MỞ ĐẦU
F.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng
văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học
thế giới, đặc biệt là ở phương Tây. Ông sinh năm 1883 tại Praha và mất năm 1924 tại
một nhà điều dưỡng ở Áo, là nhà văn Tiệp Khắc gốc Do Thái, nhưng phần lớn cuộc
đời lại gắn bó với Viên. F.Kafka viết bằng tiếng Đức; tác phẩm không nhiều, chỉ ba
tiểu thuyết và hơn mười truyện ngắn. Tuy số lượng tác phẩm khiêm tốn như thế
nhưng ông đã làm được một cuộc cách tân to lớn trong văn học nghệ thuật. Những
đóng góp của ơng biểu hiện trên cả hai phương diện nghệ thuật và nội dung tư
tưởng. Về nghệ thuật, Kafka đã có những thành cơng ở các bình diện: nghệ thuật
xây dựng nhân vật, kết cấu – cốt truyện và điểm nhìn trần thuật. Về nội dung, tác
phẩm của ông biểu hiện sâu sắc những vấn đề của thời đại, đặc biệt là các chủ đề
phi lí, tha hóa, cơ đơn, lo âu…của con người. Có thể nói rằng, Kafka đã là người
mở đầu cho khuynh hướng viết về thân phận con người trong xã hội phi lý. Ơng là
người đã sớm có những cảm nhận sâu sắc và thấm thía về sự tha hoá, nỗi lo âu, sự
lưu đày và cái chết của con người thời hiện đại, về việc thế giới ngày càng trở nên
vơ hình và bí ẩn, về sự thù địch của hoàn cảnh đối với con người.
Truyện ngắn "Hoá thân" được Kafka sáng tác năm 1912 khi trong đời sống
riêng của ơng có chuyện tình với Fêlix Baoơ, người mà sau này ơng cịn ghi lại
trong nhật kí: “Thế giới mà Fêlix là người đại diện – và cái Tôi của tôi xé rách cơ
thể tôi trong một cuộc đấu nan giải”. Tác phẩm được xem là một trong những kiệt
tác không phải chỉ riêng của Kafka mà cịn là của tồn bộ văn học thế kỉ 20, là “tác
phẩm có sức mạnh nhất của văn học Đức hiện đại”(Milêna Jezenka). Bằng ngòi bút
huyền thoại và cảm quan nhạy bén, tác giả đã xây dựng được một hình tượng đầy
ám ảnh về thân phận con người cô đơn, lạc lồi phải sống kiếp lưu đày ngay trong
ngơi nhà thân yêu của mình.
1
NỘI DUNG
1. Vài nét về huyền thoại và huyền thoại hóa trong văn học
Huyền thoại là một thuật ngữ liên quan không chỉ trong lĩnh vực văn học
nghệ thuật mà cịn trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, tơn giáo, triết học, xã hội. Có
nhiều cách cắt nghĩa khác nhau về huyền thoại song hầu hết các nhà nghiên cứu đều
đi đến một sự thống nhất về khái niệm huyền thoại dùng để chỉ những câu chuyện có
tính chất li kì, hoang đường theo hai xu hướng:
Thứ nhất, huyền thoại là một kiểu tư duy nghệ thuật, theo cách này có thể hiểu
huyền thoại là thần thoại, bao gồm những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích…phản ánh thời kì khi tư duy, nhận thức của con người cịn ấu trĩ, mơng muội,
khi trình độ sản xuất cịn thấp kém.
Thứ hai, huyền thoại được hiểu như một phương thức nghệ thuật, một thủ pháp
nghệ thuật hữu hiệu được các nhà văn sử dụng dưới nhiều dạng vẻ khác nhau, xuất
hiện từ lâu trong các tác phẩm văn học và cho đến nay nó vẫn khơng ngừng được tái
tạo. Huyền thoại với tính chất là ý thức nguyên hợp của xã hội cổ đại đã lùi vào quá
khứ nhưng các yếu tố thần thoại và tư duy thần thoại vẫn được tồn tại trong ý thức
xã hội và trong nghệ thuật.
Theo đó, những sáng tạo huyền thoại loại này cịn được gọi là phương thức
huyền thoại hóa hay xu hướng sáng tạo huyền thoại, cũng có thể gọi là phương thức
huyền thoại. Như vậy huyền thoại hóa là phương thức độc đáo, là “một trong những
xu thế thi pháp của văn học của thế kỉ XX”, ở đó các nhà văn hiện đại hoặc sử dụng,
mượn và tái tạo những hình tượng, cốt truyện, motif trong văn học truyền thống
(trong kho tàng thần thoại dân tộc, những motif trong Kinh thánh, truyền thuyết, cổ
tích, ngụ ngơn…), cũng có thể nó được tạo ra bằng trí tưởng tượng của nhà văn và
được thể hiện bằng các yếu tố hoang đường, kì lạ, siêu nhiên. Ở đó, cái thực được
diễn đạt qua cái kì ảo, cái bình thường được phóng đại thể hiện bằng những cái phi
thường, kì lạ…Và hình tượng nghệ thuật nhờ đó mang tính đa nghĩa, tầm khái qt,
chứa đựng những quan niệm của nhà văn về nhân sinh. Theo nghĩa này huyền thoại
là những hình tượng nghệ thuật mơ hồ, đa nghĩa, mang tầm khái quát cao, rất khó
giải thích, khó tìm ra ý nghĩa.
