hịa giải ở cơ
sở nói riêng phát huy vai trị của nó trong tình hình mới.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Thực hiện pháp luật là một hoạt động vô cùng quan trọng giúp pháp luật có
thể được triển khai đồng bộ và đi vào đời sống. Thông qua hoạt động thực hiện
pháp luật giúp chúng ta có thể kiểm tra, đánh giá tính đúng đắn, phù hợp cũng
như phát hiện ra những hạn chế, khuyết điểm, những quy định chồng chéo của
pháp luật. Từ đó, giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa những giải
pháp để điều chỉnh, bổ sung, thay thế các quy định còn vướng mắc để hoàn thiện
hệ thống pháp luật hiện hành.

Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật khác nhau
về thực hiện pháp luật. Theo giáo trình Lý Luận chung về Nhà nước và Pháp
luật của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2007 “Thực hiện
pháp luật là hiện tượng, quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, , trở thành hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật” [31 tr.369].
Theo Giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật của Đại học Luật Hà Nội
xuất bản năm 2009 “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện
thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [56,tr.463].


11

Các định nghĩa trên đều có chung quan điểm thực hiện pháp luật là hoạt
động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực
tế, hợp pháp của các chủ thể và được thực hiện trong cuộc sống.
Hệ thống các văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở là những cơ sở pháp lý
quan trọng để giải quyết những mâu thuẫn tranh chấp nhỏ trong đời sống của
Nhân dân, góp phần giữ gìn trật tự an tồn xã hội, hạn chế tình trạng đơn thư,
khiếu nại cũng như hạn chế được nhiều tranh chấp phát sinh thành điểm nóng,
phức tạp, góp phần tăng cường được khối đại đoàn kết toàn dân. Và hệ thống
các văn bản này muốn được thực hiện và đi vào thực tiễn đời sống cần được tổ
chức thực hiện tốt, phù hợp với những đặc điểm riêng của cơng tác hịa giải ở cơ
sở.
Vì vậy, trên cơ sở khái niệm chung về thực hiện pháp luật như đã nêu ở trên,
chúng tôi xin mạnh dạn nêu khái niệm thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
như sau: “Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở là hoạt động có mục đích làm
cho các quy định của pháp luật hòa giải ở cơ sở đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể; góp phần giải quyết nhanh

chóng, kịp thời những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân
dân, góp phần vào việc giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, phát huy truyền thống
đồn kết, tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, phòng
ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, ổn định trật tự, an toàn xã hội” .
1.1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
- Thứ nhất, thực hiện pháp luật về hịa giải ở cơ sở có tính phi tố tụng
Ở nước ta hiện nay có những hình thức hịa giải khác nhau như: Hòa giải
trong tố tụng dân sự của Tòa án, hòa giải trong tố tụng trọng tài, hòa giải tranh
chấp lao động, hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn…. và hòa giải ở cơ sở.
Hòa giải trong tố tụng dân sự của Tòa án: Hòa giải trong tố tụng dân sự của
Tịa án là thủ tục bắt buộc trong q trình giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và


12

gia đình, thương mại, lao động, trừ những trường hợp pháp luật quy định khơng
được hịa giải hoặc khơng tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết
theo thủ tục rút gọn. Trường hợp các đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau
về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tịa án lập biên bản hịa giải thành. Hết
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hịa giải thành mà khơng có đương sự
nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì Thẩm phán chủ trì phiên hịa giải
hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tịa án phân cơng phải ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay
sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm.
Hòa giải trong tố tụng trọng tài: Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
trọng tài, các bên tranh chấp có thể thương lượng, tự hịa giải hoặc đề nghị trọng
tài giúp các bên hòa giải. Trọng tài cũng có thể chủ động tự mình tiến hành hịa
giải các bên. Nếu các bên thơng qua hịa giải giải quyết được tranh chấp thì có

thể u cầu trọng tài viên xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản, lập biên bản
hịa giải thành và cơng nhận sự thỏa thuận của các bên. Văn bản này có giá trị
như quyết định trọng tài - có hiệu lực thi hành, khơng bị kháng cáo.
Hịa giải tranh chấp lao động: Hịa giải tranh chấp lao động được Hội đồng
trọng tài lao động hoặc hòa giải viên lao động của cơ quan lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hòa giải viên lao động) tiến hành khi có
tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và
các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước tập thể
và trong quá trình học nghề giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Thẩm quyền và trình tự hịa giải tranh chấp lao động được quy định tại Bộ luật
Lao động.
Hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn: Đây là
việc hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp đối
với các tranh chấp về đất đai theo quy định của Luật Đất đai năm 2013.


