1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ NHÀN
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN CẨM THỦY,
TỈNH THANH HĨA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Nghệ An, 2018
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHẠM THỊ NHÀN
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH
THANH HĨA
Chun ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG LÊ
Nghệ An, 2018
3
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài Luận văn thạc sĩ Chính trị
học “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở
nhiều Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa”, tơi đã nhận được rất nhiều
sự giúp đỡ tạo điều kiện của tập thể Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa
Giáo dục Chính trị, giảng viên, cán bộ các phòng, ban chức năng của Trường
Đại học Vinh. Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành về sự giúp đỡ đó.
Tơi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới lãnh đạo Huyện ủy, Các Ban
xây dựng Đảng, Đảng ủy các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Cẩm Thủy nơi tôi
nghiên cứu đề tài. Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Thị Phương Lê và những thầy,
cô đã hướng dẫn và giúp đỡ tơi hồn thành Luận văn này.
Tơi xin chân thành cảm ơn các bạn lớp Cao học Chính trị khóa 24, các
đồng chí lãnh đạo cơ quan và đồng nghiệp của tôi đang công tác tại cơ quan
Huyện ủy Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và
giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Với những kiến thức đã được học tơi sẽ vận dụng vào q trình công tác chuyên
môn được giao một cách sáng tạo nhất./.
Nghệ An, tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Nhàn
4
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng.
1.2. Quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng.
1.3. Tính tất yếu và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Kết luận chương 1
30
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN
ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN
CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội và đặc điểm
tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy trên các lĩnh vực
2.3. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Kết luận chương 2
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ
ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA
3.1. Quan điểm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đáu của các tổ
chức cơ sở đảng huyện Cẩm Thủy
3.2. Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đầu của các tổ
chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy
Kết luận chương 3
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC
3
4
5
11
11
11
17
26
32
32
44
61
65
66
66
69
95
96
98
103
5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân. TCCSĐ có vị trí, vai trị quan trọng
trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; Trong quá trình thực hiện thắng
lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Người căn dặn: “ Đảng phải luôn nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phải ln tự chỉnh đốn để hồn thành
nhiệm vụ vẻ vang”. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta luôn coi trọng việc
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Thực tiễn gần 90 năm qua đã khẳng định ý nghĩa to lớn của việc nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ, góp phần quan trọng xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, thực sự là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam. Nhiều TCCSĐ đã giữ vững và phát huy được vai trị
hạt nhân chính trị ở cơ sở. Thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị, cơng tác
chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở đã đem lại kết quả tích cực, dân chủ trong Đảng và trong xã
hội được mở rộng hơn. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn. Nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hồn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam có những bước trưởng thành, có thêm những
kiến thức và kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau
cũng bộc lộ một số yếu kém và khuyết điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của
6
Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đồn thể
chính trị - xã hội chưa đáp ứng được địi hỏi của tình hình thực tiễn hiện nay.
Công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kề cận còn
bất cập, công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Đảng viên cịn hạn chế,
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa
về phẩm chất đạo đức, lối sống, sức chiến đấu của một bộ phận TCCSĐ suy
yếu..
Những vấn đề trên đây đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt Nam những yêu
cầu phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn để phát triển ngang tầm với nhiệm vụ mới.
Đảng phải thực sự là lực lượng chính trị đáp ứng được u cầu địi hỏi khách
quan của xã hội, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, thực hiện
nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là một thành tố đầu tiên và quan trọng nhất
trong chủ đề của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong
những năm qua các TCCSĐ của huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa đã thể hiện
bản lĩnh chính trị, giữ vững vai trị lãnh đạo, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, thực
hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, lãnh đạo kinh tế có bước phát triển, đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện, Quốc phòng- An ninh được giữ vững, kết cấu hạ tầng nông thôn
tiếp tục được nâng cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên trưởng thành nhiều mặt, kiên
định mục tiêu lý tưởng, chấp hành tốt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Mặc dù vậy, do nhiều nguyên nhân, một số TCCSĐ ở Đảng bộ huyện
Cẩm Thủy còn bộc lộ nhiều yếu kém cả về lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội, cả
về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Một số đảng bộ chưa xác định đúng
mục tiêu, phương thức lãnh đạo, dẫn đến giảm sút vai trò lãnh đạo và sức chiến
7
đấu, làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, ảnh hưởng không nhỏ đến
kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở cũng như của tồn huyện.