2
2. Yếu tố huyền thoại trong tác phẩm “Hóa thân” của Kafka
“Hóa thân” là câu chuyện kể về G. Samsa, anh vốn là một nhân viên chào
hàng cần mẫn và nghiêm túc, là chỗ dựa và niềm tự hào của gia đình... Song một sáng
tỉnh dậy, Samsa "thấy mình đã biến thành một con côn trùng khổng lồ”. Và tiếp đó là
những chuỗi ngày ê chề, đau khổ và bi đát của Samsa. Những người thân trong gia
đình từ bố, mẹ tới cô em gái Grete mà anh vô cùng yêu quý bỗng dưng trở thành
những người xa lạ: họ khiếp sợ, khinh bỉ và căm thù anh. Còn anh, sau cuộc hố thân,
đã có dịp để ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình- cuộc đời mà trước đây, mải miết chạy theo
guồng quay của cuộc sống, dường như chưa bao giờ anh kịp suy nghĩ. Từ đôi mắt họ,
anh mới choàng tỉnh ra bao nhiêu điều: anh nghĩ tới những người bạn đồng nghiệp
"sống như cung tần mĩ nữ... mình chạy suốt sáng quay lại khách sạn để ghi số các
đơn hàng, thấy chúng mới ngồi vào bàn điểm tâm". Anh nghĩ tới lão chủ dị bợm và tự
dưng chán ghét cái nghề của mình, anh nghĩ tới mẹ, em gái và bố, đặc biệt là bố, sao
lại có sự thay đổi nhanh đến như vậy. Mọi sự nỗ lực của Samsa nhằm làm cho mọi
người hiểu mình, nhằm bày tỏ tình cảm đối với những người thân nhưng chỉ càng đào
sâu thêm hố ngăn cách: từ sự kinh hoàng, sợ hãi trước sự biến dạng của anh, mọi
người chuyển sang thái độ thương hại, rồi nhanh chóng trở nên thờ ơ và cuối cùng
hoàn toàn trở nên xa lạ, khơng những thế, họ cịn xem anh như một vết nhơ, một nỗi
nhục nhã, một sự đe doạ đối với cuộc sống của mình. Cả gia đình tỏ ra nhẹ nhõm,
sung sướng như trút được gánh nặng trước cái chết của anh.
2.1. Môtif biến dạng trong văn học truyền thống và trong “Hóa thân” của
Kafka
2.1.1. Khái niệm biến dạng.
Biến dạng là một phương thức tưởng tượng nghệ thuật quen thuộc trong văn
học, đã xuất hiện lâu đời, từ trong văn học dân gian, trong hệ thống thần thoại của các
dân tộc, nó được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau: Đó là việc các vị thần tự biến
mình thành các con vật; hoặc các vị thần hóa các sinh vật khác thành người, thành
động vật, thành chim muông, cỏ cây, hoa, lá, tượng, đá; cũng có thể con người chết đi
được hóa thân thành một lồi khác (thường là hoa, cây). “Các biến thái có thể theo
3
hướng lên hay xuống, tùy thuộc chúng thể hiện một phần thưởng hay một sự trừng
phạt, hoặc tùy theo mục đích mà chúng theo đuổi”.
2.1.2. Motif biến dạng trong văn học truyền thống.
Cấu trúc motif biến dạng trong văn học truyền thống rất phong phú, thường
là:
Người- Vật- Người; Vật- Người- Vật; Tiên (thần)- Người- Tiên (thần); NgườiTiên (thần)- Người.
Motif biến dạng (người biến thành vật) là một motif vốn xuất hiện trong các
huyền thoại tô tem nguyên thủy và các truyện cổ tích thần kì. Trong nhật kí của mình,
Kafka cũng có nhắc đến thuyết vật tổ (totemisme). Song qua so sánh, chúng ta thấy
rằng tác phẩm “Hóa thân” với các huyền thoại vật tổ không chỉ khác nhau về ý nghĩa
biểu tượng mà còn đối lập nhau một cách hiển nhiên.
Trong các huyền thoại tô tem của người Australia, sự biến dạng của một ông tổ
huyền thoại thành một con vật tổ thường diễn ra ở cuối truyện và đặc biệt là ghi dấu
theo nghĩa đen cái chết của nhân vật (do hậu quả của săn đuổi, giết chóc, mệt
mỏi…). Cái chết mang triển vọng hóa thân trong hậu thế và được thờ cúng. Nó có ý
nghĩa phục sinh và vĩnh cửu. Sự biến dạng của ông tổ đầu tiên thành vật tổ là dấu
hiệu của sự thống nhất gia đình.
Thổ dân Australia tin rằng, tất cả cỏ cây, ao hồ, hang động... đều là của tổ tiên
họ. Họ cho rằng vào buổi bình minh của nhân loại, tổ tiên của họ đã sáng tạo ra
những kì tích, những tạo vật đó và linh hồn của họ sau khi chết vẫn tiếp tục tồn tại,
ẩn náu đâu đó trong những tạo vật kia.
Thổ dân còn cho rằng, tổ tiên của họ hố thân vào trong biển cả, vào chim
mng, vào mỗi con người. Vì thế, thổ dân xem thế giới tự nhiên, gia đình họ, bộ
lạc của họ và cả chính bản thân họ là một. Cuộc sống cứ thế tiếp diễn, dường như
khơng bao giờ thay đổi. Tín ngưỡng thờ vật tổ đã củng cố thêm cho niềm tin này.
Vật tổ có thể chỉ là một con chim, một con thú hay một cái cây nào đó. Mọi ng ười
đều tin rằng một cái cây hay một con thú nào đó có thể cũng chính là họ, đại diện
cho họ. Vì thế, họ khơng bao giờ làm một điều gì có hại cho chúng.
Trong những chuyện cổ tích thần kì có nguồn gốc từ chính những huyền thoại
trên, sự biến dạng của nhân vật (chủ yếu) thành động vật có thể hoặc là phương tiện
bộc lộ bản chất vật tổ của mình, tức là sự lệ thuộc vào nhóm xã hội nhất định (ví dụ
4
người vợ thiên nga- thần kì khi bị chồng xúc phạm lại biến thành thiên nga và bay
về với cha- “ơng chủ” của chim thiên nga), hoặc đó chỉ là sự biến dạng tạm thời
thành một lồi vật kì dị do những bùa phép của phù thủy mà đến cuối truyện sẽ
được hóa giải.
