Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học PHẬT GIÁO câu xá LUẬN lịch sử tư tưởng và triết học nhất thiết hữu bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.21 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
2
NỘI DUNG
3
PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA PHÁI NHẤT
I.
THIẾT HỮU BỘ
3
1.1. Phật giáo Ấn Độ
3
1.2. Sự ra đời phái Nhất Thiết Hữu Bộ
5
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VÀ TRIẾT HỌC PHÁI NHẤT THIẾT
II.
HỮU BỘ
7
2.1. Lịch sử tư tưởng phái Nhất Thiết Hữu Bộ
7
2.2. Triết học phái Nhất Thiết Hữu bộ
12
KẾT LUẬN
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
19
MỤC LỤC
Trang

1


MỞ


ĐẦU
Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền
bắc Ấn Độ vào thế kỷ VI TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49
năm khi Đức Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử
phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức
hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo
Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự
uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã
hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày
nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế
giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Châu Âu.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, trải qua các giai đoạn khác nhau,
do cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các trường phái trong Phật giáo dẫn đến sự
hình thành nhiều phái khác nhau, trong đó có trường phái Nhất Thiết Hữu Bộ.
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (zh. 說說說說說, sa. sarvāstivādin), còn gọi là
Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ ( sa. mūlasarvāstivādin, bo. thams cad yod
par smra ba`i sde) hoặc Nhất Thiết Hữu Bộ, là một bộ phái Phật giáo cho rằng
mọi sự đều có, đều tồn tại (nhất thiết hữu, sa. “sarvam asti”). Là một nhánh
của Tiểu thừa tách ra từ Thượng toạ bộ (sa. sthaviravādin) dưới thời vua Adục. Quan điểm của bộ này được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại thừa.
Lịch sử tư tưởng và triết học Nhất Hữu bộ có đóng góp to lớn cho sự phát
triển của Phật giáo. Do vậy, nghiên cứu “Lịch sử tư tưởng và triết học Nhất
Thiết Hữu bộ” có ý nghĩa rất quan trọng.

2


NỘI DUNG
I. PHẬT GIÁO VÀ QUÁ TRÌNH RA ĐỜI CỦA PHÁI NHẤT
THIẾT HỮU BỘ
1.1. Phật giáo Ấn Độ

Điều kiện thiên nhiên Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có nhiều núi
non, vừa có nhiều sơng ngịi với nhiều đồng bằng trù phú, có vùng nóng ẩm
mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng sa mạc
khơ cằn, nóng nực. Tính đa dạng và khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí
hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét lên
tâm trí người dân Ấn Độ cổ.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là một xó hội rất sớm, khoảng thế kỷ thứ XXV
TCN đó xuất hiện nền văn minh đầu tiên là văn minh sông Ấn. Đến thế kỷ
XV TCN, có sự xâm nhập của người Arya vào khu vực của người bản địa
(người Dravida ) hình thành nên các quốc gia Ấn Độ tạo nên nền văn hóa mới
gọi là văn hóa Véda.
Đặc điểm nỗi bậc của nền kinh tế - xã hội Ấn Độ cổ là sự tồn tại rất sớm
và kéo dài của kết cấu kinh tế - xó hội theo mơ hỡnh “Cơng xó nơng thơn” mà
đặc trưng của kết cấu này là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước của
các Đế Vương, mà gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong
cơng xó. Xó hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: Tăng lữ,
Quý tộc, Bình dân tự do, Nơ lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho
xó hội xuất hiện những mâu thuẩn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và
trường phái triết học đó ra đời, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo Ấn Độ. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là
Thái tử Cồ Đàm - Tất Đạt Đa (Gau ta ma Siddhattha) sinh năm 563 trước
công nguyên (TCN), con vua Tịnh Phạn (Shudd hodana) thuộc bộ tộc Thích
Ca (Sa Kya), trị vì một vương quốc nhỏ là Catỳlavệ (Kapilavaxtu) ở trung lưu
sông Hằng, bao gồm một phần phía Nam Nê-pan và một phần các bang
Uttarơ, Prađezơ, Bi he của Ấn Độ ngày nay [5, tr.458].

