Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chất lượng giấc ngủ và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.85 KB, 8 trang )

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2

CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
DANH NGHĨA THIỀN MƠN1, KIM XN LOAN2
TĨM TẮT
Mục tiêu: Giấc ngủ đóng vai trị quan trọng đến sức khỏe của mỗi người. Đối với bệnh nhân ung thư
vú, chất lượng giấc ngủ (CLGN) kém làm giảm chất lượng cuộc sống, liên quan đến kết quả điều trị thậm
chí làm tăng nguy cơ tử vong. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên thế giới cho thấy CLGN kém đang trở nên
phổ biến ở bệnh nhân ung thư vú, tỷ lệ này dao động 30 - 66%. Chính vì vậy, nghiên cứu được tiến hành
nhằm xác định tỷ lệ CLGN kém và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu
TP. HCM với mong muốn cải thiện CLGN cũng như chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư vú.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 105 bệnh nhân ung thư
vú từ giai đoạn I đến giai đoạn III đang điều trị ở các khoa Nội 4, Ngoại 4, Xạ 4 tại bệnh viện Ung Bướu
Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu chọn mẫu toàn bộ, sử dụng thang đo PSQI để đánh giá CLGN
(điểm PSQI > 5 cho CLGN kém).
Kết quả: Tỷ lệ CLGN kém ở bệnh nhân ung thư vú là 79,1%. Có mối liên quan giữa CLGN với chức
năng gia đình, tình trạng lo âu và trầm cảm.
Từ khóa: Chất lượng giấc ngủ, ung thư vú, PSQI, Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Giấc ngủ đóng một vai trị vơ cùng quan trọng
đối với sức khỏe đó là khoảng thời gian để hồi phục
chức năng các hệ cơ quan đặc biệt là não bộ. Một
giấc ngủ có chất lượng kém mang lại nhiều tác động
tiêu cực như trạng thái mệt mỏi, giảm khả năng làm
việc, suy giảm trí nhớ mà tình trạng kéo dài có thể
làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mãn tính như tim
mạch, chuyển hóa, thần kinh[6]. Do đó, đo lường giấc


ngủ và các tác động của nó lên sức khỏe ln được
nhiều nhà khoa học quan tâm đặc biệt đối với những
bệnh nhân đã và đang mắc các bệnh mãn tính nói
chung, trong đó có bệnh nhân ung thư vú.
Đối với bệnh nhân ung thư vú chất lượng giấc
ngủ kém ảnh hưởng đến kết quả điều trị thậm chí
làm tăng nguy cơ tử vong. Một số nghiên cứu trước
đây đã chỉ ra chất lượng giấc ngủ kém có liên quan
Địa chỉ liên hệ: Danh Nghĩa Thiền Môn
Email:
1
2

Sinh viên Y học dự phòng Đại học Y Dược TP. HCM
Giảng viên Bộ môn Dịch tễ Đại học Y Dược TP. HCM

370

đến sự phát triển của khối u, làm gia tăng gánh nặng
một số triệu chứng như tăng nguy cơ trầm trọng của
cơn đau, tăng nguy cơ triệu chứng buồn nôn và nôn
do hóa trị, góp phần vào triệu chứng mệt mỏi ban
ngày trong bệnh ung thư và dẫn đến giảm chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân[6,8,11]. Một phân tích
tổng hợp cịn cho thấy những người có chất lượng
giấc ngủ kém có nguy cơ tử vong cao hơn 12% so
với những người khác ngủ đủ 7h đến 8h mỗi đêm[4].
Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho
thấy rối loạn giấc ngủ đang phổ biến ở bệnh nhân
ung thư vú. Thống kê trên thế giới cho thấy tỷ lệ