Nhận thức được yêu cầu bức thiết trên, qua thời gian được đào tạo chương
trình Thạc sĩ chun ngành Chính trị học tại Trường Đại Học Vinh, được tiếp
thu những kiến thức lý luận cùng với những kinh nghiệm trong q trình cơng
tác tại cơ quan Huyện ủy Cẩm Thủy càng làm cho tôi thấy rõ hơn về tầm quan
trọng của công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là vấn đề củng cố, xây dựng TCCSĐ
ở huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do
trên chúng tôi chọn đề tài: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở Đảng ở nhiều Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chun ngành Chính trị học.
Trong thời gian qua, có rất nhiều bài viết, cơng trình đã trực tiếp hoặc
gián tiếp nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ. Có thể kể ra một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
Một số sách tham khảo: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong thời kỳ mới do GS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa và
PGS.TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn GS.TS
Nguyễn Phú Trọng (2012), Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Xây dựng, chỉnh
đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước của GS.TS Nguyễn Phú
Trọng (2012), Nxb Chính trị Quốc Gia - Sự thật phát hành (2/2017); Công tác
xây dựng Đảng và đổi mới phương thức của Đảng trong thời kỳ mới của tập thể
tác giả, Đại tá Lê Hải Triều chủ biên (2011), Nxb Chính trị Hành Chính, Hà Nội.
Một số đề tài luận văn thạc sĩ: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện
nay của tác giả Dương Trung Ý (2002); Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng nông thơn vùng có đơng đồng bào cơng giáo ở tỉnh Nam
Định trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp của tác giả Bùi Hữu
8
Dược (2003); Luận văn Thạc sỹ Chính trị học: Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cớ ở Đảng ở quận Ninh Kiều, huyện Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay của Trần Trúc Giang (2015).
Các cơng trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về TCCSĐ, đó cũng là nền tảng để chúng ta nghiên cứu, áp dụng vào
thực tiễn và tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế trong
công tác xây dựng Đảng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu
khoa học nào đi sâu nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
TCCSĐ ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Vì vậy, đề tài: “Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở Đảng bộ
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa” khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng
bố.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ và thực tiễn tại huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa; Luận văn đề xuất
các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các TCCSĐ ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ;
- Phân tích, đánh giá thực trạng các TCCSĐ ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy,
tỉnh Thanh Hóa;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ ở Đảng bộ huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các
TCCSĐ trên địa bàn huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, bao gồm loại hình cơ sở
Đảng xã, thị trấn và loại hình cơ sở Đảng của các cơ quan, đơn vị hành chính sự
nghiệp và doanh nghiệp trực thuộc Đảng bộ huyện Cẩm Thủy. Các số liệu dùng
để phân tích thực trạng các TCCSĐ huyện Cẩm Thủy được tác giả khảo sát và
tổng hợp theo báo cáo nhiệm kỳ của Huyện ủy Cẩm Thủy từ năm 2010 đến nay
và định hướng giải pháp cho những năm tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp lịch sử - logic, phương pháp thống kê và tổng hợp, phương
pháp phân tích lý luận gắp với thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng những tiêu chí
đánh giá chất lượng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, đồng thời
đánh giá đúng thực trạng kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên
nhân trong việc nâng cao lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở Đảng bộ
huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ ở Đảng bộ huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
cho các cấp ủy Đảng ở các địa phương có đặc điểm tương đồng với Đảng bộ
10
huyện Cẩm Thủy, đồng thời có thể làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy và
đảng viên.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là một tổ
chức thống nhất về chính trị, tư tưởng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tính
tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thống các cấp tổ chức
từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong hệ
thống đó, các tổ chức cơ sở đảng bao gồm chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở lập
thành nền tảng của Đảng. TCCSĐ trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước được thực hiện có hiệu quả và
trở thành hiện thực.
Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được Đảng ta ghi rõ ở Điều 21 - Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam: “Tổ chức cơ sở đảng (Chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở|)
là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Ở xã, phường, thị trấn có từ
ba Đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy, cấp
huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội,
công an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức
đảng (Tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên
trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức Đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên
nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực
12
tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp. Tổ chức cơ
sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ chức đảng trực
thuộc. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên chính thức trở lên, lập đảng
bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng ủy. Những trường hợp sau đây, cấp ủy
cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực
hiện: Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên; lập chi
bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên; lập đảng bộ bộ phận trực
thuộc đảng ủy cơ sở” [19, tr.35 – 37]. Theo quy định trên, khái niệm TCCSĐ
được gọi chung cho cả chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng
đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị cơ sở.
Ngay từ khi xây dựng tổ chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân,
C.Mác và Ph.ăngghen đã chỉ ra vị trí, vai trị đặc biệt của chi bộ Đảng. Thơng
qua điều lệ, những quan điểm, tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.ăngghen về xây
dựng Đảng đã được trình bày khá đầy đủ. Lần đầu tiên luận điểm xây dựng
Đảng đã xác định “Về cơ cấu, liên đoàn, chi bộ, khu bộ, tổng bộ, Ban chấp hành
Trung ương và Đại hội” [25, tr.733].
V.I.Lênin vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và
Ph.ăngghen thành hệ thống những tư tưởng, quan điểm về Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân Nga. Theo Người, tổ chức Đảng được xây dựng ở nhà máy,
công xưởng phải trở thành chỗ dựa cho công tác tuyên truyền, cổ động và công
tác tổ chức thực tiễn trong quần chúng. Chính từ đặc điểm đó, chi bộ Đảng đã
trở thành cầu nối của Đảng với các cơ quan cấp trên của Đảng, với quần chúng,
trực tiếp liên hệ với quần chúng, là nơi phản ánh kịp thời tâm tư nguyện vọng và
những kiến nghị chính đáng của quần chúng với Đảng. Đến Cách mạng tháng
Mười Nga, ngồi những chi bộ ở nhà máy, cơng xưởng cịn có các chi bộ theo
lãnh thổ, ở các câu lạc bộ. Chính điều này, đã thể hiện quan điểm nhất quán của
Người và là một đòn giáng vào những lời nói ấu trĩ của bon tư sản cho rằng,
13
Đảng Bơn sê vích hình như được xây dựng khơng phải như một Đảng của giai
cấp công nhân mà chỉ là một Đảng tri thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân
tích khá sâu sắc vị trí, vai trị của Chi bộ: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ
tốt thì mọi việc sẽ tốt” [26,tr.210]. Người còn nhấn mạnh mối quan hệ giữa chất
lượng chi bộ với chất lượng toàn Đảng. Theo người, để lãnh đạo cách mạng thì
Đảng phải mạnh “Đảng mạnh là do chi bộ tốt”, ngược lại “xây dựng chi bộ tốt,
chi bộ vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng” [26, tr.77]. Như vậy, chất
lượng của chi bộ có quan hệ chặt chẽ với biện chứng với chất lượng của Đảng.
Đối với quần chúng, Người viết “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh
đạo quần chúng ở cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan lãnh đạo
vững chắc ở địa phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung ương” [27,
tr.28]. Người còn chỉ rõ: “ Chi bộ là gốc rễ của Đảng trong quần chúng. Chi bộ
tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ
không ngừng. Trái lại, chi bộ yếu kém thì cơng việc khơng trơi chảy” [27,
tr.161].
Qn triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo, thành công vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là xây
dựng TCCSĐ đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo con thuyền cách mạng Việt Nam
vượt qua bao thác ghềnh để đi đến thắng lợi. Đặc biệt, trong tình hình đổi mới
hiện nay, vị trí vai trị nền tảng của chi bộ Đảng còn được thể hiện hơn bao giờ
hết. Thật vậy, qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc từ Đại hội lần thứ VII cho đến
Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã thể hiện rõ, cụ thể tại Điều lệ Đảng cộng
sản Việt Nam được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua đã xác định: “Tổ chức cơ
sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở” [19, tr.35].