3



Vào khoảng thế kỷ VI Tr.CN ở Ấn Độ lực lượng sản xuất phát triển
nhanh, sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội ngày càng gay
gắt. Đạo Bà La Môn sau một thời gian củng cố đã đi vào giai đoạn phát triển cực
thịnh cả về mặt tơn giáo lẫn vị trí chính trị trong xã hội. Đạo Bà La Môn đã phân
chia xã hội thành bốn đẳng cấp với quyền lợi, địa vị và nghĩa vụ khác nhau. Sự
phân biệt giữa các đẳng cấp được thể hiện ở nhiều mặt, không những chỉ về
quyền lợi kinh tế, địa vị xã hội, mà cả trong quan hệ giao tiếp, đi lại, ăn mặc,
sinh hoạt tôn giáo. Hai đẳng cấp trên trở thành giai cấp bóc lột và thống trị
trong xã hội, trong đó nổi bật là những đặc quyền đặc lợi của đẳng cấp Bà La
Môn, đẳng cấp được coi là đẳng cấp cao quý, trong sạch nhất, sánh vai với
thánh thần. Đẳng cấp Thủ Đà La ở địa vị tận cùng của xã hội, làm nô lệ cho
các đẳng cấp trên. Mâu thuẫn giữa các đẳng cấp ở Ấn Độ ngày càng trở nên
gay gắt, đã xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng khác nhau. Các trào lưu tư tưởng
đó đều gặp nhau ở chỗ - hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp - chống lại chế độ phân
biệt đẳng cấp và đạo Bà La Môn. Học thuyết Phật giáo là một trong những
trào lưu tư tưởng đó.
Phật giáo ra đời trong làn sóng địi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội,
một mặt, phủ nhận những giáo lý, lễ nghi khắt khe của đạo Bà la môn và chế
độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt; mặt khác, lại kế thừa những tư
tưởng, những yếu tố tích cực của nó như đề cao lịng nhân ái, từ bi, với mục
đích tối cao là “giải thoát” con người khỏi bể khổ của cuộc đời bằng sự tu
luyện đạo đức, tu luyện trí tuệ, thiền định (giới, định, tuệ). Nhờ đó, Phật giáo
đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin của đơng đảo quần chúng, trở
thành ngọn cờ đầu của phong trào cách tân tư tưởng và xã hội ở Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo ngun thủy có tư tưởng vơ thần luận, phủ nhận đấng sáng
thế (vơ tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường, thuyết duyên khởi...).
Phật giáo là tiếng nói chống chế độ phân biệt đẳng cấp, tố cáo bất cơng, địi tự
do và bình đẳng xã hội, nói lên khát vọng giải thốt của con người khỏi những

4



bi kịch của cuộc đời. Đồng thời, Phật giáo cũng nêu cao thiện tâm, từ bi, bác
ái như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện
tượng (vạn pháp) là ảo giả, huyễn hoặc và do cái tâm vô minh của con người
tạo ra. Trong cách giải quyết về sự đau khổ của con người, xem xét con người
trong tính nhân bản mà lại tách con người ra khỏi xã hội loài người, dẫn tới
nhị nguyên, càng về sau càng trở nên duy tâm thần bí.
1.2. Sự ra đời phái Nhất Thiết Hữu Bộ
Trong quá trình phát triển, Phật giáo đã phân chia thành nhiều bộ phái
khác nhau, do những nguyên nhân nội bộ nảy sinh và những nguyên nhân tác
động bên ngoài. Tuy nhiên, xét cho cùng, nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất
dẫn đến sự phân phái của Phật giáo, đó là sự thay đổi cuộc sống hiện thực xã
hội. Tư tưởng bao giờ cũng là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội. Khi thực
tiễn xã hội thay đổi, tất yếu tư tưởng cũng thay đổi cho phù hợp với hồn cảnh
cụ thể. Đó là quy luật khách quan. Cuộc sống xã hội Ấn Độ thay đổi, muốn
tồn tại, Phật giáo cũng phải thay đổi để thích nghi với hồn cảnh trong từng
giai đoạn cụ thể. Sự thay đổi thích nghi ấy, một mặt, tạo ra sự phát triển và
mặt khác, đã dẫn đến sự phân phái.
Trong hệ thống Thượng toạ bộ, đáng chú ý nhất phải kể đến phái Nhất
Thiết Hữu Bộ. Nhất Thiết Hữu Bộ do Ca Chiên Diên Tử sáng lập vào khoảng
thời gian 300 năm sau khi Đức Phật diệt độ. Nó chủ trương giáo nghĩa tuỳ vào
sự tiến triển của giáo lý Phật giáo nguyên thuỷ, lấy Luận tạng làm căn bản.
Đó là thuyết “Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu”, đối lập với Thượng toạ
bộ lấy Kinh tạng và giáo lý Phật giáo nguyên thuỷ làm căn bản, không thiên
trọng về Luật tạng và Luận tạng.
Tác phẩm quan trọng nhất của bộ này là Atìđạtmacâuxá luận (sa.
abhidharmakośa) của Thế Thân, Đại tìbàsa luận (sa.mahāvibhāṣā), một bộ


