Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hà nội trong tạp văn nguyễn ngọc tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.37 KB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ KIM NHUNG

HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ KIM NHUNG

HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 82.20.121

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. ĐINH TRÍ DŨNG

NGHỆ AN - 2018




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 8
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 9
Chương 1. TẠP VĂN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TIẾN .... 10

1.1.Giới thuyết về tạp văn......................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm tạp văn ...................................................................... 10
1.1.2. Phân biệt tạp văn với các thể loại khác ....................................... 12
1.2. Sự nở rộ của thể loại tạp văn trong thời gian gần đây ........................ 18
1.2.1. Những nguyên nhân thuận lợi để tạp văn phát triển ................... 18
1.2.2. Bức tranh chung của tạp văn trong văn học Việt Nam đương đại .. 22
1.3. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến ........................................ 27
1.3.1. Vài nét về cuộc đời .................................................................... 27
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến ................................ 28
1.4. Nhìn chung về đề tài Hà Nội trong tạp văn, tản văn Việt Nam
đương đại và trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến ................................. 33
1.4.1. Đề tài Hà Nội trong các tạp văn, tản văn Việt Nam đuơng đại ... 33
1.4.2. Đề tài Hà Nội trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến ................. 38
Tiểu kết chương 1..................................................................................... 41
Chương 2. HÌNH TƯỢNG ĐẤT VÀ NGƯỜI HÀ NỘI TRONG TẠP VĂN
NGUYỄN NGỌC TIẾN ................................................................................ 42


2.1. Đất Hà Nội trong cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tiến............................. 42
2.1.1. Hà Nội - vùng đất thiêng của người Việt .................................... 42


2.1.2. Hà Nội qua những thăng trầm lịch sử ......................................... 44
2.1.3. Hà Nội với muôn mặt đời sống đa dạng ..................................... 47
2.2. Người Hà Nội trong cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tiến ........................ 71
2.2.1. Những nét đẹp của người Hà Nội ............................................... 71
2.2.2. Những mặt trái của người Hà Nội .............................................. 77
2.3. Cái “tôi” tác giả trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ............................. 78
2.3.1. Cái tôi am hiểu sâu sắc về đất và người Hà Nội xưa và nay ....... 80
2.3.2. Cái tơi có tình u tha thiết với Hà Nội ...................................... 84
Tiểu kết chương 2..................................................................................... 86
Chương 3. HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG HÀ NỘI
TRONG TẠP VĂN NGUYỄN NGỌC TIẾN ................................................. 87

3.1. Cách đặt nhan đề ............................................................................... 87
3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nhan đề .............................................. 87
3.1.2. Cách đặt nhan đề của Nguyễn Ngọc Tiến................................... 88
3.2. Nghệ thuật kết cấu ............................................................................. 88
3.2.1. Khái niệm kết cấu ...................................................................... 88
3.2.2. Các hình thức kết cấu ................................................................. 89
3.3. Tổ chức giọng điệu ............................................................................ 92
3.3.1. Khái niệm giọng điệu ................................................................. 92
3.3.2. Các sắc giọng chủ yếu ................................................................ 93
3.4. Ngôn ngữ........................................................................................... 98
3.4.1. Ngơn ngữ mang tính chất khảo cứu ............................................ 98
3.4.2. Ngơn ngữ báo chí ..................................................................... 101
3.4.3. Ngơn ngữ đời thường, gần gũi ................................................. 102

Tiểu kết chương 3................................................................................... 104
KẾT LUẬN ............................................................................................... 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 107


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tạp văn là thể loại đang “lên ngôi” trong nền văn học Việt Nam
đương đại cũng như trong văn hoá đọc hiện nay. Dưới tác động của thời đại
khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như do đòi hỏi của cuộc sống, áp lực bởi
thời gian nên độc giả hôm nay dường như có xu hướng đọc nhanh, đọc được
nhiều và quan tâm đến các vấn đề nóng hổi mang tính thời sự của đời sống
hàng ngày. Vì vậy người đọc tìm đến các thể loại văn học có khả năng đáp
ứng được mục đích đó như tạp văn, tản văn, tiểu phẩm, truyện ngắn mini,...
Riêng ở thể loại tạp văn do lợi thế ở tính năng động, linh hoạt, khả năng
nhanh nhạy trong việc phản ánh hiện thực đời sống cũng như trong q trình
tìm tiếng nói tri âm, đồng điệu của người đọc nên được nhiều nhà văn quan
tâm, thử sức.
1.2. Trong những năm gần đây, Nguyễn Ngọc Tiến là một trong số ít
các nhà văn rất được dư luận chú ý. Hơn một phần tư thế kỉ cầm bút cùng
với những trải nghiệm cuộc sống của một nhà báo và bằng sự lao động nghệ
thuật miệt mài, nghiêm túc, Nguyễn Ngọc Tiến đã dần định hình cho mình
một phong cách nghệ thuật riêng. Suy tư sâu sắc, trải nghiệm phong phú, lối
viết tự nhiên, linh hoạt chính là nền tảng, là điểm cốt lõi làm nên sức sống
cho các tác phẩm của anh. Nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến nói
chung, tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến nói riêng, chúng tơi muốn góp phần hiểu
hơn sự nghiệp của một nhà văn có nét riêng độc đáo của văn xi Việt Nam
đương đại.
1.3. Đi xuyên Hà Nội, Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội, 5678 bước

chân quanh Hồ Gươm là bốn tập tạp văn liên tiếp được xuất bản trong những
năm gần đây đã phần nào thể hiện sức sáng tạo rất dồi dào, mạnh mẽ của nhà