Qua những vấn đề đã trình bày ở trên cho thấy, mỗi TCCSĐ (chi bộ cơ
sở, đảng bộ cơ sở) là một tế bào cấu thành cơ thể sống và là yếu tố bảo đảm cho
14
sự phát triển bền vững của toàn Đảng. Hơn nữa, TCCSĐ không những là tế bào
cấu thành cơ thể sống, các TCCSĐ còn là tế bào cơ sở, nền tảng của toàn bộ sự
sống của Đảng gắn chặt với đời sống xã hội. Chính vì vậy, mà TCCSĐ trở thành
hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong quần chúng, trực tiếp đưa đường lối
chủ trương của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy, đồng
thời qua hiện thực sinh động của cuộc sống, từ tâm tư nguyện vọng của quần
chúng để phản ánh với Đảng. Đồng thời, TCCSĐ là nơi hàng ngày đảng viên
sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục rèn luyện đảng viên, nơi
sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho Đảng. Ngày nay, trong
công cuộc đổi mới đất nước, thực tế cho thấy nơi nào có TCCSĐ trong sạch,
vững mạnh, nội bộ đồn kết thì nơi đó thực hiện mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng kịp thời và hiệu quả, kinh tế - xã hội được nâng lên rõ rệt,
an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, lòng tin của dân đối với Đảng
không ngừng được củng cố và nâng lên, quan hệ Đảng với quần chúng ngày
càng thắt chặt. Ngược lại, nơi nào TCCSĐ yếu kém, mất đoàn kết, đảng viên
khơng gương mẫu và tiên phong thì lịng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm
sút, tiềm năng, thế mạnh của địa phương không được khai thác, chủ trương,
đường lối của Đảng thực hiện không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không
được thực hiện, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
- Chức năng:
Chức năng của TCCSĐ được quy định rất cụ thể trong Nghị quyết Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: Đảng lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ
theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đạt hiệu quả cao, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
Tại điều 1, Quy định số 127-QĐ/TW ngày 01/3/2018 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của
15
Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường,
thị trấn là hạt nhân chính trị ở cơ sở, chấp hành đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị
của địa phương và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả; chủ động và phối hợp với các
cơ quan, tổ chức liên quan để xây dụng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh,
xã phường, thị trấn giàu đẹp, văn minh” [15, tr.8].
TCCSĐ phải ln ln đảm bảo tính chính trị, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ, bất kỳ chủ
trương, giải pháp nào đề ra. Cùng với đó tạo sự phát triển về mọi mặt: kinh tế,
chính trị, xã hội; nâng cao hiệu quả công tác chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu. Kịp thời giải quyết những nguyện vọng chính đáng, thiết thực, bức
xúc của nhân dân.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tồn diện và duy nhất, khơng có lĩnh vực nào
trong xã hội khơng có sự lãnh đạo của Đảng; Đảng là hạt nhân chính trị, TCCSĐ
đều phải hết sức nhạy cảm, nắm vững những vấn đề chung và những vấn đề cụ
thể để có những chủ trương, nghị quyết lãnh đạo đúng đắn và sâu sát với tình
hình thực tiễn. Thực tế cho thấy, một số nơi, một số địa phương do không thực
hiện tốt chức năng lãnh đạo nên dẫn đến tình trạng tham nhũng,lãng phí, quan
liêu, xa dân, mất dân chủ, chia rẽ nội bộ, qua đánh giá, xếp loại nhiều năm liền
không đạt trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước hiện nay,
chức năng lãnh đạo của TCCSĐ còn thể hiện ở việc phải làm cho các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trở thành
thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
- Nhiệm vụ:
Tùy theo từng cấp, từng loại hình mà mỗi TCCSĐ có nhiệm vụ riêng. Tuy
nhiên, tất cả các TCCSĐ đều có 05 nhiệm vụ chung, được quy định Điều 23
16
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI quy định, gồm:
“1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, Chi bộ và lãnh đạo thực hiện
có hiệu quả.
2. Xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đồn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính sự
nghiệp, quốc phịng, an ninh và các đồn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức Đảng
và Đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Đảng ủy cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên
trực tiếp ủy quyền thì được quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên.” [19, tr.3941].