5


luận được biên soạn trong lần Kết tập tại Kashmir dưới sự chủ trì của Thế
Hữu (sa.vasumitra). Đại tìbàsa luận trình bày quan điểm chính thức của
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và là tác phẩm được hoàn tất cuối cùng trong bảy
tác phẩm của Luận tạng (sa.abhidharmapiṭaka, xem Atìđạtma). Một số tác
phẩm khác cần được nhắc tới là Atìđàm tâm luận (sa.abhidharmahṛdaya), là
bộ luận trung tâm của Atìđạtma với mười chương. Tìbàsa luận của Cachiên
diên tử cũng viết tổng quát về giáo lí bộ này. Tác phẩm Thế gian giả thiết
(sa.lokaprajđapti) trình bày quan điểm về sự hình thành thế giới đáng lưu ý.
Các quan điểm về giới luật được trình bày trong Tìnạidatìbàsa
(sa.vinayavibhāṣā).
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có tính đa nguyên, xuất phát từ sự phủ nhận
cái ngã (Vô ngã), một tính chất cá nhân hoặc linh hồn và thừa nhận những
đơn vị luân chuyển theo thời gian, được gọi là pháp. Bộ này cho rằng có 75
pháp, và cho đó là những đơn vị cuối cùng, khơng thể chia cắt (tương tự khái
niệm “nguyên tử” của Âu Châu thời thượng cổ) đều hiện hữu đồng thời. Chỉ
các pháp này là “có thật”. Họ phân biệt các pháp tuỳ thuộc, Hữu vi
(sa.saṃskṛta) và các pháp độc lập, Vô vi (sa.asaṃskṛta). Các pháp độc lập là
Hư không (sa. ākāśa), Niếtbàn vô trụ (sa. apratiṣṭhitanirvāṇa) và Niếtbàn
thường trụ (sa. pratiṣṭhitanirvāṇa). Các pháp hữu vi được chia làm bốn nhóm:
Sắc pháp (sa.rūpadharma), Tâm (Thức) pháp (sa.citta, vijñāna), các hoạt động
của những Tâm sở hữu pháp (sa.cetasikadharma) và Tâm bất tương ưng hành
pháp (sa.cittaviprayuktasaṃskāra) - các pháp không thuộc tâm không thuộc
vật như già, chết, Vô thường...
Các pháp hữu vi này - theo quan điểm của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ không phải từ đâu sinh ra mà ln ln đã có, chỉ đổi từ trạng thái tiềm tàng
qua hiện hữu. Vì quan điểm này mà Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có tên “Nhất
thiết hữu”, nghĩa là quá khứ vị lai đều được chứa trong một “pháp” duy nhất.
Trong Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, người ta cũng khám phá vài yếu tố nguyên


6


thuỷ của Đại thừa, như quan điểm Tam thân (sa. trikāya) và niềm tin nơi Bồ
Tát Dilặc, vị Phật tương lai.
II. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VÀ TRIẾT HỌC PHÁI NHẤT THIẾT
HỮU BỘ
2.1. Lịch sử tư tưởng phái Nhất Thiết Hữu Bộ
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (SarvŒstivŒdin) là một trong 20 phái của
Phật giáo Ấn độ, thuộc hệ tư tưởng của Thượng tọa bộ. Đứng từ góc độ lịch
sử tư tưởng Phật giáo Ấn độ mà nhìn, Nhất Thiết Hữu Bộ là phái xuất hiện
sau phái Độc Tử và Hoá Địa Bộ, không thể xuất hiện trước hai phái này, như
Thế Hữu (Vasumitra) đã ghi trong “Dị Bộ Tông Luân Luận”. Một chứng minh
cụ thể là, nội dung tác phẩm “Thức Thân Túc Luận” chủ yếu phản bác tư
tưởng của hai phái này, điều đó đồng nghĩa tư tưởng của hai phái này phải
xuất hiện trước, Hữu bộ mới không đồng tình, lấy đó làm đối tượng thảo luận.
Lịch sử tư tưởng phái Nhất Thiết Hữu Bộ được thể hiện trên một số nội
dung sau:
a) Phân chia pháp
Một số trường phái Phật giáo giải thích về vũ trụ, con người. Nhất
Thiết Hữu Bộ là một trong những trường phái này, đưa ra quan niệm về vũ
trụ, nhân sinh. Theo Nhất Thiết Hữu Bộ tất cả các pháp trong vũ trụ chia ra
làm hai loại chính: Hữu vi và Vơ vi. Pháp Hữu vi có 4 loại bao gồm 72 pháp.
Vơ vi có 3 pháp. Tổng cộng pháp Hữu vi và Vơ vi là 75 pháp.
- Hữu vi pháp: là các pháp sinh, diệt, đổi thay chịu sự tác động của vô
thường tức pháp đó do nguyên nhân, điều kiện tạo thành. Pháp Hữu vi chia
thành 4 nhóm:
(1) Sắc pháp: gồm 5 căn, 5 trần và một vơ biểu sắc. Trong đó vơ biểu
sắc có tính thiện hoặc bất thiện. Ví dụ: khi họ giới phát tâm làm điều thiện sẽ

cho quả thiện. Tuy khuynh hướng thiện ác khơng nhìn thấy nhưng nó tạo ra
quả thiện ác cho nên sếp nó thuộc về Sắc pháp.

