TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH
BÀI THẢO LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN
Tên đề tài: Sự ra đời, phát triển của sản xuất
hàng hóa và liên hệ thực tiễn phát
triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Nhóm thực hiện: 01
Mã lớp học phần:
Giảng viên:
Hà Nội - 2021
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người, sản xuất xã hội mang
tính tự cung tự cấp, nhu cầu của con người bị gói gọn trong một
giới hạn nhất định do sự hạn chế của lực lượng sản xuất. Chỉ đến
khi lực lượng sản xuất phát triển và có những thành tựu nhất định,
nhu cầu của con người mới dần được đáp ứng nhiều hơn. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất cũng chính là nhân tố dẫn đến đến sự
thay đổi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng
hóa và đỉnh cao là nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu về hàng hóa của con
người được đáp ứng, thỏa mãn tối đa với số lượng hàng hóa
khổng lồ. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường vẫn tồn tại các hạn
chế nhất định, đặc biệt là trong chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa.
TBCN xem lợi nhuận là yếu tố quan trọng hàng đầu dẫn đến
quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ và sự phân hóa xã hội
sâu sắc. Điều này đã được Mác-Ăngghen nhận biết trong quá
trình nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội: TBCN chắc chắn sẽ
bị thay thế bởi một chế độ xã hội hoàn thiện hơn, nơi mà con
người có quyền tự do, bình đẳng, văn minh, xã hội công bằng,
nền kinh tế phát triển bền vững - chủ nghĩa xã hội.
Từ sau khi giải phóng hồn tồn miền Bắc Việt Nam, Đảng ta
đã xác định đưa đất nước đi lên theo con đường CNXH. Đại hội
Đảng lần thứ VI được xem là bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ
lên CNXH của nước ta. Theo đó, xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng XHCN dưới sự quản lý của
nhà nước là chủ chương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ
lên CNXH.
Cho đến ngày hôm nay, sau hơn 10 năm thực thực hiện đổi
mới, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy
nhiên bên cạnh đó, vẫn cịn tồn tại các mặt hạn chế nhất định.
Chính vì vậy, nhóm chúng em đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Sự
ra đời , phát triển của sản xuất hàng hóa và liên hệ thực tiễn phát
triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam”.
Chương I. SỰ RA ĐỜI, PHÁT TRIỂN CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HĨA
1.1. Sản xuất hàng hóa
1.1.1.
Hàng hóa là gì
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu
nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán
Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi nhằm đưa ra trao đổi ,
mua bán trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi
vật thể
1.1.2.
Thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị của
hàng hóa.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của sản phẩm, có
thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần,
có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là cho nhu cầu sản
xuất.
Giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay tiêu
dùng. Nền sản xuất. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học, công
nghệ càng hiện đại, càng giúp cho con người phát hiện ra nhiều và
phong phú hơn các giá trị sử dụng của sản phẩm.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu của người mua. Cho nên, nếu là người sản xuất, phải chú
ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản xuất ra sao
cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người
mua.
-Giá trị của hàng hóa
Để nhận biết được thuộc tính giá trị, xét trong quan hệ trao
đổi.
Thí dụ có một quan hệ trao đổi như sau: xA = yB
Ở đây, số lượng x đơn vị hàng hóa A, được trao đổi lấy số
lượng y hàng hóa B. Tỉ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác
nhau này được gọi là giá trị trao đổi.
Vấn đề đặt ra là tại sao giữa các hàng hóa có giá trị sử dụng
khác nhau lại trao đổi được với nhau, với những tỉ lệ nhất định?
Sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì giữa chúng có
một điểm chung. Điểm chung đó khơng phải là giá trị sử dụng
mặc dù giá trị sử dụng là yếu tố cần thiết để quan hệ trao đổi được
diễn ra. Điểm chung đó phải nằm ở trong cả hai hàng hóa.
Nếu gạt giá trị sử dụng hay tính có ích của các sản phẩm sang
một bên thì giữa chúng có điểm chung duy nhất : đều là sản phẩm
của lao động; một lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo ra
số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đổi đó .