Năm nhiệm vụ trên đây là năm nội dung cơ bản, chung nhất để thực hiện
chức năng lãnh đạo của TCCSĐ, năm nhiệm vụ này có vị trí và yêu cầu riêng
không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền,
ngoài những nhiệm vụ là thực hiện đường lối, chính sách, xây dựng Đảng thì các
nhiệm vụ về lãnh đạo xây dựng chính quyền và các đồn thể chính trị trong hệ
thống chính trị, lãnh đạo các tổ chức kinh tế, hành chính, văn hố, xã hội và
17
thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, lãnh đạo quần chúng tham gia xây
dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền là những nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng. Tổ
chức Đảng phải tiến hành công tác kiểm tra.
Như vậy, trên cơ sở các nhiệm vụ nêu trên, từng TCCSĐ phải cụ thể hóa
thành những nhiệm vụ phù hợp với đặc điểm và tình hình cụ thể của mình đối
với từng giai đoạn nhất định. Cụ thể như: quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ
phát triển sự nghiệp văn hóa, thơng tin, giáo dục, y tế, dân số và kế hoạch hóa
gia đình, thực hiện chính sách xã hội, phát triển kinh tế, giảm ngèo bền vững,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, việc thực hiện sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; động viên nhân dân hoàn thành nghĩa
vụ đối với nhà nước, phát huy dân chủ ở cơ sở, thực hiện cơng bằng xã hội,
chống tham nhũng, lãng phí; lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
1.2. Quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng
1.2.1. Quan điểm về năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Theo quan điểm của tâm lý học mác xít thì năng lực được hiểu là tổ hợp
các phẩm chất sinh lý, thần kinh và tâm lý đảm bảo cho con người hoặc tổ chức
thực hiện có hiệu quả một hoạt động nào đó.
Năng lực được phân chia thành năng lực chung và năng lực riêng (năng
lực chuyên biệt). hoạt động lãnh đạo của cá nhân hay tập thể là một dạng hoạt
động đặc thù trong đời sống xã hội. Đây là một hoạt động phức tạp, đa dạng và
có tính tổng hợp sáng tạo cao. Nếu xét về mặt cơ cấu, người ta phân chia hoạt
động lãnh đạo thành ba khâu: hoạt động nhận thức, hoạt động ra quyết định và
hoạt động tổ chức thực hiện quyết định.
Theo cuốn sách Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX
của Đảng (2001), do PGS Vũ Hữu Ngoạn chủ biên thì năng lực lãnh đạo của
Đảng chính là “Khả năng đề ra được mục tiêu cách mạng đúng đắn, cơ bản,
18
lâu dài, cũng như trong từng thời kỳ và bằng những phương thức, phương
pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả” [33, tr.38].
Để đảm bảo sự lãnh đạo của mình, các tổ chức Đảng phải có năng lực
lãnh đạo và nó được cấu thành từ các thành tố: năng lực nhận thức, xây dựng các
Nghị quyết và ra các quyết định; năng lực tổ chức, động viên thực hiện các
quyết định và năng lực kiểm tra. Các thành tố trên đều có mối quan hệ tác động
qua lại mật thiết với nhau, trong đó năng lực nhận thức là cơ sở để các tổ chức
Đảng xây dựng các Nghị quyết đúng đắn, sát hợp.
Các loại nghị quyết được ban hành từ cấp chi bộ đến cấp Trung ương, dù
ở cấp nào cũng đều mang dấu ấn của trí tuệ, ý chí của tập thể, dù trực tiếp hay
gián tiếp đều tham gia vào quá trình ra quyết định thực hiện, giải quyết những
vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Dù nghị quyết ở trong phạm vi,
mức độ nào (Nghị quyết của Trung ương hay của chi bộ) cũng đòi hỏi kiến thức,
trình độ, tư duy, lý luận và thực tiễn cao của tập thể lãnh đạo từ chi bộ, chi ủy
đến Ban chấp hành Trung ương.
Năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị nghị quyết của
Đảng là khả năng nắm bắt, am hiểu các vấn đề thuộc phạm vi đường lối, chủ
trương, chỉ thị, nghị quyết đề ra; đồng thời biết cách tổ chức xây dựng điều kiện,
huy động và bố trí lực lượng có biện pháp đúng để triển khai thực hiện có kết
quả những chương trình, kế hoạch đặt ra của nghị quyết. Như vậy năng lực tổ
chức thực hiện chính là đảm bảo cho các chỉ thị, nghị quyết thực sự đi vào cuộc
sống, có hiệu quả.