7


(2) Tâm: Trọng tâm điều khiển các thức, lãnh đạo chức năng tinh thần.
(3) Tâm sở pháp: Đó là khía cạnh của trạng thái tâm thức. Tâm sở
nương vào tâm vương mà phát sinh ra các tính năng. Tâm sở được phân nhóm
thành 6 loại, bao gồm:
Một là, Đại địa pháp: Thọ, tưởng, tư, xúc, dục, tuệ, niệm, tác ý, thắng
giải, tam ma địa. 10 tâm này có cơng dụng rất lớn thông qua ba tâm thiện, ác
và vô ký.
Hai là, Đại thiện địa pháp: gồm có tín, cẩn, bất phóng dật, kinh an, xả,
tàm, q, vơ tham, vơ sân, bất hại.
Ba là, Đại phiền não địa pháp gồm: si, phóng dật, giả đãi, bất tín, hơn
trầm, trạo cứ.
Bốn là, Đại bất thiện địa pháp: vô tâm, vô quý.
Năm là, Tiểu phiền não não địa pháp gồm: phấn, phú, san, tật, lão, hại,
hận, siểm, cuống, kiêu.
Sáu là, Bất định địa pháp: tầm, tứ, miên, tham, san, mạn, nghi.
(4) Tâm bất tương ưng hành: các loại tâm này không tương ứng với tâm
vương nên gọi là tâm bất tương ứng hành, chúng cũng thuộc không về sắc,
thọ, tưởng, hành, thức. Bao gồm: đắc, phi đắc, mạng căn, đồng phận, vô
thường quả, diệt tạn định, sinh, trụ, diệt, danh thân, cú thân, văn thân.
- Vô vi pháp: là các pháp không đổi thay, không chướng ngại, phiền
não, không thuận tăng trưởng, xa lìa lệ phược. Gồm có 3 pháp:
+ Hư khơng vơ vi: tách của nó là khơng chương ngại.
+ Triệt diệt vơ vi: nhờ trí tuệ giảm trạch nên xa lìa được những phiền não.
+ Phi trạch diệt vô vi: pháp không sinh khởi do thiếu duyên. Rốt ráo

làm ngăn ngại các pháp sẽ sinh nên gọi là phi trạch diệt.
b) Thuyết Nhân quả
Mục đích mà các nhà Nhất Thiết Hữu Bộ thành lập thuyết 6 nhân 4
duyên nhằm giải thích nguyên tắc hình thành các pháp, phản bác quan điểm

8


tư tưởng cho rằng, khơng nhân khơng dun, hay nói đúng hơn các nhà Hữu
Bộ xác nhận thuyết 6 nhân 4 duyên là thật có. Nói một cách dễ hiểu hơn, theo
cái nhìn của các nhà Nhất Thiết Hữu Bộ, tất cả những hiện tượng trên thế giới
này chỉ là sự kết cấu của các cực vi. Thế thì ở đây vấn đề được đặt ra là, bằng
cách nào để nối kết giữa các cực vi ấy thành vật có thể thấy, nghe hay cảm
xúc được?. Câu trả lời của các nhà Nhất Thiết Hữu Bộ chính là do 6 nhân 4
duyên là học thuyết giải thích nghi vấn này. Học thuyết này được đề cập khá
phổ biến trong các luận của Nhất Thiết Hữu Bộ. Như trong “Đại Tỳ Bà Sa
Luận” đề cập thuyết này như sau: Trước tiên là thuyết 6 nhân. Ở đây, 6 nhân là:
1. “Tương ưng nhân” (samprayukta-hetu) là sự tương ưng giữa pháp
này với pháp khác. Ví dụ, con mắt tương ứng với sắc pháp, lỗ tai tương ứng
với âm thanh….;
2. “Câu hữu nhân” (sahabhu-hetu) hay còn gọi là “cọng hữu nhân”,
“cọng sanh nhân” là mối quan hệ giữa nhân và quả. Ví dụ trong quả có nhân,
trong nhân có quả;
3. “Đồng loại nhân” (sabhga-hetu) cị gọi là “tự phân nhân, tự chủng
nhân”, có nghĩa là tất cả pháp thuộc hữu lậu, từ quá khứ đến hiện tại có chung
một chủng loại, như thiện pháp tương ưng cùng thiện pháp, ác pháp tương
ưng với ác pháp, không thể tương ưng với thiện pháp;
4. “Biến hành nhân” (sarvatraga-hetu) là những nhân tố phổ biến. Như
mọi chúng sanh đều có phiền nào, phiền não là yếu tố phổ biến của chúng
sanh, như vậy phiền não là nhân tố phổ biến của mọi chúng sanh;

5. “Dị thục nhân” (vipŒka-hetu) chỉ cho những nhân tố chiu cảm thiện
ác nghiệp quả của 3 đời;
6. “Năng tác nhân” (kŒrana-hetu), còn gọi là “sở tác nhân, tùy tạo
nhân”, chỉ cho bản than của vật đó có khả năng sinh ra cái khác. Như đất có
khả năng sinh cỏ; con người có khả năng sanh suy tư… Đây là khái quát nội
dung và ý nghĩa của thuyết 6 nhân.