2.1.3. Motif biến dạng trong “Hóa thân” của Kafka
Trong tác phẩm Hóa thân của Kafka, motif biến dạng được biểu hiện như
sau:
Kiểu biến dạng Người- Vật (vật hóa con người) là trường hợp của truyện
ngắn Hóa thân. Con người Gregor Samsa sau một giấc mơ thấy mình biến thành
con côn trùng khổng lồ “lưng rắn như thể được bọc kín bằng giáp sắt, bụng khum
khum, nâu bóng, phân chia làm nhiều đốt cong cứng đờ, chân nhiễu ra mảnh khảnh
đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng”, “vung vẩy bất lực”…
Thơng thường ở motif biến dạng, kiểu tự biến phần nhiều rơi vào những lực
lượng siêu nhiên, còn đối với người thường thì phải nhờ sự trợ giúp của lực lượng
thần linh ma quái hoặc thông qua một khâu trung gian (chẳng hạn một lọ thuốc hay
viên thuốc thần trong thuốc trường sinh của Banzăc). Biến dạng của Kafka cũng là
hiện tượng tự biến nhưng không qua một khâu trung gian hay có bất kì sự trợ giúp
nào. Kiểu biến dạng này khơng thể giải thích được ngun nhân, cho nên hiện thực
xảy ra càng trở nên huyền bí.
Vả lại, các hiện tượng biến dạng ln có một sự phân biệt rạch rịi về ln hồi,
có thể là tái đầu thai, biến hồn tồn, dứt khốt từ trạng thái này sang trạng thái tồn
tại khác với y nghĩa đoàn tụ, thống nhất. Nếu là tạm thời, nhất thời tất nhiên sẽ có
sự hoàn trả lại trạng thái nguyên sơ, thể hiện tinh thần chiến thắng, lạc quan của
người xưa. Nhưng quá trình biến dạng của con người Samsa thành cơn trùng khơng
có sự hoàn trả lại kiếp người. Anh ta bị biến thành con bọ và mang kiếp bọ đến chết.
Vòng đời hóa kiếp của anh khơng dài nhưng là sự hóa kiếp mãi mãi: Người- Côn
trùng- Cái chết. Sự biến dạng của Samsa khơng mang ý nghĩa thống nhất đồn tụ
trong quan hệ gia đình, cộng đồng mà ngược lại là dấu hiệu của sự li khai khỏi
nhóm, sự tha hóa, đoạn tuyệt với gia đình và xã hội. Cơ em gái Grete đã nói với bố:
“Cha hãy cố đừng nghĩ đấy là anh Gregor nữa… sao lại có thể là Gregor được?
giả sử đó là anh ta thì có lẽ từ lâu anh ta đã biết rằng không thể bắt con người
chung sống với con sâu và anh ta đã cút đi từ lâu rồi…”. Khi Samsa khơng cịn là
5
Samsa, người chạy hàng, người con, người anh quen thuộc trong cuộc sống thực
dụng hằng ngày thì cả thế giới sẽ khai trừ anh ta ra khỏi cuộc sống.
Như vậy, sự tái tạo motif biến dạng trong văn học truyền thống của Kafka
không nhằm sáng tạo ra một huyền thoại cổ đại hay mơ hình hóa huyền thoại cổ đại
mà nhằm tượng trưng cho trạng thái sinh tồn và quá trình tha hóa của con người
trong xã hội hiện đại. Biến dạng của Kafka, vì thế “là một huyền thoại lộn ngược,
một thứ phản huyền thoại, nếu coi huyền thoại nguyên thủy là mẫu mực” (Thi pháp
của huyền thoại- Meletinsky), giống như một thứ giễu nhại huyền thoại cổ đã nhằm
phản ánh hiện thực xã hội.
Việc tác giả sử dụng motif biến dạng như một cách thức tạo dựng huyền thoại
đã nâng hình tượng nghệ thuật trở thành biểu tượng độc đáo, tác phẩm vì thế trở
thành ẩn dụ sâu sắc cho tình trạng tha hóa của con người trong thời đại kĩ trị.
Cảm nhận về tình trạng tha hóa của Kafka có cơ sở từ thực tại cuộc sống. Vào
những năm đầu thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng, kéo theo là
q trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, con người chen chúc nhau trong vòng quay
chật chội của cuộc mưu cầu nhân sinh mà qn mất bản thân mình. Nhịp sống hiện
đại có nguy cơ biến con người trở thành nạn nhân, máy móc. Con người cảm thấy
cô đơn, bất lực trước sức mạnh ghê gớm của bộ máy kinh tế quyền lực, tự thấy
mình biến thành cái đối lập, một bản thể ngồi nó và khác nó, khước từ và phủ định
chính nó. Điều này được Kafka trừu tượng hóa bằng một hình ảnh đầy ám ảnh trong
tác phẩm: Sự hóa thân của Gregor Samsa thành một con cơn trùng khổng lồ.
Hình tượng biến dạng của Samsa đã được giải mã theo nhiều cách khác nhau.