Trong trường hợp quan hệ trao đổi đang xét , lượng lao động
đã hao phí để tạo ra x đơn vị hàng hóa A đúng bằng lượng lao
động đã hao phí để tạo ra y đơn vị hàng hóa B . Đó là cơ sở để các
hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau trao đổi được với nhau theo
tỉ lệ nhất định ; một thực thể chung giống nhau là lao động xã hội
đã hao phí để sản xuất ra các hàng hóa có giá trị sử dụng khác
nhau. Lao động xã hội đã hao phí để tạo ra hàng hóa là giá trị
hàng hóa.
1.1.3.
Sản xuất hàng hóa là gì?
Theo Cmac, sản xuất hàng hóa dùng để chỉ về kiểu tổ chức
kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra khơng phải là để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà
là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc
trao đổi mua bán…
1.1.4.
Các loại sản xuất hàng hóa
Có rất nhiều tiêu thức để phân chia các loại hàng hoá như:
hàng hoá thơng thường, hàng hố đặc biệt, hàng hố hữu hình,
hàng hố vơ hình, hàng hố tư nhân, hàng hố cơng cộng…
+ Dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm….
+ Dạng vơ hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay
dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…
1.2. Phân biệt sản xuất hàng hóa với sản xuất tự cung tự cấp
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử
phát triển của xã hội loài người. So với sản xuất tự cung tự cấp,
sản xuất hàng hóa có những đặc trưng và ưu thế cơ bản sau đây:
– Sản xuất hàng hóa là sản xuất cho người khác, cho xã hội,
sản xuất để bán, vì mục tiêu lợi nhuận, do đó nó tạo ra động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Còn sản xuất tự
cung tự cấp với mục đích sản xuất ra những giá trị sử dụng để
thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất, nên không
tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.
– Sản xuất hàng hóa đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt,
buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất
– kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm,
nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng
nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ.
Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mô nhỏ chủ yếu dựa vào
nguồn lực sẵn có của tự nhiên, nhu cầu thấp, trình độ dân trí thấp
nên khơng có cạnh tranh, khơng tạo ra động lực mạnh mẽ phát
triển khoa học – công nghệ để phát triển kinh tế có hiệu quả.
– Sản xuất hàng hóa với năng suất lao động cao, chất lượng
hàng hóa tốt và khối lượng ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng
và phong phú làm cho thị trường được mở rộng, giao lưu kinh tế –
xã hội giữa các vùng, các miền, các địa phương và quốc tế phát
triển, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng cao cũng như sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi
thành viên trong xã hội. Ngược lại với sản xuất tự cung tự cấp,
sản xuất kém phát triển, mang tính khép kín, sản phẩm sản xuất ra
khơng đủ tiêu dùng vì thế đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động thấp, khơng có điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu
kinh tế – xã hội giữa các vùng miền…
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất
hàng hố cũng có những mặt trái của nó như phân hố giàu –
nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả
năng khủng hoàng kinh tế – xã hội, phá hoại môi trường sinh thái,
V.V..
1.3.
Sự ra đời của sản xuất hàng hóa ?
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm được
sản xuất ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người
trực tiếp sản xuất ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thơng qua việc trao đổi, mua bán.Sản xuất hàng hóa ra đời, tồn tại dựa trên
hai điều kiện:
+ Thứ nhất: Phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự
chun mơn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội ra thành các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành
tất yếu. Khi có phân cơng lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống địi hỏi họ
phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của
nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội, chun mơn
hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất
hàng hóa. Phân cơng lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao
đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
+Thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất: những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định
với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh
tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải
thơng qua trao đổi, mua bán hàng hố.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản
xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất
thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền
sở hữu của họ. Điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về
mặt kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập
với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua
trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa. Thiếu một trong hai
điều kiện đó sẽ khơng có sản xuất hàng hóa.
Chương II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN HÀNG
HÓA Ở VIỆT NAM.
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt
Nam.
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền
kinh tế hàng hóa sau này, nền sản xuất hàng hóa nước ta đã khơng
ngừng thay đổi và phát triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước
ta chưa cao, chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu
thơng hàng hóa. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số
ít người ở tần lớp trên. Tóm lại, ở thời kì này nền sản xuất hàng
hóa ở nước ta chỉ xuất hiện chứ chưa phát triển.
Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa
đồng thời là nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch tập trung quan
liêu bao cấp kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa;
biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực
sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận
thức sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp,
sức sản xuất hàng hóa xuống dốc khơng phanh. Từ năm 19761980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm cịn giảm.