Năng lực lãnh đạo cịn thể hiện ở năng lực kiểm tra nhằm duy trì tính liên
tục, điều chỉnh mức độ thực hiện và các hành vi sai lệch nhằm đảm bảo hiệu quả
tổ chức thực hiện cũng như vai trò lãnh đạo của các TCCSĐ.
Như vậy, có thể khẳng định năng lực lãnh đạo của TCCSĐ chính là khả
năng quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cấp trên giao và vận dụng sáng tạo, đúng đắn,
19
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương cùng với công tác kiểm tra đảm
bảo hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện. Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ
phụ thuộc vào khả năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp quần
chúng của từng cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, trong đó, tiêu biểu nhất là
thể hiện ở năng lực lãnh đạo của cấp ủy. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy càng cao
thì việc đề ra chủ trương, kế hoạch và chương trình hành động của đơn vị càng
bảo đảm kịp thời, đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả. Năng lực lãnh đạo của tổ
chức đảng còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, khả năng của người đứng đầu
tổ chức đảng; Bí thư cấp ủy phải là người có đủ phẩm chất, năng lực, nhất là
năng lực trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn; là người cán bộ có uy tín cao, gương
mẫu về mọi mặt, có khả năng tập hợp, quy tụ quần chúng, biết khơi dậy trí tuệ
của cán bộ, đảng viên, phối hợp chặt chẽ các hoạt động của Chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; triển khai tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội, quốc phịng
an ninh, cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đi đúng hướng và
đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Quan điểm về sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Sức chiến đấu của TCCSĐ là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; là sự thống nhất cao về ý chí và hành động, tạo nên sức bền nội tại của
TCCSĐ; là ý chí vượt khó vươn lên hoàn thành nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh;
là khả năng bảo vệ trong sạch nội bộ và đấu tranh có hiệu quả chống lại sự
chống phá của kẻ thù trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; là sự tiên
phong gương mẫu của cán bộ đảng viên; là mối quan hệ giữa Đảng với dân và
uy tín của Đảng trong nhân dân.
- Sức chiến đấu của TCCSĐ được thể hiện ở bản lĩnh chính trị, lập trường
tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân, sự vững vàng TCCSĐ trước những
khó khăn, diễn biến phức tạp của tình hình chính trị - xã hội ở trong nước và
quốc tế. Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quyết
20
tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Sức chiến đấu của Đảng
còn thể hiện sự thống nhất giữa ý chí và hành động trong Đảng thơng qua thực
hiện tốt tự phê bình và phê bình trong Đảng, dựa trên cơ sở các nguyên tắc của
Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ để làm rõ đúng, sai của tổ chức
và từng cá nhân xuất phát từ lợi ích chung. Khả năng chủ động đấu tranh, ngăn
chặn và đẩy lùi các biểu hiện giảm sút lý tưởng và ý chí chiến đấu, kiên quyết
đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những kẻ thối hóa biến chất
về mặt đạo đức, lối sống ra khỏi Đảng, đấu tranh bảo vệ trong sạch nội bộ, bảo
vệ Đảng; đồng thời đấu tranh ngăn chặn sự tác động của những quan điểm, tư
tưởng phản động xâm nhập vào Đảng. Thể hiện ở ý thức tập thể trong lãnh đạo
và sinh hoạt của Đảng; ở tính kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội bộ. Xây dựng
TCCSĐ trong sạch, vững mạnh. Trình độ, năng lực thực tế và vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng, lối sống, phương pháp công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng
viên cũng như TCCSĐ.