2
văn Nguyễn Ngọc Tiến. Trong đó, Đi ngang Hà Nội và Đi dọc Hà Nội là hai
cuốn sách vừa mang lại cho anh Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà
Nội. Bốn tập tạp văn kể trên của Nguyễn Ngọc Tiến đã được cơng chúng đón
nhận với sự chú ý đặc biệt. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ khám
phá sâu sắc hơn đặc điểm riêng trong các tạp văn của anh cũng như góp thêm
một cách nhìn tổng hợp về thể loại tạp văn.
1.4. Thủ đơ Hà Nội khơng chỉ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của cả nước mà cịn là đề tài chủ yếu của thơ ca, nhạc, hoạ. Riêng trong lĩnh
vực văn học, có rất nhiều nhà văn xuất sắc viết về đề tài này như: Thạch Lam,
Vũ Bằng, Tơ Hồi, Nguyễn Tn, Băng Sơn… Thế nhưng các tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tiến vẫn thể hiện được bản sắc riêng, có giá trị riêng vì khi viết
về Hà Nội anh thiên về khám phá lịch sử Hà Nội, trầm tích văn hố Hà Nội
với những bước thăng trầm, chuyển mình gắn liền với mn mặt đời sống
phong phú, phức tạp. Anh kể về những chuyện “lặt vặt” nhưng “rất Hà Nội”.
Anh khơng nhìn Hà Nội theo con mắt đạo đức mà theo con mắt văn hoá, nghệ
thuật và hiện thực xã hội. Bởi vậy, Hà Nội với Nguyễn Ngọc Tiến là những
thứ “gần gũi và thân thương”, thiêng liêng và hào hoa.
Đó là những lý do để chúng tơi lựa chọn đề tài Hà Nội trong tạp văn
Nguyễn Ngọc Tiến làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nhận xét, đánh giá chung về bốn cuốn sách viết về Hà
Nội của Nguyễn Ngọc Tiến
Tạp văn là một khái niệm chưa được minh định rõ ràng, nhiều lúc còn
lẫn lộn với các tên gọi khác như tản văn, tùy bút, bút kí, tạp bút, tạp cảm,…
Từ những tiếp nhận, cảm thụ về sáng tác tạp văn trong nền văn học cận đại

Trung Quốc (tiêu biểu là các sáng tác của Lỗ Tấn), đầu thế kỉ XX, văn học
Việt Nam cũng đã xuất hiện những sáng tác theo kiểu tạp văn và từng bước


3
hồn thiện thể loại này. Có thể kể đến những tên tuổi như: Nguyễn Tuân,
Thạch Lam, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố... Gần đây, tạp văn đã trở thành món ăn
tinh thần hàng ngày cần thiết và có xu hướng ngày càng được yêu thích nhiều
hơn. Trên các tờ báo và nhiều cuốn sách ra mắt nhiều chuyên mục nhàn đàm,
tản văn, tạp văn… với sự góp mặt của đơng đảo các thế hệ như: Nguyễn Khải
(Tạp văn), Đỗ Chu (Tản mạn trước đèn), Thảo Hảo (Nhân trường hợp chị
Thỏ Bông), Tạ Duy Anh (Ngẫu hứng sáng trưa chiều tối), Nguyễn Ngọc Tư
(Tạp văn).v.v.. Trong lĩnh vực nghiên cứu, khái niệm tạp văn cũng được quan
niệm rất phong phú. Mỗi nhà nghiên cứu có một nhận định, quan niệm riêng
về tạp văn từ Dương Tấn Hào, Hoàng Ngọc Hiến, Trần Xuân Đề, Đỗ Hải
Ninh, Trương Chính, Hồng Trung Thơng đến các định nghĩa trong các từ
điển thuật ngữ văn học.
Qua khai thác các nguồn tư liệu sách, báo (báo viết và báo mạng), các
bài viết phê bình, giới thiệu, chúng tơi nhận thấy có nhiều nhận xét, đánh giá
chung về bốn cuốn sách thuộc thể loại tạp văn viết về Hà Nội của Nguyễn
Ngọc Tiến.
Trong bài viết Nguyễn Ngọc Tiến: Tôi luôn mơ về một Hà Nội thơm
phức như thế, Lạc Thành đánh giá: “Những trang sách viết về Hà Nội của
Nguyễn Ngọc Tiến ngồn ngộn cảm xúc về cuộc sống. Qua cuốn sách ấy,
người đọc được chứng kiến thêm Hà Nội với nhiều góc cạnh: Những bước
hình thành nên thành phố kiểu phương Tây do người Pháp lập, những thú
chơi, phong tục của thời trước, hay tiến trình lịch sử của Hà Nội....”
(). Trên bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 10 2015, tác giả Yên Minh chỉ ra: “Sau một loạt các ấn phẩm về Hà Nội như:
5678 bước quanh hồ Gươm, Đi ngang Hà Nội, Đi dọc Hà Nội,… mới đây
nhất nhà văn, nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến lại tiếp tục trình làng cuốn khảo cứu

mang tên Đi xuyên Hà Nội… Ở những cuốn sách này, Nguyễn Ngọc Tiến vẫn


4
cứ nhẩn nha bàn đủ thứ chuyện về Hà Nội - lớn thì quy hoạch kiến trúc, đơ
thị, di sản văn hóa, rồi thì đời sống dân sinh… Sự thay đổi không ngừng của
Hà Nội từ khoảng hơn 100 năm trở lại hiện lên rõ nét trên từng con chữ của
ơng. Trăn trở có, tiếc nuối có, tự hào cũng có”. Nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình đã cùng chung ý kiến với Xuân Phong: “Hình như những cuốn sách của
anh đều liên quan đến chuyện “đi”, từ đi “quanh” đến đi “ngang, dọc” Hà
Nội, nơi anh sinh ra và lớn lên, làm việc và trưởng thành, cũng là nơi ghi dấu
cuộc đời khơng mấy sn sẻ của mình mà dù đi đâu, chơi đâu, làm đâu anh
cũng luôn hướng về nó. Vì thế rất nhiều đề tài của hai cuốn sách đều là những
đề tài “ít đụng hàng hoặc khơng đụng hàng” (). Lợi thế văn
chương và làm báo cho anh cách viết sâu, cung cấp nhiều tư liệu dưới dạng
đối chiếu, so sánh, tìm ra cái mới, thậm chí lật ngược vấn đề, gợi mở cho
người đọc suy nghĩ theo nhiều hướng. Những trang viết của anh vì thế rất thú
vị, có nhiều thứ để đọc, để tìm hiểu và người ta nhận ra rằng anh viết rất
nghiêm túc, viết có trách nhiệm, một thứ trách nhiệm khơng ai ràng buộc
nhưng lại chặt chẽ hơn tất thảy mọi thứ luật định nào, một thứ ràng buộc cá
nhân với mỗi con chữ được đưa ra. Với cuốn sách mới xuất hiện gần đây, Đi
dọc Hà Nội cũng vậy. Những điều này vốn không xa lạ với người Hà Nội
cũng như những người từng sống ở Hà Nội, tuy nhiên để hiểu một cách thấu
đáo thì khơng phải dễ. Cứ như thế, anh đưa người đọc lật giở từng trang đời
sống của người Hà Nội, của đất Hà Nội. Để viết ra một cách có hệ thống
những vấn đề này khơng đơn giản, nhưng Nguyễn Ngọc Tiến đã làm được,
anh cũng khiến nhiều người ngạc nhiên bởi tốc độ viết nhanh đến chóng mặt
của mình. Tác giả Huỳnh Thị Bích Ngọc nhận xét: “Anh chọn mảng đời
sống thường ngày của Hà Nội và câu chuyện của những người dân, đề tài rất
ít người viết nếu khơng nói nó cịn khá trống trong các bộ sách đồ sộ về Hà