mất ngủ ở bệnh nhân ung thư vú dao động từ
30 - 66%[2,9,10]. Tình trạng mất ngủ xảy ra sau khi
chẩn đoán ung thư vú và trở nên trầm trọng hơn khi
bước vào điều trị[11]. Trong 61% bệnh nhân ung thư
vú có chất lượng giấc ngủ kém thì 59% cho biết họ
đã sử dụng thuốc cho giấc ngủ trong tháng qua với
Ngày nhận bài: 1/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
30% đã sử dụng thuốc ngủ ít nhất ba lần mỗi tuần
trong một tháng qua[3]. Nhiều nghiên cứu ở các quốc
gia đã tiến hành đánh giá những yếu tố có liên quan
đến chất lượng giấc ngủ trên bệnh nhân ung thư vú
với mong muốn có thể cải thiện CLGN cũng như
chất lượng cuộc sống[3,7,12]. Tại Việt Nam, một
nghiên cứu tại tỉnh Hải Dương (2018) cho thấy tỷ lệ
bệnh nhân ung thư nói chung bị rối loạn giấc ngủ
khá cao tới 83,7%[1], còn trên bệnh nhân ung thư vú
chưa tìm thấy nghiên cứu cơng bố tỷ lệ này. Chính vì
vậy, nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ
bệnh nhân ung thư vú có chất lượng giấc ngủ kém
và các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ như
đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội, tình trạng bệnh,
chức năng gia đình, lo lâu, trầm cảm bệnh viện.
Nghiên cứu sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu sâu hơn
về vấn đề này, hướng đến điều trị về rối loạn giấc

ngủ, giảm thiểu yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ
tử vong.
Bệnh viện Ung Bướu T. HCM là một trong
những bệnh viện lớn chuyên về điều trị ung thư tại
miền nam Việt Nam. Mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận
một lượng đông bệnh nhân đến khám và điều trị nên
phù hợp để tiến hành nghiên cứu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bệnh nhân đủ 18 tuổi.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra
Bệnh nhân mắc ung thư giai đoạn IV.
Bệnh nhân được chẩn đốn rối loạn trầm cảm
trong vịng 1 tháng trở lại đây.
Bệnh nhân có khó khăn đáng kể trong giao tiếp
như khiếm thính, bệnh nhân khơng thể hợp tác trả
lời hoặc khơng có khả năng tự chăm sóc bản thân
sẽ không được mời tham gia nghiên cứu.
Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu toàn bộ
dựa trên tỷ lệ phân tầng theo mỗi khoa gồm Nội 4,
Xạ 4, Ngoại 4.
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn trực
tiếp mặt đối mặt.
Xử lý số liệu: Nhập liệu bằng Epidata 3.1 và
phân tích bằng Stata 14.2.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Phân loại chất lượng giấc ngủ


Đối tượng

Đặc điểm

Bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh
viện Ung Bướu TP. HCM trong thời gian nghiên cứu
từ tháng 4/2020 đến tháng 6/2020.

Tần số

Tỷ lệ (%)

Kém

83

79,1

Tốt

22

20,9

Phân loại chất lượng giấc ngủ

Cỡ mẫu: 105 người.
Tiêu chuẩn chọn vào
Những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư và

đang điều trị tại bệnh viện Ung Bướu trong thời gian
nghiên cứu.
Các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ
Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội.

Bảng 2. Mối liên quan giữa CLGN và đăc điểm dân số - kinh tế - xã hội
Đặc điểm

Chất lượng giấc ngủ
Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

≤ 50 tuổi

36 (76,6)

11 (23,4)

> 50 tuổi

47 (81,0)

11 (19,0)

TP. HCM

12 (63,2)

7 (36,8)


Nơi khác

71 (82,6)

15 (17,4)

Giá trị p

PR (KTC 95%)

0,578c

1

Nhóm tuổi
1,06 (0,87 - 1,29)

Nơi sống
0,115f

1
1,31 (0,91 - 1,87)

371


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Tơn giáo

Có tơn giáo

67 (78,8)

18 (21,2)

Không theo tôn giáo

16 (80,0)

4 (20,0)

Từ cấp 2 trở xuống

71 (80,7)

17 (19,3)

Từ cấp 3 trở lên

12 (70,6)

5 (29,4)

Công việc ổn định

63 (81,8)

14 (18,2)


Công việc không ổn định

20 (71,4)

8 (28,6)

Đủ sống

48 (77,4)

14 (22,6)