9


Có 4 dun:
1. Nhân dun;
2. Đẳng vơ gián dun;
3. Sở duyên duyên;
4. Tăng thượng duyên.
Ở đây, cái được gọi 4 duyên (catvara-pratyaya) là:
1. “Nhân duyên” (hetu-pratyaya), tức chỉ cho bản thân sự vật có khả
năng sinh ra cái khác. Ví dụ như hạt giống có khả năng sinh ra mầm cây. Như
vậy, hạt giống là nhân duyên của mầm cây;
2. “Đẳng vô gián duyên” (samanantara-pratyaya) là ám chỉ cho những
loại dun liên tục, khơng bị gián đoạn. Ví dụ như hít thở, ăn uống là điều
kiện trợ giúp cho sự sống con người, các duyên này liên tục có mặt khơng dứt
đoạn. Như vậy, hít thở, thức ăn uống là “đẳng vô gián duyên” của con người;
3. Sở duyên duyên (lambana-pratyaya), tức chỉ cho “pháp xứ” trong 12
xứ, vì nó là đối tượng nhận thức của ý thức;
4. “Tăng thượng duyên” (abhipati-pratyaya) chỉ cho các yếu tố trợ giúp
cho nhân phát triển. Ví dụ như các loại phân bón, nước, ánh sáng… là trợ
duyên cho sự trưởng thành của hạt giống, các trợ duyên này gọi là “Tăng
thượng duyên” [4, tr.278]. Đây là nội dung và ý nghĩa của thuyết 4 duyên.
Qua nội dung và ý nghĩa của thuyết 6 nhân 4 duyên, nó gợi ý cho

chúng ta thấy, các nhà Nhất Thiết Hữu Bộ thành lập học thuyết này nhằm
củng cố học thuyết của mình và lý giải sự hình thành các pháp ở thế gian, tức
là bằng những yếu tố nào các “cực vi” có thể kết hợp lại thành những hiện
tượng vật thể chúng ta có thể thấy nghe ngưởi nếm và cảm xúc được. Nếu
khơng có thuyết 6 nhân 4 duyên này, quan điểm cực vi của mình sẽ tồn tại
trong sự rời rạt, thế giới vật thể khơng do đâu mà có. Có thể nói, đây là một
trong những lý thuyết cơ bản của các nhà Nhất Thiết Hữu Bộ, nó là cơ sở lý
luận để thuyết minh lý thuyết “thật hữu” của mình. Các luận sư của phái này

10


khơng những chỉ có quan điểm: “Thể tánh của các pháp là thật có” mà cịn
cho rằng, thuyết 6 nhân 4 duyên này cũng thật có.
c) Thuyết Tam Thế Thật Hữu
Đây là học thuyết triết học căn bản của Nhất Thiết Hữu Bộ và cũng là
một trong những quan điểm triết học gây tranh luận nhất của trường phái này.
Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương tất cả các pháp hữu vi và vô vị đều tồn tại vĩnh
viễn trong ba đời: q khứ, hiện tại và vị lai, khơng có gián đoạn ví như làn
sóng có sinh diệt biến hóa nhưng thể tích của nước hằng hữu khơng thay đổi.
d) Thuyết Cực vi
Cực vi là đơn vị cực nhỏ không thể cắt xén, phá hoại, xỏ xuyên, lấy
bỏ… phân chia, cũng không thể dùng mắt thấy, dùng tai nghe. Cực vi tiêu
biểu cho một quan điểm số lượng của sự hiện hữu. Một cực pháp được hình
thành do vơ số phân vi tế này.
Có 3 loại Cực vi: vi tế, hữu hình và vi trần cực vi. Trong phẩm phân
biệt thế gian có nêu:
7 cực vi hợp thành một vị trần
7 vi trần hợp thành một kim trần
7 kim trần hợp thành một thủy trần

7 thủy trấn hp thành một thố mao đầu trần
7 thố mao đầu trần hợp thành một dương mao đầu trần
7 dương mao đầu trần hợp thành một ngưu mao đầu trần
Cứ như vậy mà chồng lên thành vạn vật.
e) Tư tưởng Giải thoát
Tu tập đạt được sự giải thốt là mục đích tối hậu của hành giả. Niết bàn
là trạng thái giải thoát, thoát khỏi các hệ lụy. Niết bàn là tự tách thanh tịnh,
bản thể chân thật, một trạng thái tâm lý an lạc, trạng thái thốt khỏi sự trói
buộc của các lậu hoặc. Niết bàn có thể được chia thành hai loại: 1) Hữu Dư y
biết bàn và 2) Vô dư y niết bàn.

11


Hữu Dư y niết bàn: loại niết bàn mà hàng giả có thể chứng đạt ngay
trong hiện tại khi đã đoạn trừ các lậu hoặc, phiền não được đoạn trừ và nhục
thể vẫn cịn.
Vơ dư y niết bàn: lậu hoặc, phiền não đã được đoại trừ và sắc thân của
hàng giả được xả bỏ.
2.2. Triết học phái Nhất Thiết Hữu bộ
* Qua niệm về bản thể luận
Theo quan điểm của phái Nhất Thiết Hữu Bộ: bản thể luận của vô vi
pháp đối với hệ Thượng Tọa Bộ có vẻ chơn chất nhưng hơi bảo thủ, và mang
hình thái Tiểu thừa; trong khi chủ đích chín vơ vi pháp của Ðại Chúng Bộ
phát triển xu hướng lý tưởng mang hình thái Ðại thừa. Còn với bốn phái thuộc
hệ Phân Biệt Thuyết, thì cả bốn phái này đều chịu ảnh hưởng tư tưởng Ðại
Chúng Bộ mà hình thành, sở dĩ Hóa Ðại Bộ tiến thêm một bước, đó là kiến
lập “ba tánh chơn như” và “bất động” (xem Hóa Ðịa Bộ ở tiết trước); Pháp
Tạng, Ẩm Quang, Ðồng Diệp, ba bộ này hoàn toàn tiếp thụ và giống với Ðại
Chúng Bộ; Án Ðạt La phái là phái sau rốt của Ðại Chúng Bộ nên chưa tiếp