Sức chiến đấu của Đảng được thể hiện ở mọi lĩnh vực, trên các mặt trận
kinh tế, văn hóa xã hội, ngoại giao, quốc phịng, an ninh, xây dựng đảng, xây
dựng hệ thống chính trị…nó diễn ra khơng chỉ ở bên ngồi mà cịn diễn ra ngay
trong nội bộ đảng. Bởi vì là một tổ chức chính trị hoạt động trong xã hội nên tổ
chức Đảng cũng tất yếu phản ánh vào trong bản thân nó những mâu thuẫn của
xã hội, những đặc điểm của các giai đoạn lịch sử mà nó đã trải qua, nhất là
những mâu thuẫn, những đặc điểm xã hội từ khi Đảng ta trở thành Đảng cầm
quyền.
Cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng là tất yếu khách quan, vì cũng như mọi
đảng chính trị xã hội khác, Đảng ta là một cơ thể chính trị xã hội sống động,
khơng ngừng vận động phát triển, không ngừng phải đấu tranh giữa cái tiên tiến
và cái lạc hậu, giữa tích cực và tiêu cực…để vươn lên. Chỉ có khác là, đối với
Đảng ta đấu tranh nội bộ không phải là cuộc đấu tranh nhằm giải quyết những
21
vấn đề nội bộ của Đảng, mà là đấu tranh đi đến thống nhất và đoàn kết nội bộ.
Đấu tranh để loại trừ những tư tưởng, hành động phi cộng sản. Đấu tranh để
chống lại những hành vi, những biểu hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, loại trừ những
biểu hiện thối hóa, biến chất, những biểu hiện tiêu cực khác trong Đảng.
Như vậy, sức chiến đấu của Đảng là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, là sự thống nhất về ý chí và hành động, nhằm tạo nên sức
mạnh, sức bền nội tại của Đảng. Từ đó có thể thấy sức chiến đấu của Đảng được
thể hiện ở những nội dung sau:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng trước những khó khăn và thách
thức, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
- Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những
phần tử thối hóa biến chất, tham nhũng, quan liêu ra khỏi Đảng, đấu tranh ngăn
chặn sự tác động của những quan điểm, tư tưởng phản động, bảo vệ sự trong
sạch nội bộ.
- Tính tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết nội bộ, ý thức tập thể trong lãnh
đạo và sinh hoạt Đảng.
- Đạo đức cách mạng, phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực thực tế và
vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lối sống, phương
pháp công tác cũng như phong cách lãnh đạo của cán bộ đảng viên.
Như vây, từ những vấn đề đã trình bày trên, có thể khẳng định sức chiến
đấu của TCCSĐ chính là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng và tổ chức; là
sự thống nhất về ý chí và hành động, là khả năng đấu tranh chống lại mọi tác
động làm suy yếu TCCSĐ, là sự gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị.
22
1.2.3. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
Từ quan điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ có thể
khẳng định: Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là vấn đề cơ bản
nhất và mang tính quyết định để TCCSĐ lãnh đạo hồn thành thắng lợi nhiệm
vụ chính trị và đây cũng chính là những căn cứ chủ yếu để xây dựng, đồng thời
là căn cứ xem xét, đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của TCCSĐ.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là khả năng nắm bắt và
xử lý đúng yêu cầu nhiệm vụ nảy sinh trong thực tiễn. Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ không bất biến mà luôn vận động, phát triển theo yêu
cầu nhiệm vụ của cách mạng. Giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ có sự tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị, nhưng mỗi mặt đều có những biểu hiện đặc trưng, có
tính độc lập tương đối chứ khơng hồn tồn đồng nhất với nhau.
Năng lực lãnh đạo của TCCSĐ tốt sẽ là cơ sở cho sức chiến đấu của
TCCSĐ cao; đồng thời, TCCSĐ có sức chiến đấu cao là điều kiện để năng lực
lãnh đạo tốt. Do đó, TCCSĐ có sức chiến đấu cao thì năng lực lãnh đạo càng tốt
và ngược lại. Có thể nói, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ là khả
năng nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước, nghị quyết của cấp trên và vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực
tiễn của từng địa phương, đơn vị. Là khả năng tập trung được nguồn lực, khai
thác và phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống trên mọi lĩnh vưc
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ trong mỗi giai đoạn
của cách mạng.