Nội. Anh cũng cho rằng khơng có dân sẽ khơng có lịch sử và khơng có đời


5
sống thị thành với những chi tiết ngoắt ngoéo thì diện mạo Hà Nội gầy gò”
[41, tr.89-97]. Tất cả chúng đều là những câu chuyện độc đáo về mảnh đất
kinh kì, được tái hiện lên một cách tự nhiên và dung dị để người đọc có thể
hình dung ra một Hà Nội cổ kính, đơi khi lại xơ bồ nhưng vẫn luôn là một
Hà Nội riêng biệt và độc đáo. Bộ sách khảo cứu về Hà Nội của Nguyễn
Ngọc Tiến, là một cuộc phiêu lưu vô cùng đặc biệt mà tác giả đã tạo ra cho
những ai yêu mến Hà Nội. Mỗi một tác phẩm, lại có nét riêng biệt cùng với
đó là những câu chuyện về con người, xã hội, văn hóa, lịch sử,… được tác
giả tái hiện lại vô cùng đặc sắc. Tú Duyên nhận xét: “Đây là một bộ sách
dành cho những người muốn tìm hiểu về Hà Nội và cả những người muốn
tìm lại những kí ức đã vơ tình qn lãng về nơi đây. Hãy cùng Nhà xuất bản
Trẻ điểm lại bộ sách lí thú này” (Những tác phẩm viết vể Hà Nội của Nguyễn
Ngọc Tiến, ). Tác giả Đinh Nhung khẳng định:
“Đọc những trang sách viết về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, độc giả như
được lật giở từng trang chân thật nhất về đời sống của người Hà Nội, của
đất Hà Nội. Anh viết đơn giản nhưng có hệ thống; khơng màu mè, kiểu
cách mà người đọc vẫn thấy rất cuốn hút. Trò chuyện với nhà báo Nguyễn
Ngọc Tiến về Hà Nội (Trò chuyện với nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến về Hà Nội,
http:// www.nguoiduatin.vn).
2.2. Những nhận định, đánh giá về từng cuốn tạp văn:
Mỗi cuốn tạp văn, tác giả thể hiện một cách cảm nhận, một góc nhìn
riêng về Hà Nội.
Cuốn sách Đi xuyên Hà Nội “là sự cố gắng nhìn vào bản chất của đơ
thị ở khía cạnh khoa học nhân văn gần gũi, có sự khảo cứu sâu rộng các
nguồn tư liệu, nên độ hấp dẫn nằm ở chính sự sống động ấy. Tất cả dựng nên
một cách tự nhiên chân dung một Hà Nội vừa tài hoa vừa xô bồ, cổ kính mà

ln đầy chất đương đại” (Nguyễn Ngọc Tiến lại Đi xuyên Hà Nội, Đại Mỹ


6
Lệ, Nhận xét về cuốn sách, nhà phê bình
Nguyễn Trương Quý nói: “Giọng văn thong thả, chậm rãi, có chút lãnh đạm
làm tăng thêm cảm giác “truyền kỳ” của những câu chuyện lạ, nhất là những
điều gợi nên suy ngẫm về khoảng cách giữa văn minh và u tối ở một đô thị
vừa già cỗi lại vừa lắm nỗi ngây thơ... Nhiều chỗ tác giả chỉ đưa ra những
con số và sự kiện mà người đọc cũng nghẹn ngào. Vì nỗi thương mình đã
sống trong hồn cảnh đó, hay thương một xã hội đô thị nhiều dâu bể? Trong
cuốn sách này, tính chuyển động, sự trơi dạt nổi lên như một yếu tố chính.
Rất nhiều lần Nguyễn Ngọc Tiến nhấn mạnh tới tính động của dịng chảy
đời sống Hà Nội. Nó vừa bảng lảng lại vừa trần trụi. Nó đẫm đầy chất tiểu
thuyết” [47, tr.7].
Về cuốn Ði ngang Hà Nội cũng có nhiều điều đáng lưu ý: “Thật ra Ði
ngang Hà Nội không hẳn là sách lịch sử mà là cuộc sống nhìn ở góc độ xã
hội. Ví dụ như chuyện về kem chẳng hạn, đúng là tơi có viết về sự ra đời của
kem nhưng xung quanh cây kem là bao nhiêu chuyện khác. Thế nên Ði ngang
Hà Nội ngồi cung cấp kiến thức nó cịn có thái độ của tơi về chuyện đó”
(Nguyễn Ngọc Tiến, Đi ngang Hà Nội, Hương Thị, ).
Trong cuốn sách Đi dọc Hà Nội, “Nguyễn Ngọc Tiến tiếp tục triển khai
góc nhìn mới về một số vấn đề - sự kiện, giúp người đọc biết về “người Tràng
An thanh lịch” qua thú chơi hoa, qua lịch sử cầu Thê Húc, qua thuốc phiện và
rượu lậu của một thời… Tất cả đều được xây dựng trên nền tảng con người,
mà nổi trội là những người Hà Nội rất bình thường. Họ là người trồng hoa ở
làng Ngọc Hà, là chị cơng nhân đã có mấy chục năm làm cơng việc coi sóc
đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện Bờ Hồ, và xa nữa về thời gian là những anh
chị, cô bác bán hàng rong, người hát xẩm… cùng với các câu vè, lời rao hàng
sinh động và lý thú. Đó là những con người đã góp phần làm nên một diện