thụ “thánh đạo” và “hư không” của Ðại Chúng Bộ, nhưng lại giống với Xá
Lợi Phất Tỳ Ðàm, đó là cải biến và tăng bổ “quyết trạch” và “pháp trụ”. Xá
Lợi Phất Tỳ Ðàm là thuộc về Thượng Tọa Bộ, nhưng những gì hiện cịn lại
khơng hợp với tư tưởng của Ðộc Tử Bộ, mà lại gần với hệ Phân Biệt Thuyết.
Vơ vi - bản thể nó vốn là một; Nhất Thiết Hữu Bộ do phải thích ứng với yêu
cầu thực tế nên phân ra chín tên gọi, thứ lớp của chín tên là: trạch diệt, phi
trạch diệt, hư không, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi
tưởng phi phi tưởng xứ, duyên khởi chi tánh, thánh đạo chi tánh [1, tr.298].
Nhất Thiết Hữu Bộ lấy pháp duyên khởi làm nguyên lý sinh khởi của
vạn pháp, và quán thông vạn pháp do giác ngộ pháp duyên khởi mà đạt đến
Niết bàn, đồng thời chỉ ra cảnh giới lý tưởng của Niết bàn; thánh đạo, ấy là

12


phép tắc nhờ đó đạt đến cảnh giới này. Ðây là tinh thần của chín vơ vi pháp
hiện vẫn cịn.
* Quan niệm về hiện tượng luận
Hiện tượng luận là sự quan sát những hoạt động của vạn hữu. Ðại
Chúng Bộ chủ trương “hiện tại hữu thể, quá khứ, vị lai vô thể”, trong khi
Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương “tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu”. Như
nói tam thế là gồm: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ðồng dạng với chủ trương này là
sự biến dịch của vạn hữu tùy vào ba vị trí: quá khứ, hiện tại và vị lai mà quan
sát. Ðại Chúng Bộ chỉ thừa nhận hiện tại là thực hữu, cịn q khứ thì đã qua
rồi, và vị lai thì chưa xuất hiện, nhân đó cho rằng quá khứ và vị lai là do được
suy định từ pháp hiện tại mà có. Với một sát na hiện tiền trước mắt, gọi đó là
pháp hiện tại, điều này cho thấy tính tồn tại chủ quan ở hiện tại. Quá khứ, vị
lai là pháp khách quan, nhưng không thể ly khai nhận thức chủ quan để tồn
tại. Vì thế mà nói “q khứ, vị lai là vơ thể, chỉ hiện tại mới hữu thể”. Ðấy là
nền tảng của tư tưởng “duyên khởi quan”. Tư tưởng này cho rằng việc tồn tại

của tam thế là khơng có thực tánh độc lập, vì là pháp hiện tại vĩnh viễn sẽ trở
thành quá khứ, nhưng cũng là tiến đến tương lai, tuy chỉ tạm trú trong quan
niệm ở sát na hiện tại. Do đó, nên gọi là “sắc pháp tạm trú”.
Theo Bộ Chấp Dị Luận Sớ thì: “thuyết của Bộ này cho rằng tất cả đều
có, nên nhân đó mà gọi tên”. Chủ yếu là do chủ trương “tam thế thực hữu,
pháp thể hằng hữu”. Có người cho rằng Nhất Thiết Hữu Bộ do chịu ảnh
hưởng phương pháp tư duy triết học của giới ngoại đạo để nhằm hoàn thành
hệ giáo lý. Có người nói “hữu” của Hữu Bộ là “hữu” của Thực tại luận. Có
người lấy “Thực hữu” “hằng hữu” của Nhất Thiết Hữu Bộ và cho rằng đó là
“vật chất (có khả năng) bất diệt” và “thế lực hằng tồn”. Có người lại cho rằng
“hữu” của Nhất Thiết Hữu Bộ là nền để khai triển giáo nghĩa nguyên thỉ ấy là
“chư hành vô thường”. Nhưng vô thường, vô ngã phải thông qua biểu hiện cụ
thể hoặc lâu dài. Quan niệm “thực hữu” này tương tự với khuynh hướng triết

13


học thực tồn (Existenti al philosophy) của thời nay. Vì “tam thế” là nội dung
của một sát na hiện tại. Quan niệm này được người ta ví von: “hiện tại mà quá
khứ là nhi nữ, và tương lai là phụ mẫu”, tuy dù một sát na hiện tại không phải
là quá khứ. Cũng chẳng phải tương lai, nhưng hiện tại là sự kế tục của quá
khứ và khởi đầu của vị lai. Vì vậy nên mới “tam thế thực hữu” tất cả mọi hiện
tượng, mọi sự việc đều chịu sự biến hóa sinh diệt trong một sát na, sát na
trước khác sát na sau; vô số “sự tượng” tại mỗi nhất sát na là không giống
nhau, như vậy chỉ một pháp (sự tượng) cũng đủ để kiến lập vô số pháp thể,
mỗi mỗi vô số pháp thể không pháp thể nào là không kinh qua quá khứ, hiện
tại và vị lai của tam thế. Tam thế chỉ là thực hữu, khi mỗi mỗi “pháp thể” tất
nhiên phải là “hằng hữu”. Nhưng một khi pháp thể làm cho “sắc” (sự tượng =
hiện tượng) có khả năng trở thành tự tướng của chính nó, mà như vậy thì tự
tướng ấy phải ln luôn lúc nào cũng xuất hiện ở hiện tại để tự làm đầy đủ