Các nhà nghiên cứu thuộc trường phái phê bình huyền thoại học coi đó như một
kiểu mơ hình hóa các motif huyền thoại truyền thống; Các nhà thần học lại lí giải sự
biến dạng đó trên cơ sở tôn giáo: thân cát bụi trở về với cát bụi; Một số khác lại coi
sự biến dạng của Samsa là đỉnh cao của sự giác ngộ: “người đời đã quá quen với
cuộc sống vật chất thấp hèn, giả tạo, với bao nhiêu lề thói và ảo tưởng khơng thể
nào phá vỡ nổi. Chỉ có sự giác ngộ cao mới giúp con người nhìn ra những mặt trái
đó của cuộc sống, và khi đó thì anh ta muốn cắt đứt ngay với thế giới xấu xa đó để
trở về với cội nguồn cao đẹp, với thực thể của mình. Nhưng cũng chính khi đó, tức
là khi anh ta đã giác ngộ, thì tự nhiên anh ta thấy mình khơng phải là như mình
ngày thường nữa, đồng thời những người chung quanh cũng cho anh ta là một con
6
vật qi gỡ, khơng thể nào dung hịa được”; cịn các nhà nghiên cứu thuộc phái
Phân tâm học lại coi đó là kết quả của tổng thể những mặc cảm cá nhân. Nhưng sự
thật hình tượng biến dạng của Kafka cịn vượt xa hơn, đó là cách cảm nhận về trạng
thái con người, là biểu tượng về tình trạng tha hóa của con người trong thế giới hiện
đại.
Gregor Samsa là một nhân viên chào hàng, cuộc sống của anh là sự vận hàng
của một cổ máy đều đặn, không được phép dừng lại để nghỉ ngơi ngay cả khi cơ thể
mệt mỏi, cuộc sống riêng tư lại càng khơng có thời gian nghĩ đến. Anh làm việc với
một trách nhiệm lớn, gánh vác mọi việc trong gia đình: lo trả món nợ phá sản của
cha, lo trang trải cuộc sống gia đình, lo cho em gái vào học nhạc viện. Mặc dù rất
chuyên tâm trong công việc nhưng anh luôn bị lão quản lí chê bai. Chu trình cơng
việc của anh đã biến anh thành một con côn trùng, xa lạ với chính mình. Sự tha hóa
đó là kết quả tất yếu của cuộc sống hiện đại, là mặt trái của thời đại kĩ trị, con người
trở thành nạn nhân của xã hội.
Trong bộ dạng mới, G. Samsa có cơ hội nhận thức được cuộc sống của mình,
đó là cuộc sống của một kẻ làm thuê bị bóc lột đến kiệt quệ: “Mình chọn chi cái
nghề quá đỗi nhọc nhằn này! Chạy rông hết ngày này sang ngày khác. Một cơng
việc thật cịn khó chịu hơn chuyện bn bán ở cửa hàng và bực mình nhất đời là cứ
phải liên tục di chuyển, cứ phải lo lắng chuyện đổi tàu, chuyển ga, ăn uống thất
thường, gặp đâu ngủ đấy, lúc nào cũng phải làm quen với những kẻ tình cờ gặp gỡ
rồi không bao giờ thấy mặt lần thứ hai, khơng bao giờ trở thành bạn hữu thâm tình.
Quỷ bắt cái nghề này đi!”. Và cũng chỉ trong biến dạng anh mới nhận ra tình cảm
mà gia đình dành cho anh: khi cịn làm việc ni sống cả gia đình, anh được trọng
vọng, giờ đây khi anh trở thành gánh nặng cho gia đình, họ đối xử với anh như một
kẻ bỏ đi, thậm chí họ muốn anh chết quách cho xong, khơng cịn muốn nghĩ rằng
anh đang có mặt trong cuộc sống của họ.
Hình ảnh con bọ- Gregor Samsa là hình ảnh mang tính khái qt cho con người
nhân loại. Từ việc mơ tả sự hóa thân của G. Samsa, Kafka đã đề cập đến vấn đề
mang ý nghĩa vĩnh cửu: gánh nặng gia đình, áp lực cơng việc, sức lao động và
quyền lực thống trị của những kẻ giàu sang.
Xây dựng motif biến dạng về hình hài, Kafka phản ánh sâu sắc về tình trạng
tha hóa của con người trong xã hội hiện đại. Bên cạnh đó, các motif biến dạng về
7
ngôn ngữ, biến dạng về hành động trong tác phẩm của Kafka cịn cho thấy cảm thức
tha hóa nghiệt ngã hơn. Sự biến dạng về ngôn ngữ, hành động (bị vật hóa) đã đẩy
con người lên đỉnh cao của sự tha hóa. G. Samsa khơng cịn nghe ra giọng nói của
mình, đó chỉ là “một chuỗi âm thanh the thé, léo nhéo, ghê rợn, rền rền như một
tiếng thì thầm, khiến cho các từ thốt ra chỉ rõ ràng lúc đầu…”. Chính sự biến dạng
về ngơn ngữ đã đẩy Gergor dần dần xa rời, đối lập với thế giới loài người; kết hợp
với biến dạng về hình hài, tác phẩm nhấn mạnh hơn nguyên nhân nỗi bất hạnh của
nhân vật. Gregor đau đớn trước sự biến dạng tình người (thái độ xa lánh, ghẻ lạnh
của người thân) hơn là sự biến dạng hình hài của mình. Khơng cịn khả năng lao
động, giao tiếp, cuộc sống của anh khép lại trong giới hạn của bốn bức tường, chìm
dần vào quên lãng, hư vô. Con người sống với nhau như dã thú, xa lạ, khơng có sự
tương trợ nhau.
Hóa thân cho thấy sự quay lưng của gia đình trước tình cảnh người thân gặp tai
họa. Khi Gregor bị biến dạng, gia đình nghiễm nhiên để mặc anh tự xoay sở trong
sự nhạt dần tình người. Thậm chí họ cảm thấy con cơn trùng là trở ngại, là nỗi nhục
nhã, là mối đe dọa của gia đình, ngày đêm họ muốn nó biến mất khỏi thế gian: “ta
phải làm sao tống khứ nó đi”. Có nghĩa rằng gia đình biết ơn anh đã từng vì họ mà
lao động cực nhọc, nay anh khơng cịn khả năng đó nữa thì hãy làm ơn hi sinh nốt,
bù lại anh sẽ được gia đình mãi tưởng nhớ về anh với những ấn tượng đẹp; cịn
khơng người ta sẽ coi anh như kẻ thù và lãng quên anh như chóng.