mạo khác của Hà Nội, khác xa với những “dân chơi” của đất kinh kỳ”… (“Đi


7
dọc Hà Nội” khám phá chiều sâu văn hóa Thủ đô, , Sách,
Đi dọc Hà Nội, Thanh Huyền).
Đặc biệt, cuốn 5678 bước chân quanh Hồ Gươm đã nói lên khơng gian
của cuốn sách mà nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến dựng nên. Cuốn sách đã mở ra
những chồng lớp lịch sử của một khơng gian văn hóa đặc sắc và độc nhất vơ
nhị. Tác giả kể bắt đầu theo tiến trình thời gian, bắt đầu từ tượng Lý Thái Tổ,
vị vua có cơng đầu xây dựng Thăng Long, theo chiều kim đồng hồ mà kể.
Như chính tác giả đã tâm sự ở lời tựa, “Từ khi trở thành phóng viên báo Hà
Nội mới, hồ Hồn Kiếm càng quen thuộc với tơi vì tịa soạn nằm kế bên. Lúc
rỗi việc, tơi thường thẩn thơ dạo quanh hồ và nhận ra rằng vẫn cịn nhiều
chuyện chưa viết. Đó là những chuyện truyền miệng, chuyện khó nói và có
thể dưới mắt nhiều người nó lặt vặt song đơi khi nó là cái hồn của đời sống thị
dân. Thế là ý tưởng cuốn sách 5678 bước chân quanh hồ Gươm ra đời từ năm
2002. Sở dĩ đặt tên sách như vậy vì tơi đi dạo quanh hồ Gươm hết từng ấy
bước chân (…) Tuy nhiên, ngồi chuyện khơng đầu khơng cuối, tơi cũng lan
man những điều tôi đọc trong sách, tôi chứng kiến và cảm nhận được về
Thăng Long - Hà Nội” [48, tr.5-tr.7]. Ở đây, Nguyễn Ngọc Tiến đã thể hiện
lối viết thoải mái, tự nhiên như những chuyến đi dạo chơi quanh Hồ Gươm,
lần lượt từ chuyện này sang chuyện khác. Điều này làm cho cuốn sách có sức
hấp dẫn riêng. Mạch chuyện tn theo tiến trình con đường vịng quanh Bờ
Hồ, nơi cả hơn trăm năm qua chứng kiến bao sự thăng trầm của thời cuộc, nơi
phô bày những nét đặc trưng của Hà Nội, từ đó những số phận được kể lên,
hoặc ngậm ngùi thương cảm hoặc thanh thản tĩnh tại.
Như vậy, các bài viết phần lớn chỉ mới là các bài giới thiệu, điểm sách.
Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến vẫn cần thêm những cơng trình khảo sát
chun sâu, hệ thống. Đấy cũng là lý do để chúng tôi lựa chọn tạp văn

Nguyễn Ngọc Tiến làm đề tài luận văn.


8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là Hà Nội trong tạp văn Nguyễn
Ngọc Tiến (khảo sát trên cả hai phương diện nội dung và hình thức).
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Tài liệu mà luận văn dùng làm văn bản khảo sát là bốn tập tạp văn:
- Đi dọc Hà Nội, Nxb Thời đại, Hà Nội, 2013
- Đi xuyên Hà Nội, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2015
- 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2015
- Đi ngang Hà Nội, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2017
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát, tìm hiểu đề tài Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc
Tiến, Luận văn góp phần khẳng định đặc sắc của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến,
từ đó xác định vị trí của tạp văn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Cơng trình của chúng tôi hướng đến các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ hình tượng Hà Nội trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến
- Phân tích, làm rõ hình thức nghệ thuật thể hiện hình tượng Hà Nội
trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến.
- Xác định vị trí của tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến trong sự nghiệp sáng
tác của nhà văn, bước đầu đánh giá đóng góp của Nguyễn Ngọc Tiến đối với
tạp văn Việt Nam đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp
chính sau:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp


9
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp phân loại - thống kê
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và
toàn diện về tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến ở đề tài Hà Nội, từ đó góp phần
khẳng định đóng góp của nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến đối với thể loại tạp văn
trong văn học Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tạp văn trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tiến
Chương 2: Hình tượng đất và người Hà Nội
trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến
Chương 3: Hình thức nghệ thuật thể hiện hình tượng Hà Nội
trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tiến


10
Chương 1
TẠP VĂN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TIẾN
1.1.Giới thuyết về tạp văn
1.1.1. Khái niệm tạp văn
Tạp văn hiện nay đang là một thể loại đuợc sự đón nhận nồng nhiệt và
sự quan tâm ở cả người đọc lẫn người viết. Tuy nhiên khái niệm Tạp văn
cho đến nay vẫn chưa được định hình rõ ràng, chưa được nghiên cứu một

cách bài bản, còn lẫn lộn với nhiều tên gọi khác nhau như tản văn, bút ký,
tạp bút, tạp cảm,…
Giới khoa học, văn nghệ cũng đang dần đặt sự quan tâm chú ý đến thể
loại này một cách nghiêm túc, cụ thể. Định nghĩa về khái niệm tạp văn thực
sự đa dạng, phong phú và có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí là có những ý
kiến trái chiều.
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên xác định: “Tạp văn bao gồm
nhiều thể tài linh hoạt và có tên gọi khác nhau, như: đoản bình, tiểu phẩm,
tuỳ bút” [38, tr.887].
Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tạp văn được xem là những
áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị, có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ.
Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén vừa có tính nghệ thuật cơ
đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội”[20, tr.294 295 ] . Chẳng hạn như tạp văn của Lỗ Tấn, được ông gọi là “dây thần kinh
cảm ứng”, là “chân tay tiến cơng và phịng thủ. Phần lớn tạp văn mang yếu
tố châm biếm, trào lộng, đả kích. Có loại nhằm vào kẻ địch với đòn “giễu
cợt chết người”, đánh trúng chỗ hiểm, có loại nhằm vào khuyết điểm của
người cùng đội ngũ, vạch đúng sai lầm, trào phúng thành khẩn, trị bệnh
cứu người.


11
Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (Nxb Văn hóa Thơng tin,
tr.1495) giải thích: “Tạp văn gồm nhiều thể tài linh hoạt như đoản thiên, tiểu
phẩm, tùy bút”.
Từ điển Văn học cho rằng: “Tạp văn là những bài văn nghị luận có tính
nghị luận. Phạm vi của tạp văn rất rộng, bao gồm tạp cảm, tùy bút, tiểu phẩm
bình luận ngắn gọn. Đặc điểm nổi bật là rất ngắn”.
Nhà văn Lỗ Tấn viết: “Kỳ thực cái gọi là tạp văn cũng khơng phải là
món hàng mới mẻ ngày xưa cũng đã có. Phàm là văn chương, nếu xếp loại thì
có loại để mà xếp, bất kể thể gì, mọi thể đều xếp vào một chỗ cả, thế là thành