cho riêng mình. Vì thế pháp thể hằng hữu là chỉ cho giá trị tự tướng của mỗi
nhất sát na theo thứ lớp, chứ không phải là “thường hữu” theo thứ tự thời
gian. Pháp đã là vô thường thì tất nhiên cũng vơ ngã [2, tr.256].
Như vậy đủ thấy lập luận của Ðại Chúng Bộ đặt nền tảng trên duyên
khởi quan, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ lấy vô thường, vô ngã làm nền tảng để
phát triển, tuy lý niệm được khai xuất có bất đồng, nhưng cơ bản ban đầu đều
khởi từ di giáo của đức Phật.
* Quan niệm về tâm tính và hữu tính luận
Ðược gọi là Tâm tính, tức là nói đến bản chất, bản tính của tâm. Tâm ở
đây khơng phải là tâm phân biệt, hay nhục đoàn tâm (tim bằng máu thịt) trong
đời sống thường ngày, đối với bản tính của Tâm, Ðại Chúng Bộ chủ trương
“tâm tịnh thuyết” của “Tông luân luận Phát Nhận” (do Tiểu Sơn Hiến Kinh
biên soạn vào năm Minh Trị thứ 24). Trong đó nói: “tâm, tính vốn tịnh, do bị
khách trần tùy phiền não khiến cho nhiễm ô, làm tâm trở nên bất tịnh”. Chủ
thể của hữu tình chúng sanh là tâm, bản tính của tâm bản lai (xưa nay) là tịnh,

14


nhưng do bị phiền não có tính khách quan làm cho nhiễm ô, nhân đấy tâm trở
thành bất tịnh nên gọi là phàm phu. Thuyết “tâm tính bản tịnh” của Ðại
Chúng Bộ đứng trên lập trường Ðại thừa, và đây là điểm bất đồng giữa Tướng
tông và Tánh tông; nhưng thuyết “tâm tính bản tịnh” lại là tiền thân của tư
tưởng “chân như duyên khởi” về sau này, có khả năng tư tưởng tâm tánh bản
tịnh hoàn toàn thuộc tánh không luận khi cho rằng tất cả chúng sinh đều có
tính Phật. Ngồi ra, Ðại Chúng Bộ cịn có thuyết “tâm tự dun”. Luận Dị
Chấp Tơng Luận nói: “các hàng Dự lưu, tâm và tâm sở pháp của họ có thể liễu
triệt được tự tánh”. Dự lưu là thánh quả đầu tiên của các thánh quả thuộc Tiểu
thừa. Pháp mà tâm, tâm sở của hàng Dự lưu duyên đến được có khả năng liễu
triệt (biết thấu đáo mọi ngánh mé của pháp) bản tính của tự tâm. Ðây là điểm

nhất trí với “thuyết tâm tịnh” của Ðại Chúng Bộ. Thánh giả là người về lại với
tâm bản tịnh của mình. vì tâm có khả năng tự dun vào bản tính của chính
nó. Ðây cũng là điều gây tác dụng đến tâm Bồ tát của Ðại thừa về sau này.
Ðại Chúng Bộ cịn có thuyết “tùy miên” và “chủng tử”. Bộ này lấy tùy miên,
và “triền” mà chia phân ra; cho rằng tùy miên là chủng tử của tùy phiền não,
trong khi “triền” là sự hiện hành của phiền não. Chủng tử được coi là nhân tố
tiềm phục, còn hiện hành là sự thực được phát sinh. Chỉ riêng tư tưởng về
chủng tử đã là uyên nguyên của Duy thức học của Ðại thừa sau này.
Với Nhất Thiết Hữu Bộ có sự tương phản với Ðại Chúng Bộ, Nhất
Thiết Hữu Bộ cho rằng: tâm tính của nó xưa nay (bản lai) là bất tịnh, và rằng
tâm không thể tự duyên, đồng thời cũng coi tùy miên chính là phiền não.
Luận Thành Duy thức quyển ba, nói: “Trong A Cấp Ma (A Hàm) của Ðại
Chúng Bộ cũng mật ý đề cập đến tên gọi của căn bản thức, vì đó là thức mà
những thức như nhãn thức, nhĩ thức... lấy đó làm sở y”. Nói cách khác, căn
bản thức là sở y của sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt thân và ý thức. Căn bản thức
của Ðại Chúng Bộ với “phi tức phi ly uẩn ngã” của “bổ đặc già la” của Ðộc
Tử Bộ tương tợ giống nhau. Trong khi Hóa Ðịa Bộ nhân vào căn bản thức mà