Như vậy, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là hai mặt của một
vấn đề có liên quan biện chứng với nhau, thống nhất tuyệt đối không tách rời,
chúng kết hợp chặt chẽ và thống nhất biện chứng với nhau, có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, hoà quện vào nhau, tác động thúc đẩy lẫn nhau, làm tiền để Đảng
23
tồn tại và phát triển. Năng lực lãnh đạo càng nâng cao thì sức chiến đấu của
Đảng càng được tăng cường, sức chiến đấu càng được tăng cường và bền vững
thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng cao. Do đó, khi nói đến năng lực
lãnh đạo của Đảng thì khơng thể khơng nói đến việc nâng cao sức chiến đấu của
Đảng và ngược lại. Vì vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng luôn
song song tồn tại và cùng được Đảng coi trọng và tăng cường. Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ tuỳ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và
nhiệm vụ chính trị ở từng thời kỳ của cơ sở; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của TCCSĐ không phải là cứng nhắc, bất di bất dịch, mà nó phải ln vận động
phát triển để nắm bắt và xử lý đúng những công việc trọng tâm trong từng thời
gian, từng tình hình cụ thể của cơ sở, đảm bảo thể hiện được vai trò là hạt nhân
lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng
Để đánh giá chính xác được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ, chúng ta phải căn cứ vào các chức năng, nhiệm vụ của từng TCCSĐ.
Để xây dựng tiêu chí đánh giá được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ, chúng ta có thể căn cứ vào các quy định sau:
- Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 23), được thông qua tại Đại hội
lần thứ XI của Đảng.
- Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 02/02/1999 của Ban Chấp hành Trung
ương (khóa VIII) về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng
Đảng Hiện nay
- Đẩy mạnh xây dựng, kiện toàn và tăng sức chiến đấu cho TCCSĐ gắn
với xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở và phong trào cách
mạng của quần chúng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX).
24
- Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung
ương hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng
TCCSĐ, đảng viên hàng năm.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
- Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa
XII) về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện ‘tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
- Quy định số 220, ngày 27/12/2013 - QĐ/TƯ của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa XI) về chức năng, niệm vụ, tổ chức, bộ máy cơ quan chuyên
trách tham mưu giúp việc huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy trực thuộc tỉnh ủy,
thành ủy.
Do vậy, để đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ hiện
nay cần dựa trên kết quả việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, cụ thể là:
+ Về thực hiện nhiệm vụ chính trị:
Việc triển khai, cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, nhiệm
vụ được cấp ủy cấp trên giao và kết quả tổ chức thực hiện; kết quả thực hiện các
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
theo quy định.
+ Về công tác chính trị tư tưởng:
Tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
quán triệt, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
đấu tranh với những biểu hiện, hành vi sai trái; tuyên truyền, vận động cán bộ,
đảng viên và nhân dân học tập và làm theo các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Xây dựng và thực hiện các tiêu chí về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng
viên, định kỳ đánh giá kết quả và biểu dương các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
25
+ Về công tác tổ chức, cán bộ và xây dựng đảng bộ, chi bộ:
Điều này được thể hiện ở kết quả thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, đảng
viên, bảo vệ chính trị nội bộ. Việc thực hiện các nguyên tắc trong tổ chức và
sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; việc thực hiện quy chế
làm việc của cấp ủy; đổi mới phương thức lãnh đạo; nâng cao chất lượng sinh
hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư chi bộ; cơng
tác quản lý, phân cơng nhiệm vụ cho đảng viên và kết nạp đảng viên mới; giới
thiệu đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư
trú thro quy định 76-QĐ/TW; thực hiện cải cách tổ chức bộ máy theo hướng tinh
gọn, đảm bảo hoạt động hiệu lực hiệu quả, đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng.
+ Về lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội ở địa
phương, đơn vị:
Lãnh đạo xây dựng chính quyền phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý, xem
xét, giải quyết kịp thời, đảm bảo đúng quy định những vấn đề phát sinh ở cơ sở.
Tăng cường thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của
chính quyền, các tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh khối đại đồn kết
tồn dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
+ Về công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật của Đảng:
Đó là việc xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát và kết quả thực hiện của
cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp và công tác tự kiểm tra, giám sát của đảng bộ,
chi bộ; cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quan liêu; việc
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; phát hiện, xử lý cấp ủy, tổ chức đảngvà
đảng viên sau kiểm tra, giám sát.