tạp” [56, tr.61]. Tạp văn thể hiện chức năng của nghệ thuật, tham gia vào việc
đấu tranh của xã hội.
Dương Tấn Hào lại xem tạp văn dùng để chỉ thể văn đoản thiên. Hoàng
Ngọc Hiến trong cuốn sách Năm bài giảng về thể loại: Ký - Bi kịch - Trường
ca - Anh hùng ca - Tiểu thuyết lại quan niệm: “Trong nghiên cứu văn học Việt
Nam đương đại, kí là một thuật ngữ dùng để gọi tên một thể loại văn học bao
gồm nhiều thể hay nhiều tiểu loại, bút kí, hồi kí, du kí, chính luận, phóng sự,
tùy bút, tản văn, tạp văn, tiểu phẩm…” [29, tr.5]. Dương Ngọc Dũng nhận
định thêm: "Tạp văn chỉ là những đoản văn đọc cho vui, ngắn gọn, dễ hiểu,
hơi gây sốc một chút nếu cần, không phải là những chuyên luận đăng trên tạp
chí chun ngành. Chủ đề thì khơng có gì nhất định, lan man từ những mẩu
chuyện vụn vặt có thật trong đời sống xã hội Mỹ, đến một tiểu phẩm tưởng
tượng hồn tồn, hay các bình luận thống qua về Shakespeare, cổ sử Trung
Quốc. Độc giả có thể mở sách ra, thích đâu đọc đấy, khơng cần phải q bận
tâm về "độ chính xác" hay hàm lượng thơng tin của bài viết"[18,Tr 2]. Trong
khi đó có tác giả lại quan niệm, nó là một “thể” nằm trong thể loại tản văn.
Trong cuốn Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc, Phạm Thị
Hảo, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học, cho rằng: "Tạp văn là


12
một loại tản văn, bao gồm nhiều hình thức: Tạp cảm, tạp đàm, tạp luận,... Từ
điển Tiếng Việt của Hoàng Phê (Nxb Đà Nẵng) khẳng định: “Tạp văn là loại
văn có nội dung rộng, hình thức khơng gị bó, bao gồm những loại bình luận
ngắn, tiểu phẩm tùy bút…”.
Như vậy, từ rất nhiều các ý kiến được đưa ra, có thể tóm lược được một
số đặc điểm chung của thể loại tạp văn như: Tạp văn là thể loại văn xuôi ngắn
gọn, hàm súc, linh hoạt phù hợp với nhu cầu thưởng thức của độc giả hiện
nay. Khái niệm này đôi khi được dùng như tản văn nhưng theo chúng tơi tạp
văn thường nghiêng về những vấn đề chính trị xã hội, thể hiện quan điểm

riêng của tác giả trước những vấn đề này. Có thể mang tính thời sự hoặc
khơng, nhưng mỗi tạp văn đều ít nhiều thể hiện, trình bày suy nghĩ, quan
niệm, tâm tư của người đương thời. Nếu như truyện là một khơng gian giành
chỗ hồn toàn cho sự tưởng tượng với những nhân vật tưởng tượng thì tạp văn
có lúc nhân vật chính là tác giả, nói tiếng nói của chính tác giả để giải tỏa
được nhiều tâm tư tình cảm của bản thân trước bộn bề cuộc sống. Tạp văn thú
vị ở chỗ nó mở rộng đường biên của các đối tượng miêu tả đồng thời cho
người đọc cơ hội ngắm nhìn cái gương mặt ngày thường, đời sống nội tâm sâu
kín, tâm tình của từng tác giả. Tạp văn được xem là “một loại tản văn có nội
dung rộng, hình thức khơng gị bó”.
1.1.2. Phân biệt tạp văn với các thể loại khác
1.1.2.1. Khái niệm tản văn
Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên Nxb Đà Nẵng), tản văn
có 2 nghĩa: (1) Văn xi; (2) Loại văn gồm các thể kí, tùy bút...
Trước nay, ở Việt Nam thuật ngữ tản văn vẫn được dùng theo nghĩa
“văn xi” và nó cịn được xếp vào nhóm từ cổ, ít dùng. Việc giải nghĩa này
có lẽ là do ảnh hưởng của việc sử dụng từ “tản văn” trong văn học Trung
Quốc. Ở Trung Quốc, thời cổ trung đại, dựa vào hình thức câu văn người ta


13
phân loại thành: “tản văn” có nghĩa là văn xi (trong Tiếng Anh là prose)
phân biệt với “vận văn” - văn vần (Tiếng Anh là Verse) và “biền văn” - văn
biền ngẫu. Vì thế những sáng tác khơng phải là thơ, từ, phú, khúc... đều được
gọi là tản văn. Điều này đuộc nói rõ nhất trong cuốn Khái yếu lịch sử văn học
Trung Quốc của Nxb Đại bách khoa toàn thư của Trung Quốc: “Trong quan
niệm văn học truyền thống của Trung Quốc, cịn có một thể văn quan trọng:
tản văn - văn xi; cũng là văn học chính tơng xếp ngang hàng với thơ từ”.
Bởi thế, trong lịch sử văn học Trung Quốc, tản văn bao giờ cũng được khảo
sát với tư cách là một thể loại lớn.

Có hai cách hiểu về tản văn: Theo nghĩa rộng, tản văn là văn xi, đối
lập với vận văn (văn vần). Ví dụ như Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long chia
toàn bộ thư tịch thành "văn" và "bút", trong đó văn là "vận văn", còn bút là
tản văn. Trong văn học cổ các áng văn xuôi không viết theo văn biền ngẫu
như kinh, truyện, sử, tập, biểu, chiếu, cáo, hịch, phú, minh, luận đều là tản
văn. Còn theo nghĩa hẹp, tản văn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc,
giàu khả năng khơi gợi với kết cấu có sự kết hợp linh hoạt thể hiện đời sống
theo kiểu chấm phá và thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của người cầm bút.
Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi đồng chủ biên) là cuốn từ điển duy nhất đã xác định tạp văn ngồi nghĩa
là văn xi cịn có nghĩa dùng hiện nay là một thể loại văn học có đặc trưng
riêng biệt: “Nghĩa đen là văn xuôi, nhưng hiện nay tạp văn được dùng để chỉ
một phạm vi xác định, khơng hồn tồn khớp với thuật ngữ văn xi. Nếu văn
xi theo nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần, và trong nghĩa hẹp chỉ
các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ, bao gồm một phạm vi rộng từ tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, ký, tiểu phẩm, chính luận thì tạp văn chỉ
phạm vi văn xi hẹp hơn, khơng bao gồm các thể loại truyện hư cấu” [20,
tr.293]. Đồng thời cuốn sách cũng chỉ ra các đặc điểm riêng của nó nhằm


14
phân biệt với các thể loại khác: “Tản văn là loại văn xi gọn nhẹ, hàm súc,
có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối
thể hiện đời sống của tản văn mang tính chấm phá, khơng nhất thiết địi hỏi có
cốt truyện phức tạp, nhân vật hồn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng
điệu cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các
hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm
bản sắc cá tính của tác giả” [20, tr.294].
Ở Việt Nam thể loại tản văn được hình thành khá sớm và phát triển vào
khoảng thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX với sáng tác của Tản Đà, Nguyễn Văn