15


lập thành “cùng sinh tử uẩn thức”. “Quả báo thức” của Chánh Lượng Bộ, “Tế
ý thức” của Kinh Lượng Bộ, hoặc “nhất vị uẩn” (chỉ Tế ý thức) tác dụng của
nó như nhau, thức này làm sở y của nghiệp và nghiệp dẫn sinh tử lưu chuyển.
Khi đến Phật giáo Ðại thừa, căn bản thức liền trở thành tư tưởng A Lại Da
thức. Thức A Lại Da của Ðại thừa, kỳ thực nó xuất xứ từ bộ phái Phật giáo.
Căn bản thức của Ðại Chúng Bộ sớm được nhen nhúm trong Thánh điển
ngun thỉ, vì mới chỉ nói đến cơng năng của đệ lục ý thức. Nhất Thiết Hữu
Bộ xem hữu tình chúng sinh là nền tảng của nguyên tắc vơ thường, vơ ngã, và
cho rằng hữu tình là sự giả hợp của năm uẩn. Ðây là thực tại luận mang tính

máy móc. Hữu Bộ quan sát sự sinh tử của hữu tình chúng sinh mà đưa ra
thuyết tứ hữu: sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Trong đó “trung hữu” là
linh thể sẽ đầu thai sau khi đã chết, vì quan niệm linh thể là một thứ vật
chất (sắc pháp) vi tế. Quan niệm trung hữu của Hữu Bộ không là sự tiếp thụ
của hệ Phân Biệt Thuyết thuộc Thượng Tọa Bộ.
Hữu tình là vơ ngã, nhưng trong sinh tử ln hồi mỗi hữu tình có
nghiệp lực riêng. Chính vì thế mà Nhất Thiết Hữu Bộ đặc biệt chú trọng đến
thuyết “nghiệp” trong các phân tích của họ. Nghiệp trong Thánh điển A Hàm,
nó là một thứ “ý chí” như nói: “nghiệp thị tứ” (nghiệp của tư duy, suy nghĩ).
Ðến Hữu Bộ lại đem nghiệp chia làm hai: là Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp. Tư
nghiệp là chỉ cho ý nghiệp, Tư dĩ nghiệp chỉ thân nghiệp và ngữ nghiệp. Lại
chia thân và ngữ nghiệp ra thành hai là: biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. “Thể”
của thân biểu nghiệp là “hình sắc”, “thể” của ngữ biểu nghiệp là”thanh ngôn”;
vô biểu nghiệp là dư thế của nghiệp. Dư thế của nghiệp là sự còn lại đối với
hành vi hay quán tính, hoặc sức ảnh hưởng của tâm, nên ý nghiệp không phải
lập thêm vô biểu nghiệp [3, tr.189].
Phái Nhất Thiết Hữu Bộ đặc biệt coi trọng việc phân tích ngoại biểu
nghiệp. Do biểu nghiệp mà hình thành vơ biểu nghiệp, rồi do sự tương tục của
vô biểu nghiệp dẫn đến chiêu cảm quả báo khổ, lạc trong tương lai. Mục đích

16


lập vô biểu nghiệp của Hữu Bộ là để bổ trợ biểu nghiệp (sắc pháp) chưa tròn
trách nhiệm; ngay ý tưởng trong tâm chúng ta, khi nó chưa được biểu hiện
qua hành vi của thân, của ngữ, thì bất luận ý tưởng ấy là gì nó cũng khơng ảnh
hưởng gì nhiều đến tâm tánh của chúng ta. Lối thiên trọng ngoại biểu nghiệp
kiểu như thế này, và coi nhẹ quan niệm tư nghiệp, đây là điều không phù hợp
với quan điểm “nghiệp thị tư” của Phật giáo nguyên thỉ. Ðồng thời, cũng
khơng có cách nào để tiếp thơng với Bồ tát của Ðại thừa Phật giáo, vốn lấy ý

nghiệp làm trọng.

17


KẾT LUẬN
Phái Nhất Thiết Hữu Bộ - là một phái trong Phật giáo Ấn Độ và có ảnh
hưởng to lớn đến sự phát triển của Phật giáo nói chung. Về lịch sử tư tưởng và
triết học của phái có nhiều điểm mâu thuẫn với tư tưởng duyên khởi, vô
thường, vô ngã của đức Phật. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng và triết học phái
Nhất Thiết Hữu Bộ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những quan điểm của Phật giáo,
cũng như thấy được vị trí của phái Nhất Thiết Hữu Bộ trong kho tàng lý luận,
tư tưởng phong phú của Phật giáo.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn anh Tuấn, Đại cương lịch
sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 2006.
2. Dị Bộ Tông Luân Luận (Dị Bộ), Nxb Tôn giáo, 2012.
3. Trường bộ Kinh, Trung bộ Kinh, Tăng chi bộ Kinh, Tiểu bộ
Kinh (Đại tạng Kinh Việt Nam), Nxb Tôn giáo, 2001.
4. Kinh Trường A Hàm, Trung A hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A
hàm ( Đại tạng Kinh Việt Nam), Nxb Tôn giáo, 2001.
5. Tiểu bộ kinh, tập 1, Nxb Tôn giáo, 2005. tr.458.

19




×