Bản thân motif biến dạng trong Hóa thân là cái khung của cốt truyện, toàn bộ
truyện là người biến thành vật, tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
2.2 Biểu tượng cánh cửa.
Biểu tượng Cánh cửa có nguồn gốc từ trong Kinh thánh, trước hết mang ý
nghĩa tín ngưỡng tơn giáo. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới giải thích rằng:
“Cái cửa tượng trưng cho nơi qua lại giữa hai trạng thái, hai thế giới, giữa cái đã
biết và cái chưa biết, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa kho vàng và cảnh khốn quẩn.
Cánh cửa mở ra để thấy điều bí ẩn…”.
Trong Kinh thánh, cánh cửa có ý nghĩa vơ cùng quan trọng bởi nó dẫn tới khải
hồn, “Cánh cửa giống như Chúa Kitơ hiển uy và ngày phán xử cuối cùng, chờ đón
kẻ hành hương và các tội đồ. Chúa là cái cửa và thông qua bí nhiệm của sự cứu
8
rỗi, cái cửa mở lối lên Thiên Quốc: Ta là cửa, ai qua ta mà vào sẽ được cứu rỗi” .
Chúa Kitô là cửa của sự thông minh, sách thánh Vịnh ghi rằng “Hãy mở cho tôi
cánh cửa công minh để tôi vào tạ ơn Chúa. Hay cánh cửa nhà trời Chúa mở ra là
để hiển hiện và để ban phúc cho loài người…”.
Như vậy, đối với Kinh thánh, đằng sau cánh cửa tượng trưng cho sự đóng và
mở ra một thế giới tốt đẹp, ở đó con người có thể tìm thấy sự cứu rỗi, bình an và chỉ
những người ân sủng của Chúa mới được bước qua cánh cửa hay mới được mở cho
để bước vào.
Cánh cửa trong tác phẩm Hóa thân của Kafka khơng cịn mang ý nghĩa như
trong Kinh Thánh dùng để ngăn chặn hay chào đón ai được phép vào, mà nó làm ra
để dành cho tất cả mọi người, có điều nhân vật của Kafka trước sự “tự do” này đã
không đủ can đảm để bước qua. Theo đó cánh cửa trong tác phẩm Kafka mặc dù
đang để ngõ, tự bản thân nó vẫn mang một sức mạnh quyền uy khủng khiếp, bất di
bất dịch.
Chính sự sợ hãi trước quyền uy của nó khiến những cánh cửa vốn mở rộng trở
thành một thành lũy khép kín trong suy nghĩ của mọi người, nó ngăn cách hai thế
giới: thế giới của quyền lực vơ hình và thế giới đời thường khổ ải.
Ranh giới cánh cửa ngăn cách giữa hai thế giới đối nghịch nhau phản ánh rõ.
Trong Hóa thân, G. Samsa khi bị biến thành cơn trùng, hình ảnh cánh cửa trở nên
vơ cùng quan trọng, nó phân thành hai thế giới tách biệt: bên trong cánh cửa gỗ là
thế giới nhỏ bé của anh- con bọ với bốn bức tường đóng kín ngột ngạt, ngồi cánh
cửa là thế giới của lồi người- gia đình, công sở. Khi mới bị biến dạng, cánh cửa mở
sẽ hé lộ bí mật về tình trạng của Gregor. Bên trong cánh cửa anh vật lộn với kiếp
côn trùng, bên ngoài mọi người lo lắng cho sức khỏe của anh, thúc giục anh mở
cửa. Cửa mở đồng nghĩa với việc cuộc sống người của Gregor chấm dứt. Bấy giờ
cánh cửa trở thành mối liên lạc duy nhất giữa anh và thế giới bên ngồi. Thơng qua
cánh cửa thức ăn được đưa vào, và cũng qua nó, anh biết rõ cuộc sống của gia đình.
Việc anh biết hay khơng biết được những sự kiện đã xảy ra bên ngoài phụ thuộc vào
cánh cửa mở hay đóng.
9
Hình ảnh cánh cửa trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm cho ta biểu tượng về
thân phận bi đát của con người, con người luôn vươn tới khát vọng hịa nhập vào
cuộc sống tự do ở bên ngồi.
Việc sử dụng hình ảnh biểu tượng đã góp phần tạo tính đa nghĩa cho văn bản,
nó là một trong những con đường (hay chìa khóa) dẫn người đọc vào thế giới đầy bí
ẩn, huyễn hoặc của Kafka.
2.3. Sự pha trộn giữa thực và ảo
Sự xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau giữa hai yếu tố thực- ảo làm cho thế giới
trong tác phẩm Kafka vừa thực lại vừa không thực, vừa hiện thực vừa huyền thoại.
Đặc tính này của bức tranh hiện thực Kafka còn cho thấy rõ nét khác biệt của huyền
thoại hiện đại so với huyền thoại cổ xưa, ở chổ huyền thoại xưa xây dựng trên một
thế giới hư cấu gồm hai lĩnh vực hoàn toàn tách riêng: một thế giới tự nhiên và một
thế giới siêu nhiên; thế giới tự nhiên luôn bị tác động, chi phối bởi quyền lực mạnh
mẽ của thế giới siêu nhiên, thần bí. Cịn trong thế giới của Kafka, ranh giới giữa cái
siêu nhiên và tự nhiên luôn luôn bị vi phạm, khơng phân biệt rõ ràng, nó trở thành
một thế giới tạp chủng, trộn lẫn giữa tự nhiên- siêu nhiên, quái dị- bình thường, cái
thực và cái ảo đan bện vào nhau.