Vĩnh, Nguyễn Bá Trác, Đạm Phượng, Huỳnh Thúc Kháng, Ngơ Tất Tố...
Trong số đó, Tản Đà - “Người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ” ấy trong khi
“Nơm na phá nghiệp kiếm ăn xồng” đã bứt phá ra khỏi hệ thống thể loại cũ
gò bó, xơ cứng. Tản Đà đã tự đi tìm cho mình một hình thức biểu đạt phù hợp
với đời sống tinh thần và “gu” thẩm mỹ của con người buổi giao thời. Vì thế
mà Phan Khơi đã nhận xét: “Anh Quỳnh, anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư
tưởng phương Tây; chứ đến thằng cha này (Tản Đà), hắn viết ra tư tưởng của
hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”.
Giới trẻ sáng tác văn chương hiện nay quan niệm khoáng đạt về tản văn
hơn. Quan niệm này phù hợp với khuynh hướng dân chủ hóa trong đời sống văn
chương cũng như tình hình phát triển hiện nay của thể loại. Nguyễn Hồng Nga
trên trang Phong Điệp.Net cho rằng: “Nếu như so với triết tự từ Trung Quốc thì
định nghĩa của khái niệm đã thay đổi rất nhiều. Hiểu một cách đơn giản, nó là
một loại mỹ văn, hay loại văn thủ thỉ tâm tình, những chuyện kể tai nghe mắt
thấy. Ngay cả cái ranh giới của các thể loại như tản văn, tạp bút, tản mạn cũng đã
nhòa dần, ngược lại cũng chính vì điều đó mà tản văn đã khơng bị gị bó, thậm
chí đã nới rộng ranh giới thể loại và làm phong phú đề tài, chủ đề.” (Tản văn Thể loại không dành cho người viết trẻ? - Nguyễn Hồng Nga). Tản văn là nơi


15
các bạn trẻ mạn đàm về những vấn đề đang diễn ra trong thực tế, thông qua tác
phẩm, người viết có thể trình bày quan điểm của mình một cách linh hoạt, thoải
mái về nhiều vấn đề mà xã hội đang quan tâm hoặc thậm chí đó là những triết lý
nhân sinh trong mối liên hệ với muôn màu muôn vẻ của cuộc sống.
Tóm lại có thể nhận định rằng: Tạp văn là một thể loại văn xuôi khá
năng động, có khả năng kịp thời nắm bắt và phản hồi thông tin trực tiếp về
những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội đuơng thời. Nhìn chung văn bản tạp
văn thường ngắn gọn, hàm súc, có những sự hư cấu nhất định và tác động trực
tiếp tới tình cảm và nhận thức của người đọc. Ở mỗi tác phẩm đều có sự vận
dụng tổng hợp các yếu tố tự sự, trữ tình, chính luận nhưng sức hấp dẫn của nó

chủ yếu xuất phát từ dấu ấn cá tính, phong cách độc đáo của người viết.
Như vậy từ rất nhiều các ý kiến được đưa ra, có thể thấy khái niệm tạp
văn đôi khi được dùng như tản văn. Tuy nhiên theo chúng tôi tạp văn thường
nghiêng về những vấn đề chính trị xã hội, thể hiện quan điểm riêng của tác
giả trước những vấn đề muôn mặt của đời sống.
1.1.2.2. Phân biệt với tùy bút
Tùy bút là thể kí ghi lại một cách tương đối, tự do những cảm nghĩ của
người viết, kết hợp với việc phản ánh thực tế khách quan. Nguyễn Tuân - nhà
văn tuỳ bút bậc thầy - cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng nhất
của tùy bút là khơng có ngun tắc gì cả”. Nhiều người đã có chung quan
điểm cho rằng: Tùy bút là những trang văn xi mà ở đó nhà văn “tùy theo
ngòi bút mà đưa đẩy”. Cách hiểu này dựa trên cơ sở một nét đặc trưng nghệ
thuật của thể tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm
chủ quan ở người nghệ sĩ.
Tuy nhiên cần phải nhìn nhận một cách khách quan và nghiêm túc, toàn
diện hơn. Bất kỳ sáng tác văn chương có giá trị nào cũng đều bắt đầu từ
những cung bậc cảm xúc đậm màu sắc chủ quan, phải thăng hoa đến độ mãnh


16
liệt, nồng nàn của người nghệ sĩ. Mặt khác, nếu hiểu như trên sẽ rất dễ dẫn
đến lẫn lộn giữa lối viết phóng khống, tự do với lối viết tản mạn, bịa đặt tùy
tiện; đồng thời cũng không chỉ ra được bản chất và vai trò của yếu tố chủ
quan trong tùy bút. Do đó cần nhận thấy rằng: “Những sự việc, những con
người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt
truyện, hay theo một tư duy luận lý chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ
trật tự của dòng cảm xúc, cái lôgic bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất
nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể thẩm mỹ vẫn phải
chân thực” [15, tr.188].
Có thể nói: Tùy bút cịn là một thể loại văn học có những đặc trưng rõ

nét cả về nội dung và nghệ thuật biểu hiện, đủ sức tồn tại độc lập và đứng
ngang hàng với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Từ “tùy bút” được
Đào Duy Anh giải nghĩa trong Hán Việt từ điển giản yếu là “tùy thời mà biên
chép” nghĩa là thể loại này không chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết
mà còn phải chịu sự chi phối của hoàn cảnh khách quan. Cịn từ “bút”, ngồi
nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là biên chép. Lưu Hiệp ở
chương Tổng thuật của tác phẩm Văn tâm điêu long có viết: “Kim chi thường
ngôn, hữu văn hữu bút, dĩ vi vô vận giả bút dã, hữu vận giả văn dã” (Ngày
nay thường nói: có văn có bút, cho khơng vần là bút, có vần là văn). Nhan
Diên Chi thời Lưu Tống, trong Nhan Quang Lộc tập, lại chia văn chương ra
làm 3 loại: ngơn, bút, văn. “Trong đó, “bút” có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả
truyện ký” [16, tr, 29-30].
Tùy bút trong nền văn học Trung Quốc được coi là: “Một loại tản văn,
viết theo cảm hứng tự do, không câu nệ theo một thể cách nào. Nội dung rất
rộng rãi, hoặc nói lên điều tâm đắc sau khi đọc sách, hoặc kể một sự việc, một
danh nhân, hoặc nêu những kiến văn về nhiều phương diện, văn chương hoạt
bát” [16, Tr.210].