Từ năm 1986 sau khi Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời chuyển
đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hước xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng hóa nước ta đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Thời kì này có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1986 – 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh
tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.
Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và
bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển theo
một nền nơng nghiệp tồn diện. Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩ, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Tuy nhiên, thời kì
này nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại chưa giải quyết
được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát triển chiều sâu.
Giai đoạn 2000 – 2007: Đây là giai đoạn nền kinh tế hàng
hóa nước ta phát triển mạnh mẽ, GDP liên tục tăng mạnh.
Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế
hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra
thế giới.
Giai đoạn 2007 – đến nay: Kinh tế Việt Nam có dấu hiệu
chững lại. Tăng trưởng GDP giảm và lạm phát kéo dài, các
chính sách đưa ra khơng đem lại hiệu quả.
2.2 Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những
điều kiện chung của sản xuất hàng hoá vẫn cịn bởi
vậy nền sản xuất hàng hố tồn tại là một tất yếu
khách quan.
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của
trao đổi chẳng những không mất đi, trái lại ngày
một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. sự
chun mơn hố và hợp tác hoá lao động đã vượt
khỏi biên giới quốc gia và ngày càng mang tính
quốc tế.
Phân cơng lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan
hệ truyền thống của nền kinh tế tự nhiên khép kín,
tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa
những người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao
động. Sự phân công lao động của ta đã ngày càng
chi tiết hơn đến từng ngành, từng cơ sở và ở phạm
vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được
hình thành từ sự phan cơng lao động đó là: Thị
trường cơng nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,…
Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
phát triển giúp ta nhanh chóng hồ nhập được với
kinh tế trong khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình
thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản
phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể
của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư
nhân TBCN, sở hữu hỗn hợp, đồng sở hữu,…Chế độ
xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp
trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa
đều
nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ
là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại của
các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan .
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội
nên người sản xuất có điều kiện để chun mơn hố cao.
Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm,
tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng
được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó
cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng
suất lao động được nâng lên, chất lượng sản phẩm
ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh
tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt
động của các thành phần kinh tế. Việc trao đổi
hàng hoá dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho
người sản xuất luôn tìm cách tiết kiệm giảm đến
mức tối đa những chi phí cá biệt, giảm giá trị hàng
hố cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi. Trên cơ sở
phân cơng lao động, sản xuất hàng hoá phát triển.
Khi sản xuất hàng hố phát triển sẽ làm phân cơng
lao động ngày càng cao hơn, sâu hơn. Quan hệ
hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng
được chủ thể sản xuất hàng hố vận dụng có hiệu
quả hơn và từ đó ngồi các quan hệ kinh tế phát
triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán, tác
phong cũng thay đổi.
Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi ( tuy bên
cạnh đó vẫn cịn có những khuyết tật ) của sản
xuất hàng hoá mà tại đại hội VII Đảng ta đã xác
định phương hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
Nền kinh tế nước ta tiếp tục đạt tăng trưởng dương khi GDP
9 tháng năm 2020 tăng 2,12%, trong đó quý I tăng 3,68%;
quý II tăng 0,39% và quý III tăng 2,62%. Điều này cho thấy
nền kinh tế nước ta đã đi qua điểm đáy của đồ thị phục hồi
kinh tế trong quý II. Tuy là mức tăng thấp nhất của 9 tháng
các năm trong giai đoạn 2011-2020 nhưng Việt Nam là quốc
gia duy nhất trong ASEAN và thuộc số ít quốc gia trên thế
giới đạt mức tăng trưởng dương; đồng thời là điểm sáng
hiếm hoi trong bức tranh kinh tế thế giới 9 tháng năm 2020.
Kết quả này đã khẳng định tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều
hành khơi phục kinh tế, phịng chống dịch bệnh và sự quyết
tâm, đồng lịng của tồn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; sự nỗ lực, cố gắng của người dân và
cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu
“vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã
hội”.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế năm 2020, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp
13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của tồn nền
kinh tế; khu vực cơng nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng
góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng trị
giá xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước trong tháng đạt 55,56
tỷ USD, tăng 11,3% so với tháng trước. Trong đó, trị giá
xuất khẩu đạt 27,65 tỷ USD, tăng 9,6% so với tháng trước
(tương ứng tăng 2,42 tỷ USD); nhập khẩu đạt 27,90 tỷ USD,
tăng 13% (tương ứng tăng 3,21 tỷ USD).