Thế giới thực- ảo trong tác phẩm của Kafka luôn luôn ẩn dụ cho thế giới mà
nhà văn đã chứng kiến, cảm nhận và dự báo. Đó cũng chính là quan niệm của nhà
văn về thế giới và con người. Đối với Kafka, thế giới ấy luôn tách ra làm hai: một
hiện hữu trước mặt- là môi trường sống- nơi diễn ra những hoạt động của con
người; song song với nó là một thế giới khác, bí ẩn mắt thường khơng nhìn thấy, vơ
hình, khuất lấp nhưng đầy uy lực có thể ức hiếp, giáng tai họa cho con người bất cứ
lúc nào. Hiện thực của Kafka mô tả là hiện thực của hai bình diện: vừa cụ thế vừa
trừu tượng; riêng lẻ- phổ quát; có lý- phi lý; tốt- xấu; bi- hài và bao trùm hơn cả là
không khí thực hư lẫn lộn.
Nghệ thuật pha trộn giữa thực và ảo trong tác phẩm Hóa thân được thể hiện qua
các phương diện như: thời gian huyền thoại, không gian huyền thoại và cách thể
hiện phản ứng của nhân vật trước hiện tượng bất thường
2.3.1. Thời gian huyền thoại
10
Biệt tài của Kafka khi sử dụng cái hoang đường là bằng nhiều cách, ông khiến
bản thân nhân vật và cả độc giả chấp nhận chúng và xem đấy như là một phần tất yếu
của cuộc sống, để làm được điều này Kafka đã sử dụng thời gian huyền thoại. Tác
phẩm của ông về bản chất đề cập đến những vấn đề hiện tại nhưng ông luôn đặt
chúng vào môi trường huyền ảo bằng cách xóa bỏ hết đường viền thời gian thực.
Thời gian trong Hóa thân là thời gian thực tại nhưng thời gian thực tại này lại được
miêu tả một cách vô định và thời gian sự kiện được thuật lại rất mơ hồ, không biết
xảy ra vào ngày giờ cụ thể nào. Điều này thể hiện qua lối vào truyện. Lối vào truyện
của Kafka hệt như vào truyện của thần thoại, cổ tích mặc dù đối tượng ông hướng
đến là những con người, những sự kiện, hiện tượng rất thực.
Truyện cổ tích hay thần thoại thường bắt đầu bằng các tín hiệu thời gian như:
ngày xưa, ngày xửa ngày xưa, ngày ấy… hoặc là mở đầu bằng cách liệt kê dồn dập
một loạt sự kiện. Kafka cũng thường mở đầu bằng các tín hiệu thời gian khơng xác
định. Đọc “Hóa thân”, ta bắt gặp ngay từ đầu tín hiệu thời gian huyền thoại: “Một
buổi sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành
một con côn trùng khổng lồ”… Sự phiếm chỉ về thời gian này không chỉ gợi trong
độc giả cảm thức về khơng khí của một câu chuyện cổ vốn dĩ đã ăn sâu trong tâm
thức của bao người mà nó còn tạo điều kiện để Kafka dễ bề huyền thoại hóa hiện tại.
Trong Hóa thân, thời gian của nhân vật Gregor ngắn ngủi: khoảng 3 tháng…
trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, Gregor lại thường phải đối diện với cái chết nên
cảm giác mơ hồ, mơ ảo trong tác phẩm càng tăng lên.
Nhưng điểm đặc biệt ở Kafka là ở chổ qua q trình miêu tả, nhà văn cịn muốn ảo
hóa ln cái thời gian thực tại của nhân vật khiến cho nhân vật của ông phần lớn mất
hết ý thức về thời gian, không phân biệt được ngày giờ, khơng xác định được dịng
chảy thời gian.
2.3.2. Khơng gian huyền thoại
Trong tác phẩm Hóa thân, Kafka đã tạo nên một chuỗi các kiểu không gian
chồng chéo lên nhau: không gian tù túng, không gian ác mộng, không gian thực- ảo.
Sự hịa trộn các loại khơng gian này đã tạo nên chất keo dính kết cái đời thường, trần
tục với cái hư ảo; cái hữu hình với cái vơ hình; huyền thực với huyền thoại, tác phẩm
vì thế khó phân biệt giữa thực- ảo. Tuy nhiên người đọc cũng dễ nhận thấy có điều gì
đó rất thực bởi nó có thể xảy ra bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào.
11
2.3.2.1. Không gian ngột ngạt tù túng
Trong văn học truyền thống, con người thường hịa mình vào khơng gian vũ
trụ, được hít thở căng trịn buồng phổi khơng khí trong lành của vũ trụ bao la mà tự
nhiên ban tặng. Con người trong sáng tác của F. Kafka lại khác, hầu như chỉ tồn tại
trong không gian ngột ngạt tù túng. Con người quen thuộc gắn bó với khơng gian
này đến nỗi khơng thể sống thiếu nó được. Tính chất phi tự nhiên, phản truyền
thống của không gian ấy là một ẩn dụ sâu sắc về sự tha hóa của con người.
Trong đời sống tinh thần người phương Đông, với cái nhìn nhất thể về vũ trụ,
với quan niệm "thiên nhân tương đồng", con người dù cơ đơn vẫn cịn có một điểm
tựa tinh thần, đó chính là thiên nhiên. Đến với thiên nhiên, hồ mình trong đó, con
người khơng chỉ tìm được sự thảnh thơi trong tâm hồn, mà cịn có cảm giác như
được trở về với ngơi nhà thân yêu, đầy ấm cúng của mình. Vì thế, khi muốn diễn tả
sự cô đơn cực độ, các nhà thơ cổ phương Đông thường đặt con người trong một
không gian rộng lớn vơ biên, xa lạ. Ở đó, họ khơng tìm thấy một hình ảnh gì thân
thuộc, gần gũi với mình, con người như lạc vào một khơng gian, một thời gian nằm
ngồi dịng chảy của cuộc đời.