Không đủ sống

35 (81,4)

8 (18,6)

1,000f

1
0,99 (0,77 - 1,26)

Trình độ học vấn
0,344f

0,87 (0,63 - 1,21)
1

Nghề nghiệp

0,247c

0,87 (0,68 - 1,13)
1

Kinh tế

c

0,623c

1
0,95 (0,78 – 1,16)

f

: Kiểm định chi khuynh hướng

:Kiểm định chính xác Fisher

Bảng 2 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đăc điểm dân số - kinh tế - xã hội
Chất lượng giấc ngủ

Đặc điểm

Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

Một phần


66 (79,5)

17 (20,5)

BHYT toàn bộ

17 (77,3)

5 (22,7)

Đã kết hôn

66 (79,5)

17 (20,5)

Độc thân/ Ly thân/ Ly dị/ Góa

17 (77,3)

5 (22,7)

80 (78,4)

22 (21,6)

3 (100)

0 (0,0)


Giá trị p

PR (KTC 95%)

0,824

0,97 (0,75 – 1,125)

Chi trả BHYT
1

Hơn nhân
0,776f

0,97 (0,76 – 1,25)
1

Tình trạng sống chung
Có sống chung
Khơng sống chung

1,000f

1
0,78 (0,71 – 0,87)

Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh
Bảng 3. Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh
Đặc điểm


Chất lượng giấc ngủ
Kém (%) (n = 83)

Giá trị p

Tốt (%) (n=22)

PR (KTC 95%)

Hình thức điều trị
Ngoại trú

< 0,001**

1

80 (78,4)

22 (21,6)

3 (100)

0 (0,0)

Giảm cân

34 (79,1)

9 (20,9)


Không đổi

30 (76,9)

9 (23,1)

1

1

Tăng cân

19 (82,6)

4 (17,4)

0,585

1,07 (0,83 - 1,39)

< 1 năm

47 (78,3)

13 (21,7)

1 -< 3 năm

25 (73,5)


9 (26,5)

Nội trú

1,28 (1,15 - 1,41)

Mức độ thay đổi cân nặng
0,816

1,03 (0,82 - 1,30)

Khoảng thời gian mắc bệnh

372

1
0,609

0,94 (0,74 - 1,20)


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
≥ 3 năm

11 (100)

< 0,001**


0 (0,0)

1,28 (1,12 - 1,46)

Bảng 3 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh
Chất lượng giấc ngủ

Đặc điểm

Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

5 (83,3)

1 (16,7)

Giá trị p

PR (KTC 95%)

0,490

1,16 (0,76 - 1,77)

Giai đoạn bệnh hiện tại
Giai đoạn IA
Giai đoạn IB

0 (0,0)


0 (0,0)

Giai đoạn IIA

23 (71,9)

9 (28,1)

Giai đoạn IIB

14 (77,8)

4 (22,2)

0,639

1,08 (0,78 - 1,51)

Giai đoạn IIIA

15 (88,2)

2 (11,8)

0,150

1,23 (0,93 - 1,62)

Giai đoạn IIIB


16 (72,7)

6 (27,3)

0,945

1,01 (0,72 - 1,42)

Giai đoạn IIIC

5 (100)

0 (0,0)

0,003*

1,39 (1,12 - 1,73)

Không rõ/chưa xác định

5 (100)

0 (0,0)

0,003*

1,39 (1,12 - 1,73)

79 (78,2)


22 (21,8)

0,577f

1

4 (100)

0 (0,0)



6 (85,7)

1 (14,3)

Khơng

77 (78,6)

21 (21,4)



21 (75,0)

7 (25)

Khơng


62 (80,5)

15 (19,5)



21 (72,4)

8 (27,6)

Khơng

62 (81,6)

14 (18,4)

1

Tái phát
Chưa tái phát
Có tái phát

1,28 (1,15 - 1,42)

Phương pháp điều trị
Phẫu thuật
0,595

1,09 (0,79 - 1,50)

1

Hóa trị
0,565

1,07 (0,84 - 1,37)
1

Xạ trị
0,350

0,89 (0,69 - 1,14)
1

Nhắm trúng đích


5 (100)