13

Khác với các loại hình hịa giải nêu trên, hịa giải ở cơ sở trước hết xuất phát
từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc. Ở Việt Nam, nền kinh tế nông
nghiệp lúa nước với nhu cầu làm thủy lợi, đắp đê, chống lụt, thêm vào đó là
nguy cơ giặc ngoại xâm luôn đe dọa đã khiến cho người Việt cổ sớm hình thành
lối sống cộng đồng, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Trong các làng
xã cổ truyền, người nông dân quen sống với các mối quan hệ xóm làng, huyết
thống ràng buộc nhau một cách chặt chẽ, do đó họ rất coi trọng tình làng, nghĩa
xóm, “tối lửa tắt đèn có nhau”. Nếu có xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp về
quyền lợi, nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình, dịng họ, hàng xóm láng
giềng thì họ chủ trương “đóng cửa bảo nhau”, “chín bỏ làm mười”, xóa bỏ bất
đồng, mâu thuẫn, xây dựng cộng đồng hịa thuận, n vui, hạnh phúc. Vì vậy,
hòa giải được xem là phương án tối ưu để giải quyết xích mích, mâu thuẫn, tranh

chấp trong nội bộ nhân dân…
Tính phi tố tụng của hịa giải ở cơ sở được thể hiện quan những điểm sau:
- Về hình thức hòa giải
Theo qui định của Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 thì hồ giải ở cơ sở được
thực hiện thơng qua hoạt động của Tổ hồ giải. Do đó, hịa giải ở cơ sở khơng
phải được thực hiện bởi cơ quan nhà nước hoặc tổ chức nghề nghiệp mà được
thực hiện bởi tổ hòa giải, Tổ trưởng Tổ hịa giải phân cơng hịa giải viên tiến
hành hịa giải trong trường hợp các bên khơng có lựa chọn hòa giải viên. Việc
hòa giải được tiến hành trực tiếp bằng lời nói, hịa giải ở cơ sở khơng phải là
phán xét hay ra quyết định mà chỉ là giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, vận
động các bên tranh chấp dàn hòa với nhau.
- Về chủ thể tiến hành hòa giải
Hòa giải viên là những người trực tiếp thực hiện hoạt động hòa giải và là
trung tâm của hoạt động này. Luật Hịa giải ở cơ sở đã có những quy định cụ thể
về các tiêu chuẩn cơ bản của hịa giải viên ở cơ sở
- Về trình tự, thủ tục hòa giải


14

Hình thức hịa giải ở cơ sở khơng bị ràng buộc phải tiến hành theo một
khuôn mẫu thống nhất nào. Ngun tắc của hịa giải ở cơ sở là khơng bắt buộc,
không áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hoà giải. Việc hoà giải được
tiến hành vào thời gian và địa điểm mà các đương sự yêu cầu hoặc theo sáng
kiến của tổ viên Tổ hoà giải sao cho phù hợp với nguyện vọng của các bên.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng đặc điểm phi tố tụng khi thực hiện pháp
luật hòa giải ở cơ sở ý nghĩa trong quá trình linh động, sáng tạo của việc thực
hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở đảm bảo phù hợp với bản chất của hòa giải ở cơ
sở là hướng dẫn, giúp đỡ các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện
giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật nhằm giữ gìn đồn kết và tranh

chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, củng cố phát huy những tình cảm và đạo lý
truyền thống tốt đ p trong gia đình và cộng đồng dân cư, phịng ngừa, hạn chế
vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
Thứ hai, thực hiện pháp luật hịa giải ở cơ sở có phạm vi và đối tượng nhất
định. Khác với các hình thức hịa giải khác, hịa giải ở cơ sở là hình thức giải
quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân mà khơng bắt buộc
theo trình tự, thủ tục quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay
các tổ chức nghề nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi vi phạm pháp luật và
tranh chấp đều được tiến hành hòa giải, việc hòa giải chỉ được tiến hành đối
với những vụ việc thuộc phạm vi cho phép.
Phạm vi hòa giải được quy định cụ thể tại Điều 3 Luật hoà giải ở cơ sở và
tại Khoản 1, Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP. Đặc điểm này đòi hỏi hòa giải
viên phải nắm vững những quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở, phải biết
được vụ việc mình hịa giải có thuộc phạm vi, đối tượng của hịa giải ở cơ sở
hay khơng. Từ đó có đường hướng giải quyết đối với từng lĩnh vực cụ thể..
Thứ ba, thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở có hiệu lực thi hành cao
Thực hiện pháp luật về hịa giải ở cơ sở là q trình hoạt động có mục đích
của các chủ thể nhằm làm cho các quy định của của pháp luật hòa giải ở cơ sở


15

được thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, do hòa giải được dưa trên sự thỏa
thuận lựa chọn của các bên tranh chấp nên ở đây tính tự giác chấp hành thực
hiện pháp luật là rất cao. Hơn nữa, trong q trình hịa giải, với sự phân tích,
hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục của hòa giải viên hoặc Tổ hòa giải cơ sở mà
các bên tranh chấp tự nguyện giải quyết tranh chấp với nhau. Vì vậy, có thể
khẳng định rằng hịa giải ở cơ sở khơng những là q trình thể hiện sự tự giác
cao trong thực hiện pháp luật mà cịn có hiệu lực thi hành cao trong đời sống
xã hội.