Như vậy, nếu như trong nghệ thuật phương Đông, nỗi cô đơn của con người
thường được tô đậm trong sự đối lập với khơng gian mênh mơng xa lạ, thì trong
Hóa thân của Kafka, con người cô đơn, lạc lõng ngay trong những không gian quen
thuộc, gần gũi, chật hẹp, tù túng như căn phịng nhỏ với 4 bức tường đóng kín. Con
người xa lạ ngay giữa cuộc sống cộng đồng, xa lạ với người thân, thậm chí với
chính mình. Vì thế, dù hình ảnh con người cơ đơn, lạc lõng vốn khơng phải là hoàn
toàn mới mẻ, lạ lẫm trong đời sống văn học song đến Kafka, nó vẫn tiếp tục tạo nên
những xúc động lớn lao
2.3.2.2. Không gian ác mộng
Nhân vật Gregor Samsa khi tỉnh giấc thấy mình biến thành một cơn trùng khổng
lồ. Đó là khơng gian của ác mộng, là hình ảnh của thế giới vơ thức mà ta thường
thấy trong giấc mơ. Kafka đã dùng ngòi bút điêu luyện đi vào mơ tả giấc mơ đó thật
cụ thể, như thật: “Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành một côn
trùng khổng lồ, lưng anh rắn như thể được bọc kín bằng giáp sắt, anh nằm ngửa
dợm nhấc đầu lên và nhìn thấy bụng mình khum trịn, râu bóng, phân chia thành
nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn.
12
Chân anh nhiễu ra, mảnh khảnh thảm hại so với phần cịn lại của thân hình to
đùng, vung vẫy bất lực trước mắt anh”. Gregor Samsa bắt đầu sống với ảo giác, anh
bàng hoàng, nửa tin, nửa ngờ. Tin là vì anh vẫn ngủ trong thế giới bình thường của
con người, ngờ là thân hình anh biến đổi kỳ dị. Trạng thái, cảm giác của Gregor
Samsa đó là trạng thái, cảm giác của một ác mộng kinh hồng.
Ngịi bút Kafka đã hòa quyện một cách rất tự nhiên giữa cái quái dị và cái
thường ngày đến độ không sao phân định được một trong hai yếu tố đó, cái nào nảy
sinh từ cái nào. Người ta ngột ngạt trong không khí ác mộng nhưng câu chuyện lại
hết sức mạch lạc, chính xác khiến sự phi lý thật hơn cả thực tại.
Có thể nói, Kafka đã thành cơng trong việc miêu tả hình ảnh của cõi mộng, của
những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang, lo sợ của con người trước thế
giới mà nền tảng của nó là sự tha hóa giữa người với người. Sự độc đáo của Kafka
là ông không đưa giấc mơ vào phục vụ nghệ thuật mà ngược lại, theo cách riêng,
Kafka đã đưa nghệ thuật của mình "phục vụ" những giấc mơ, hiện thực hóa cái ảo
bằng hình ảnh đầy sáng tạo.
2.3.2.3. Khơng gian thực và ảo
Đặc trưng xuyên thấm trong toàn bộ sáng tác của Kafka là cái thực và cái
ảo không bao giờ tách biệt nhau mà chúng hòa quyện với nhau như là một bản thể
mang tính hai mặt: Trong thực có ảo và trong ảo có thực. Cái hiện thực của đời sống
được Kafka tổ chức làm biến dạng đi trở thành cái huyễn hoặc huyền ảo nhưng câu
chuyện lại kể hết sức mạch lạc, chính xác đến từng chi tiết khiến khơng khí huyền
ảo huyễn hoặc trở nên thật hơn cả hiện thực. Người ta gọi bút pháp đó là “ Tượng
trưng hiện thực”.
Vấn đề Hóa thân trong truyện ngắn cùng tên của Kafka là phối hợp giữa không
gian thực và không gian ảo. Việc Gregor Samsa – nhân viên chào hàng - sau một
đêm ngủ dậy, anh thấy mình biến thành một con cơn trùng khổng lồ cho ta thấy sự
việc vượt ra ngoài quy luật của không gian thực, trở thành điều huyễn hoặc. Song,
câu chuyện được kể một cách hiện thực triệt để trong chi tiết: cái con bọ- Gregor ấy
cảm thấy và ý thức rõ từng thay đổi sinh lý sinh học trong bản thân, đau đớn chứng
kiến thái độ ứng xử của bố mẹ và cơ em gái cưng chuyển từ kinh hồng đến ân cần,
rồi phẫn nộ khinh rẻ và cuối cùng là hờ hững, tất cả được biểu đạt bằng một giọng
13
đầy trìu mến và tuyệt vọng. Chính cách kể hiện thực trong chi tiết này đã kéo cái
huyễn hoặc ấy về với thế giới thực, thế giới con người với những lo âu thường nhật,
sự phi lý trong quan hệ giữa người với người.
Tóm lại, bằng nghệ thuật biểu hiện cái phi lý, Kafka đã tạo nên những kiểu
không gian mới mẻ, độc đáo, kỳ lạ hiếm thấy trong lịch sử văn chương trước đó.