Trong năm 2020, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của
cả nước đạt 545,36 tỷ USD, tăng 5,4% với năm trước. Trong
đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0%,
tương ứng tăng 18,39 tỷ USD và nhập khẩu đạt 262,70 tỷ
USD, tăng 3,7%, tương ứng tăng 9,31 tỷ USD.
Biểu đồ: Diễn biến xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân
thương mại
của Việt Nam theo tháng trong năm 2020
2.3. Phương hướng phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế,
chính trị, xã hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và
hạ tầng xã hội được xây dựng ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng, hệ thống pháp luật và nhà nước được củng cố
và trong sạch hóa, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh giỏi
thích nghi với cơ chế thị trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá
cao. Đảng đã xác định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với
các điều kiện tiền đề hiện có:
Trước hết phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở
hữu đa dạng: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp...
Thứ đến: cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng
nắm khâu mặt hàng trọng yếu chuyển dần sang hạch toán king
doanh, tự chủ về mọi mặt đủ sức đứng vững và dành thắng lợi
trong cạnh tranh
Ba là : sử dụng rộng dãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư
bản nhà nước để phát huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và
ngồi nước với nhà nước về các mặt vốn, cơng nghệ và tài năng
quản lý.
Bốn là: đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo
hướng chuyên môn hóa kết hợp đa dạng hóa sản xuất kinh doang,
tăng cường và phát triển ngành sản xuất phi vật chất, lao động trí
tuệ.
Năm là: đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa coi
trọng việc ứng dụng các thành tựu khoa học và cơng nghệ của lồi
người. Đẫn đến đẩy mạnh kinh tế hàng hóa phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu và làm tăng khả năng cạnh tranh hành hóa của
nước ta trên thị trường khu vục và quốc tế.
Sáu là: xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng
phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi
nhọn có khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở thế mạnh và lợi thế so
sánh. Bởi vì người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế yếu của mình
và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất cái mà thị
trường cần chứ khơng phải cái mà mình có.
Bảy là: thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển
của kinh tế hàng hóa. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hóa
về hình thức, đa phương hóa về nguồn và hai bên cùng có lợi,
khơng cang thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân
biệt chế độ chính trị.
Kết luận
Thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất ở nước ta là
một q
trình vừa có tính cấp bách lại vừa có tính chiến lược
lâu dài. Trong từng bước đi của q trình vừa có những khó khan
do sự xuất phát thấp của nền kinh tế nhưng lại có những thuận lợi
nhất định cần được khai thác: đó là nguồn lao động dồi dào, mơi
trường và con người Việt Nam năng động, có khả năng tiếp cận
cơ chế thị trường nhanh, ta lại nằm trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương; vùng trung tâm của nền văn minh loài người đang
được di chuyển đến, nền kinh tế đang phát triển nhất hiện nay.
Chính vì thế ngay từ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế
đã xác định ngay việc đổi mới phải theo hướng có lợi cho sự phát
triển của việc sản xuất hàng hóa. Trong mấy thập niên gần đây,
sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động và thúc
đẩy của các công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới, cho nên
nền kinh tế hàng hóa đang có xu hướng chuyển sang kinh tế thị
trường. Tốc độ phát triển cao của sản xuất hàng hóa tạo sự hấp
dẫn mạnh đối với các nhà hoạch định chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội hiện nay ở các nước XHCN
Tài liệu tham khảo
1. C.Mác- Ph. Anghen: Toàn tập, tập 20, tập 23, NXB Chính
trị quốc gia, 1994
2. Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2018, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin,
NXB Lý luận chính trị
3. Lê Minh Trường, Thực trang và giải giáp phát triển thị
trường hàng hóa ở Việt Nam, 2018
4. Học viện chính sách và phát triển, Tiểu luận Nền sản xuất
hàng hóa ở Việt Nam ngày nay, 2014
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại biểu đại hội tồn
quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia
6. Robert B.Ekelund, JR and Robert F.Hébert, Lịch sử các học
thuyết kinh tế (Bản tiếng Việt), NXB Thống kê, 2003