Thứ tư, thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở có tính dân chủ, linh hoạt
Khi Thực hiện cơng tác hịa giải ở cơ sở, hầu như đều có đầy đủ sự tham gia
của các tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ,
hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh, hội nơng dân và những người có uy tín,
đủ năng lực trong thể hiện, truyền đạt. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền đối với hoạt động hòa giải, cũng như phát huy hiệu
quả quyền dân chủ ở cơ sở của mỗi cá nhân, tổ chức.
Mặt khác, khi thực hiện pháp luật ở cơ sở chúng ta có thể thấy được tính
linh hoạt khi áp dụng pháp luật. Hịa giải có thể được tiến hành tại các địa điểm
khác nhau do các bên lựa chọn, thủ tục có thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho
thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá
trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của
tranh chấp và các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có
những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật q phức tạp. Trong hịa giải thường khơng có
quy định nào về chứng cứ và cũng khơng có quy định về kiểm chứng cũng như
xem xét về mặt thủ tục mà các bên được phép thu thập để đưa ra các chứng cứ ,
tài liệu có liên quan. Các bên tranh chấp được phép kể chuyện của họ nếu thấy
phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà khơng bị bài bác và bị cho là khơng có ý
nghĩa…..


16

Thứ năm, thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở là sự kết hợp giữa pháp luật,
đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đ p của nhân dân
Sự kết hợp giữa những quy định của pháp luật với đạo đức xã hội và phong
tục, tập quán của nhân dân là n t đặc trưng nhất của hòa giải ở cơ sở. Khi giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân nếu như người hòa
giải chỉ căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức truyền của dân tộc, phong tục tập
quán của địa phương, dòng họ để dàn xếp mâu thuẫn, tranh chấp thì chưa đủ và

khơng hiệu quả. Tương tự các vụ việc nếu chỉ dừng lại ở quy phạm đạo đức để
hịa giải thì chưa hẳn đã mang lại kết quả tích cực và thỏa đáng. Một vụ việc
chỉ được giải quyết dứt điểm và hiệu quả khi hòa giải viên bên cạnh việc căn
cứ vào các chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán còn cần phải nắm vững và
vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nhất là
những quy định pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân.
Để làm được điều này, hòa giải viên trước hết phải nắm vững quy định của
pháp luật có liên quan trực tiếp đến cơng tác hịa giải ở cơ sở. Bên cạnh đó, hòa
giải viên phải biết kết hợp với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt
đ p của nhân dân.
Những quy định của pháp luật được thể hiện ở hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật có thể dễ dàng tra cứu nhưng các chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập
quán đôi khi không được thể hiện bằng văn bản, đó có thể là những thói quen
hay lời nói được truyền lại từ đời này qua đời khác. Do đó, việc vận dụng đạo
đức và phong tục, tập quán như thế nào trong mỗi vụ việc hòa giải là kỹ năng
của mỗi hòa giải viên. Một lưu ý quan trọng là phong tục, tập quán được áp
dụng trong hòa giải ở cơ sở phải là phong tục, tập quán tốt đ p của nhân dân,
không trái với pháp luật và quy tắc xây dựng nếp sống mới. Nếu phong tục, tập
quán đã được quy định trong các hương ước, quy ước làng thì phải được Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt thực hiện. Đối với những hủ tục, tập
qn lỗi thời thì khơng được vận dụng để hịa giải mà phải cương quyết xóa bỏ


17

và vận động nhân dân bài trừ nó.
1.1.3. Vai trị của thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
Một

là, thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở góp phần trong việc xây dựng


tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội và phát huy khối
đại đoàn kết toàn dân.
Trong giai đoạn hiện nay, do tác động của cơ chế thị trường, tình trạng tranh
chấp trong các giao dịch, quan hệ xã hội có chiều hướng gia tăng, nhất là các
tranh chấp đất đai, dân sự, hơn nhân gia đình xảy ra ngày càng đa dạng, phức
tạp. Trước thực trạng đó, cơ quan Tư pháp đã thường xuyên chỉ đạo, củng cố
kiện tồn các tổ hịa giải để cơng tác hịa giải ở cơ sở thực sự đóng vai trị quan
trọng trong việc góp phần giải quyết các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ ngay
tại địa phương. Do vậy, công tác hòa giải cơ sở đã thực sự trở thành hoạt động
gắn liền với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư ở các thơn, xóm. Những
mâu thuẫn nhỏ, những khúc mắc trong quan hệ gia đình, làng xóm đã được các
hịa giải viên hóa giải, tỷ lệ hồ giải thành trong số các vụ việc phát sinh hàng
năm tăng cao góp phần ngăn chặn kịp thời các mâu thuẫn phát sinh từ cơ sở, giữ
gìn sự đồn kết, gắn bó trong địa bàn dân cư, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội ở địa phương..
Hai là, thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở góp phần hạn chế đơn thư khiếu
kiện trong nhân dân, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc của nhân dân và Nhà
nước.
Hòa giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản ở
cộng đồng. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở thời gian qua đã
khẳng định vai trò, ý nghĩa của cơng tác này trong việc góp phần hạn chế các
tranh chấp dân sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc
theo pháp luật, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội. Qua hoạt động
hịa giải ở cơ sở cũng góp phần giảm thiểu, hạn chế các vụ khiếu kiện, tiết kiệm