0 (0,0)

78 (78,0)

22 (22,0)

Khơng

44 (77,2)

13 (22,8)




39 (81,2)

9 (18,8)

Khơng

0,581f

1,28 (1,16 - 1,42)
1

Bệnh kèm

*: p < 0,05

**: p < 0,001

0,611c

1
1,05 (0,87 - 1,28)

f

: Kiểm định chính xác Fisher

Bảng 3 (tt). Mối liên quan giữa CLGN và đặc điểm tình trạng bệnh

Đặc điểm

Chất lượng giấc ngủ
Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

Giá trị p

PR (KTC 95%)

Bệnh lý đi kèm
Tăng huyết áp

373


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Khơng

25 (86,2)

4 (13,8)

0,451f

1




14 (73,7)

5 (26,3)

Khơng

28 (77,8)

8 (22,2)



11 (91,7)

1 (8,3)

Khơng

32 (84,2)

6 (15,8)



7 (70,0)

3 (30,0)

30 (76,9)


9 (23,1)

9 (100)

0 (0,0)

35 (79,6)

9 (20,5)

4 (100)

0 (0,0)

38 (80,9)

9 (19,2)

1 (100)

0 (0,0)

1,24 (1,08 – 1,42)

1 bệnh

28 (82,4)

6 (17,7)


1

2 bệnh

8 (72,7)

3 (27,3)

0,541

0,88 (0,59 – 1,31)

≥ 3 bệnh

3 (100)

0 (0,0)

0,016*

1,21 (1,04 – 1,42)

0,85 (0,63 – 1,16)

Bệnh gan
0,416f

1
1,18 (0,92 – 1,50)


Bệnh đái tháo đường
0,370f

1
0,83 (0,54 – 1,28)

Bệnh dạ dày
Khơng


1

0,176f

1,3 (1,09 – 1,54)

Bệnh tim mạch
Khơng


1

1,000f

1,26 (108 – 1,46)

Bệnh thận
Khơng



1000f

1

Số lượng bệnh đi kèm

Mối liên quan giữa CLGN và sự hỗ trợ gia đình
Bảng 4. Mối liên quan giữa CLGN và sự hỗ trợ gia đình
Đặc điểm

Chất lượng giấc ngủ
Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

9 (100)

0 (0,0)

Giá trị p

PR (KTC 95%)

< 0,001

1,35 (1,18 - 1,55)

Phân loại nhóm APGAR
Khơng gắn kết

Gắn kết khơng tốt

20 (87,0)

3 (13,0)

1,18 (0,95 - 1,45)

Gắn kết tốt

54 (74,0)

19 (26,0)

1

Mối liên quan giữa CLGN và lo âu, trầm cảm
Bảng 5. Mối liên quan giữa CLGN và trầm cảm
Đặc điểm

Chất lượng giấc ngủ
Kém (%) (n = 83)

Tốt (%) (n = 22)

Không

67 (75,3)

22 (24,7)


Có trầm cảm

16 (100)

0 (0,0)

69 (75,8)

22 (24,2)

Giá trị p

PR (KTC 95%)

Trầm cảm bệnh viện
0,021f

1
1,33 (1,18 - 1,50)

Lo âu bệnh viện
Không

374

0,038f

1



Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
Có trầm cảm

14 (100)

1,32 (1,17 - 1,48)

0 (0,0)

f:

Kiểm định chính xác Fisher

Các yếu tố liên quan đến CLGN theo mơ hình hồi quy Poisson đa biến
Bảng 6. Các yếu tố liên quan đến CLGN theo mơ hình hồi quy Poisson đa biến (n = 105)
Đặc điểm

Pthô

PRthô (KTC 95%thô)

Giá trị Phc

PRhc (KTC 95%hc)

< 0,001

1,35 (1,18 - 1,55)


0,005

1,23 (1,07 - 1,43)

Phân loại nhóm APGAR
Khơng gắn kết
Gắn kết không tốt

1,18 (0,95 - 1,45)

1,12 (0,91 - 1,38)