17
Mặc dù tạp văn là một trong những bộ phận hợp thành quan trọng của
nền văn xuôi và đã được nhiều học giả dày công nghiên cứu nhưng quan niệm
về tùy bút (hay tạp văn thể tùy bút) vẫn chưa có được sự nhất trí cần thiết. Có
người đem hợp nhất hai loại: tiểu phẩm văn và tùy bút, cho rằng chúng có thể
dùng thay thế cho nhau. Nhưng trong Lý luận văn học, Lưu An Hải và Tôn
Văn Hiến có sự phân biệt khá rõ: “Tùy bút và tiểu phẩm văn xét về nội hàm
và ngoại diên đều có khác biệt cơ bản: tùy bút thường dài hơn, không tinh
xảo, đẹp đẽ, ngắn gọn như tiểu phẩm văn vậy. Tùy bút và tiểu phẩm văn đều
chú trọng thể hiện cá tính, nhưng tùy bút tản mạn và lý tính hơn, không thanh
khiết, cô đọng như tiểu phẩm văn. Tùy bút nghiêng về “bút”, tiểu phẩm lại

nghiêng về “phẩm”, “bút” là ghi chép lại, còn “phẩm” là thưởng thức”. Úc
Đạt Phu có lý giải cụ thể và so sánh chi tiết hơn trong Thanh tân đích tiểu
phẩm văn tự. Tác giả này coi tùy bút là một dạng tản văn được hình thành chủ
yếu do ảnh hưởng từ essay của phương Tây. Sau này, giới Tân văn học đã tìm
được sự dung hợp giữa tản văn nghệ thuật truyền thống với essay, tạo nên một
hình thức độc đáo: Tản văn thể tùy bút.
Có một số tác giả xếp tạp văn là một thể loại nhỏ của tản văn. Đỗ Hải
Ninh trong bài viết Ký trên hành trình đổi mới hay Hoàng Phê trong cuốn Đại
Từ điển Hán Việt hay trong lời giới thiệu Tạp văn của Lỗ Tấn trong Lỗ Tấn
tuyển tập, Nxb Văn học,1963 đều cho rằng: “Xét về nguồn gốc và phong cách
của nó thì tạp văn chính là hình thức kế thừa và phát triển hình thức tản văn
trong văn học cổ điển Trung Quốc”.
Như vậy, có thể hiểu, tạp văn là một loại tản văn có nội dung rộng, hình
thức khơng gị bó, bao gồm những bài bình luận ngắn, tiểu phẩm, tuỳ bút, v.v.
Dung lượng của một bài tạp văn thường ngắn. Mỗi bài tạp văn ln trình bày
cái nhìn của mỗi cá nhân về tất cả các khía cạnh xã hội. Có thể thời sự hoặc
khơng, nhưng mỗi tạp văn đều ít nhiều thể hiện, bày tỏ tâm trạng sống của


18
người đương thời. Hiện nay hầu như ở báo, tạp chí nào cũng có mục tạp văn
hay tạp bút mà người tham gia thường là các nhà văn, nhà văn hóa, nghệ sĩ...
Nếu quan sát có thể thấy tùy theo phong cách của mỗi tờ báo, tạp chí mà tạp
văn cũng có “gu” khác nhau. Nhưng tựu trung, tạp văn về cơ bản gần với báo
chí hơn văn chương.
Nhưng các cây bút tạp văn có “văn chất” hiện nay khơng phải là nhiều.
Khi nhắc đến tạp văn Việt Nam hiện nay không thể không nhắc đến Nguyễn
Ngọc Tiến. Sức hút ở tạp văn của Nguyễn Ngọc Tiến chính là ở thái độ sống,
thể hiện qua ngòi bút với một giọng văn mộc mạc đầy cảm xúc.
Viết tạp văn - viết những chuyện nhỏ bé, “kiểu trà dư tửu hậu” - tưởng

như dễ nhưng thực chất lại rất khó. Để tạo nên dấu ấn sâu đậm trong lòng độc
giả vốn là việc "thiên nan vạn nan". Nói chuyện nhỏ mà đề cập đến những vấn
đề lớn, nói chuyện thời thế mà chạm đến tâm trạng ngổn ngang, phức tạp, sâu
sắc của cõi nhân sinh dâu bể là việc chẳng dễ dàng gì. Thế mà Nguyễn Ngọc
Tiến đã làm được. Nét mới lạ nổi bật trong tập tạp văn này là giọng điệu
chính luận khi bàn về những vấn đề về văn hố, lịch sử Hà Nội. Ở đó, người
đọc bắt gặp những ưu tư trách nhiệm công dân trong giọng điệu vừa kể lể
khách quan vừa mang tính trữ tình thế sự.
Từ giữa trái tim thủ đô Tổ quốc, Nguyễn Ngọc Tiến cũng kịp ghi lại dấu
ấn độc đáo của mình qua mỗi trang văn về Hà Nội. Đọc tạp văn của anh chúng
ta càng thêm yêu thương, thêm tự hào về mảnh đất nghìn năm văn hiến.
1.2. Sự nở rộ của thể loại tạp văn trong thời gian gần đây
1.2.1. Những nguyên nhân thuận lợi để tạp văn phát triển
Trước hết là do chủ trương đổi mới của Đảng và sự dân chủ hóa mọi
mặt đời sống xã hội.
Từ trong bối cảnh văn hóa, xã hội thời kỳ đổi mới, tản văn, tạp văn đã
chứng tỏ vị thế của mình với tư cách là thể văn xi có tính năng động, linh


19
hoạt. Đầu tiên vì độ dài của một tản văn ngắn gọn, vừa phải nên rất tiện cho
các tờ báo xếp trang. Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng quan niệm: “Tản mạn
khó viết hay khơng là tùy người. Nhưng tản mạn là gì? Thì tơi nói nó có thể
viết gì cũng được. Và viết kiểu nào cũng được”.
Mỗi một thể loại văn học ra đời đều xuất phát từ những yêu cầu nhất
định của đời sống xã hội. Đất nước ta từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến
nay đã có những chuyển biến quan trọng, bầu khơng khí trở nên dân chủ lành
mạnh, nhất là ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, tư tưởng. Mơi trường đó đã tạo
nên một bầu khí quyển tự do cho phép người cầm bút được bày tỏ những
quan điểm của mình về những vấn đề đặt ra xung quanh như là một cách để