18

được thời gian, chi phí của nhân dân, Nhà nước khi phải thụ lý, giải quyết những

vụ việc lẽ ra có thể kết thúc từ cơ sở.
Điều dễ nhận thấy nhất là khơng ít vụ việc, nếu từ cơ sở mà làm tốt hơn nữa
cơng tác hịa giải, thì sẽ không đến mức đẩy mâu thuẫn lên cao, hạn chế khơng ít
các vụ khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Bởi trong điều kiện hiện nay, số vụ việc khiếu
kiện mà Tòa án hay Ủy ban nhân dân các cấp phải thụ lý giải quyết đã quá tải,
trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện về đội ngũ cán bộ chuyên môn lại
chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Đối với nhiều vụ việc, nguyên
nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện ra Tịa án, khiếu kiện vượt cấp là việc chưa
thực hiện tốt hình thức hòa giải ở cơ sở.
Như vậy, thực hiện tốt pháp luật hịa giải ở cơ sở khơng những góp phần
giải quyết kịp thời các mâu thuẫn mà thơng qua đó cịn tun truyền pháp luật,
giải thích lợi hại của việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải so với giải quyết
tranh chấp bằng tòa án. tiết kiệm cho nhân dân về chi phí thưa kiện, thời gian,
cơng sức đi lại, hạn chế rủi ro tai nạn giao thông, tập trung thời gian và cơng sức
làm ăn, góp phần xóa đói giảm nghèo ở cơ sở. Ngồi ra, cơng tác hịa giải ở cơ
sở cịn góp phần tiết kiệm thời gian, công sức, cơ sở vật chất của các cơ quan tố
tụng, giảm chi tiêu từ ngân sách nhà nước.
Ba là, thực hiện pháp luật hịa giải ở cơ sở góp phần tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, xây
dựng thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
Hoạt động hịa giải ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng đối với công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho nhân dân. Bằng việc vận dụng quy định của pháp luật
để giải thích, phân tích, thuyết phục các bên tranh chấp, tổ viên tổ hịa giải góp
phần nâng cao hiểu biết pháp luật và quan trọng hơn là cảm hóa, giáo dục ý
thức nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật cho các bên. Việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật được thực hiện thơng qua nhiều hình thức: thơng qua
phương tiện thông tin đại chúng, thông qua giảng dạy pháp luật ở các nhà


19


trường, đặc biệt việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cịn được thực
hiện thơng qua các hoạt động tư pháp như x t xử, hòa giải…. Để việc thực hiện
pháp luật hòa giải ở cơ sở đạt hiệu quả phải có cơ chế tổ chức thực hiện pháp
luật hữu hiệu đưa pháp luật hòa giải vào cuộc sống, trong đó việc tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về hịa giải ở cơ sở nói
riêng là khâu khơng thể thiếu. Thơng qua hoạt động hòa giải, hòa giải viên
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với các bên tranh chấp, giúp họ
hiểu biết về chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ đó hình thành thói quen
sống và làm việc theo pháp luật của nhân dân.
1.2. Phạm vi, nguyên tắc, nội dung và phƣơng thức thực hiện pháp luật
về hòa giải cơ sở
1.2.1. Phạm vi hòa giải
Hòa giải ở cơ sở là hình thức giải quyết vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ
trong nhân dân mà không bắt buộc theo trình tự, thủ tục quy định của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hay các tổ chức nghề nghiệp. Tuy nhiên, không
phải mọi vi phạm pháp luật và tranh chấp đều được tiến hành hòa giải, việc hòa
giải chỉ được tiến hành đối với những vụ việc thuộc phạm vi cho phép.
Phạm vi hòa giải được quy định tại Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở và tại
khoản 1, Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP. Theo đó, hịa giải ở cơ sở được
tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật bao gồm:
- Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính
tình khơng hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung,
sử dụng điện, nước sinh hoạt, cơng trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh
chung hoặc các lý do khác);
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu,
nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp
phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha m và con; quan hệ giữa



×