2.3.3. Cách thể hiện phản ứng của nhân vật trước hiện tượng bất thường
Ta nhận thấy nét khác biệt của huyền thoại Kafka so với huyền thoại cổ là ở
chỗ cái quái dị, hoang đường không chủ yếu do dạng thái vật chất hay hình thức của
sự vật tạo nên (người biến thành côn trùng) mang lại, mà chính là từ cái việc nhân
vật nghiễm nhiên chấp nhận nó như là cái bình thường. Vì thế trong tác phẩm Kafka
cái bình thường dường như lấn át cái hoang đường, kì ảo nhưng huyền thoại vẫn
bao trùm mênh mơng. Ngay từ đầu tác phẩm Hóa thân, Kafka bày ra một hiện
tượng hết sức phi lý, quái dị: Con người Gregor Samsa biến thành con côn trùng
khổng lồ. Thế nhưng hiện tượng kì lạ này chỉ gây cú sốc ban đầu cho mọi người
trong gia đình và họ nhanh chóng chấp nhận sự việc đó một cách tự nhiên. Tự nhiên
hơn là họ chấp nhận để con côn trùng tiếp tục sống chung trong ngôi nhà, họ không
nghi ngờ hay tìm hiểu gì về sự việc hết sức phi lý đó. Ngay cả bản thân G. Samsa,
khi cơ thể anh khơng cịn là hình hài con người thì anh cũng không quan tâm lắm,
điều anh quan tâm đầu tiên là làm sao dậy được đi làm cho kịp chuyến tàu, anh chất
vấn tại sao mình lại rơi vào tình cảnh này vào lúc phải đến cơng sở. Ở đây Kafka đã
hòa quyện một cách rất tự nhiên cái quái dị và cái thường ngày trong thái độ tiếp
nhận thản nhiên của nhân vật trước hiện tượng bất thường đến mức không sao phân
biệt được trong hai yếu tố ấy, cái nào nảy sinh từ cái nào.
Việc để cho thái độ nhân vật hết sức tự nhiên trước những hiện tượng quái dị,
hoang đường, Kafka gợi cho ta suy tưởng rằng cái quái dị, siêu nhiên đã trở thành
cái bình thường hằng ngày. Đó là một cách Kafka huyền thoại hóa huyền thoại,
khiến cho người đọc dễ chấp nhận hiện tượng quái dị, phi lý đang dần dần xâm
nhập vào và chi phối đời sống con người. Chúng chẳng có gì lạ một khi con người
vẫn cứ thường xun phải chịu đựng những chuyện hãi hùng ập đến một cách bất
ngờ, lạ lâu rồi sẽ thành quen, đó là quy luật của cuộc sống.
Hiện thực trong tác phẩm Kafka được mô tả như một hiện thực khác- “một
thiên nhiên thứ hai”, chúng dường như rất giống mà cũng không giống với cái
14
thường ngày. Vì thế cái bình thường đã trở thành siêu thực, phi thường, tạo nên một
khơng khí hoang đường, qi dị vừa như có, vừa như khơng tồn tại, thực và ảo trộn
lẫn với nhau đến mức người đọc sau khi rời trang sách thì cái đọng lại trong họ
không phải những câu chuyện huyền thoại mà cảm giác như một phần sự thật cuộc
sống mà mình đang phải đối diện.
15
KẾT LUẬN
Bằng bút pháp huyền thoại trong Hóa thân, Kafka đã phản ánh sâu sắc
những vấn đề nhức nhói về cuộc sống và con người phương Tây hiện đại. Đó là một
xã hội quyền lực, xã hội toàn năng xâm chiếm lấy con người, tước đi của con người
tất cả mọi thứ vốn thuộc về con người: nghề nghiệp, nhà cửa, gia đình, người thân
thậm chí cả quyền khẳng định mình, biến con người trở thành một thực thể thụ động
và tha hóa, lạc lõng và cơ đơn, ln mang trong mình một nỗi lo âu, sợ hãi mơ hồ
khiến họ dễ nhụt chí trước những khát vọng rất con người. Cuộc đời con người là
một cuộc hành trình đi tìm kiếm chân lý, tìm kiếm sự thật, tìm lại bản thân- cái đã bị
đánh mất, tìm chổ đứng của mình trong xã hội. Nhưng thật nghiệt ngã, cho dù có cố
gắng đến đâu họ cũng chỉ nhận lấy sự thất bại, cái chết ln chờ đón họ.
Tác phẩm Hóa thân của Kafka từ cái nhìn huyền thoại trở thành những biểu
tượng đa nghĩa giàu ẩn ý, bài tiểu luận này vạch ra một số yếu tố huyền thoại trong
tác phẩm Hóa thân và những gì đề cập trên đây mới chỉ là một phần nhỏ trong cái
thế giới vô cùng bí ẩn đó.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
¶¶¶&***&¶¶¶
1. E. M. Meletinsky(2004), Thi pháp của huyền thoại, Người dịch: Trần Nho
Thìn, Song Mộc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Lê Huy Bắc(2006), Nghệ thuật Phran- dơ Káp- ka, Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Văn Dân(1996), “Kafka với cuộc chiến chống phi lý”, Văn học Nước
ngoài, Hà Nội
4. Lê Thanh Nga (2006), “Thân phận con người trong sáng tác của Franz
Kafka”, Nghiên cứu văn học, Viện văn học- Viện KHXH Việt Nam.
5. Franz Kafka(2003), Tuyển tập tác phẩm, Nxb Hội nhà văn, Trung tâm văn
hố ngơn ngữ Đơng- Tây, Hà Nội
6. Đặng Anh Đào, Hồng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn
Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính, Phùng Văn Tửu (1997), Văn học phương Tây (giáo
trình), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Karelski (1996), “ Về sáng tác của Franz Kafka”, Nguyễn Văn Thảo dịch,
Văn học nước ngoài, Hà Nội
8. Trương Đăng Dung (1998), Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, Tạp chí văn
học, Hà Nội
9. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
10. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
17