khẳng định quyền tự do cũng như thể hiện bản ngã của mình. Tạp văn với tư
cách là một thể loại kết hợp trong đó những đặc điểm của báo chí và văn
chương cho phép nhà văn dễ dàng, linh hoạt truyền tải thơng tin và trình bày,
thể hiện, bày tỏ những ý kiến của mình tới người đọc.
Hiện nay, cuộc sống đời thường rất nhộn nhịp, hối hả. Chúng ta phải
gồng mình lên vật lộn với bao chuyện cơm áo, gạo tiền của đời thường. Đến
với tản văn, người đọc có thể lắng lịng lại để chia sẻ với nhau những khoảnh
khắc quý giá của cuộc sống trước dòng đời hối hả, nhộn nhịp phải chạy đua
với thời gian, công việc dồn dập hàng ngày. Bởi vậy, người đọc sẽ vẫn u
thích tản văn, tạp văn. Có người đã gọi văn chương thời nay là thời của tản
văn, tạp văn. Những trang viết tản mạn ấy đâu phải chuyện “thiên tào” mà là
chuyện rất đời, rất người vậy.
Thứ hai là xuất phát từ ý thức về trách nhiệm xã hội của nhà văn.
Thể loại văn học luôn là cái khn - hình thức quyết định việc chuyển
tải nội dung của tác phẩm văn học. Chính vì thế, trước khi tiến hành hoạt
động sáng tạo nghệ thuật, ngoài việc phải có ý tưởng, chủ đề, đề tài, cảm
hứng sáng tạo… thì thao tác lựa chọn thể loại vơ cùng quan trọng. Bởi vì thể


20
loại ln có tác dụng tạo hiệu ứng giá trị cao nhất cho tác phẩm, thể hiện một
cách trọn vẹn, đầy đủ những điều mà các nhà văn suy ngẫm hết sức sâu sắc về
nhân tình thế thái. Quá trình đó cũng có thể gọi là ý thức bộc lộ của chủ thể
sáng tạo. Dựa trên nhiều đặc tính cũng như những ưu thế của thể loại này, các
nhà văn đã được ý thức rất rõ việc chọn tạp văn như một vũ khí để đấu tranh
ngơn luận trong hồn cảnh lịch sử nước ta những thập niên đầu thế kỉ XX.
Tiêu biểu như: Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế và Ngô Tất Tố,… Sự lựa
chọn này giúp các nhà văn vừa rút ngắn được thời gian, vừa giúp công chúng
dễ tiếp nhận thơng tin, đồng thời lại có “vũ khí” để đấu tranh ngơn luận với
thực dân Pháp lúc bấy giờ.

Tính tích cực thẩm mỹ của tạp văn bắt nguồn từ những nhu cầu xã hội,
từ những vấn đề của hiện tượng đời sống. Các hiện tượng đời sống có thể liên
kết với nhau thành loại theo quan hệ bên ngoài hoặc bên trong của phạm vi
hiện thực được phản ánh trong tác phẩm. Tạp văn là những tác phẩm văn học
có tính chất đánh giá, bình luận trực tiếp những vấn đề của đời sống vì thế
việc lựa chọn đề tài rất quan trọng. Việc lựa chọn đề tài có tính chất quyết
định màu sắc của thể loại và làm nên giá trị lâu bền của mỗi bài tạp văn.
Bên cạnh đó, tạp văn cũng là một thể loại có tính tương tác cao với
người đọc. Chính nhu cầu được sự bày tỏ quan điểm chính kiến trong thời đại
mà ý thức về quyền dân chủ đã phát triển cao đã dẫn tới sự ra đời của tạp văn.
Điều này quy định cách tư duy về đời sống của thể loại này đó là phải nhanh
nhạy nắm bắt thông tin đồng thời đưa ra những kiến giải đặc sắc, độc đáo, ấn
tượng. Đề tài tạp văn có thể khơng giới hạn nhưng nói tới tạp văn người ta
khơng thể khơng nói tới dấu ấn cá tính của nhà văn in đậm vào từng câu từng
chữ. Nhiều bài tạp văn chỉ đề cập đến một sự vật, sự việc nhỏ nhặt đời thường
nhưng với một góc nhìn riêng biệt, khả năng phân tích sắc sảo vẫn có thể giúp
người đọc “ngộ” ra những triết lý nhân sinh sâu sắc, thú vị.


21
Văn học trong q trình khám phá cuộc sống ln hướng tới những
triết lí sâu xa, phổ quát và những giá trị nhân bản vĩnh hằng. Tạp văn cũng
thế. Đặc biệt, nó có cơ hội đi sâu bàn về những vấn đề trong cuộc sống một
cách cụ thể, trực tiếp, ngắn gọn, nhanh hơn những thể loại khác. Yêu cầu cao
nhất của tạp văn là chủ thể ngòi bút phải có tầm vóc văn hóa, có vốn hiểu biết
sâu rộng và trải nghiệm phong phú. Trên nền tảng đó nó không chỉ tác động
trực tiếp tới đời sống xã hội theo kiểu báo chí mà cịn hướng người đọc tới
chân, thiện, mỹ và góp phần định hình, hồn thiện nhân cách của họ.
Nói tóm lại: Khi nói tới tạp văn là chúng ta nghĩ tới thể văn xuôi ngắn
gọn, cô đọng, linh hoạt, nhạy bén trong phản ánh cuộc sống, tâm tư con người

và khái quát được những vấn đề lớn mang tính chất chính trị - xã hội. Mặt
khác đó cũng là thể loại mang dấu ấn đậm nét phong cách và cá tính sáng tạo
của nhà văn.
Thứ ba là do sự phát triển của báo chí
Trong xu thế văn học hiện nay, thể loại văn học tạp văn đang nhận
được sự quan tâm, chú ý đặc biệt của độc giả. Trên các tờ báo xuất hiện ngày
càng nhiều các chuyên mục nhàn đàm, tản văn, tạp văn… Có nhiều tác phẩm
ra mắt bạn đọc với sự góp mặt của nhiều thế hệ nhà văn đã thể hiện sự đề cao
thể văn này trong văn học đương đại.
Trong những năm gần đây, tạp văn được đông đảo đọc giả đón nhận.
Trên những trang báo in, báo mạng thường có mục dành riêng cho những bài
tạp văn. Đó cũng là nơi tạo nên diễn đàn trao đổi về đời sống văn học, đời
sống xã hội rất sôi nổi.
Tạp văn là thể loại văn học có tính năng động, có thể kịp thời nắm bắt
và phản ánh những vấn đề cộm lên trong đời sống xã hội. Mảnh đất đầu tiên
của tản văn thời hiện đại là báo chí. Cũng giống như các dạng văn bản nhật
dụng nói chung, lối thể hiện đời sống trong tạp văn mang tính cụ thể, chân


×