1

1

Gắn kết tốt
Trầm cảm
Có trầm cảm

0,021

1,33 (1,18 - 1,50)

0,001

1,19 (1,07 - 1,32)

0,038


1,32 (1,17 - 1,48)

0,001

1,20 (1,08 - 1,34)

Lo âu
Có lo âu

Phc: giá trị p hiệu chỉnh

BÀN LUẬN
Nghiên cứu tìm thấy tỷ lệ CLGN kém ở bệnh
nhân ung thư vú khá cao là 79,1%. Tỷ lệ này thấp
hơn so với ghi nhận tình trạng rối loạn giấc ngủ ở
bệnh nhân ung thư nói chung là 83,7%[1]. Hầu hết
các nghiên cứu ở các quốc gia khác cùng trên bệnh
nhân ung thư vú có tỷ lệ thấp hơn. Điều này có hiểu
rằng trong nghiên cứu, CLGN được đánh giá trong
vòng một tháng trước nên có thể xảy ra sai lệch hồi
tưởng. Ngồi ra sự khác biệt có thể do sự khác nhau
về thang đo sử dụng, thời điểm đánh giá, đối tượng
và các đặc điểm kinh tế - xã hội, tình trạng bệnh
cũng có thể liên quan đến CLGN.
Kết quả phân tích đáng chú ý là có tìm thấy mối
liên quan có tính khuynh hướng giữa CLGN và sự
gắn kết gia đình. Cụ thể rằng cứ mức độ gắn kết gia
đình giảm xuống một mức thì tỷ lệ CLGN kém tăng
lên 1,12 lần với Phc=0,005 và KTC 95% là 0,91 –

1,38. Kết quả của nghiên cứu phù hợp với một số
nghiên cứu trước đây tìm thấy mối liên quan giữa
chức năng gia đình và CLGN trên những đối tượng
khác nhau như thanh thiếu niên, người trưởng
thành[12-14].
Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu tại Đan Mạch
(2011) cho thấy lo âu, trầm cảm liên quan đến khó
ngủ đáng kể, sự gia tăng của một đơn vị trong sự lo
lắng, trầm cảm lần lượt tương ứng với sự gia tăng
4,1% và 13,5% về tỷ lệ khó ngủ[5]. Tương tự, kết quả
của nghiên cứu cũng tìm thấy có mối liên quan quan
giữa trầm cảm, lo âu và CLGN, cụ thể là những đối
tượng bị trầm cảm, lo âu lần lượt có CLGN kém cao

PRhc: giá trị PR hiệu chỉnh

gấp 1,19 và 1,20 lần so với những đối tượng không
bị trầm cảm.
KẾT LUẬN
Chất lượng giấc ngủ kém khá phổ biến ở bệnh
nhân ung thư vú đang điều trị tại bệnh viện Ung
Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Những yếu tố liên
quan là chức năng gia đình và tình trạng lo âu, trầm
cảm. Chính vì vậy, bệnh viện cần phát triển-sàng lọc
định kỳ về rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân ung thư vú
trong quá trình điều trị, đặc biệt đối với những bệnh
nhân có dấu hiệu trầm cảm hoặc lo âu, với mục đích
giảm thiểu gánh nặng bệnh tật cho bệnh nhân. Gia
đình cũng cần quan tâm, chia sẻ, hỗ trợ về mặt tinh
thần cũng như tài chính giúp bệnh nhân có thể giải

tỏa những lo âu, căng thẳng vì những yếu tố này có
ảnh hưởng đến CLGN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Múi, Trần Văn Lưu, Phạm Thị Thu
Hương, Nguyễn Bá Tâm (2018) "Thực trạng rối
loạn giấc ngủ của người bệnh nhân ung thư điều
trị nội trú tại Hải Dương năm 2018". Tạp chí
khoa học điều dưỡng, 1 (2)
2. J. Savard, S. Simard, J. Blanchet, H. Ivers, C. M.
Morin
(2001)
"Prevalence,
clinical
characteristics, and risk factors for insomnia in
the context of breast cancer". Sleep, 24 (5), 58390.
3. B. V. Fortner, E. J. Stepanski, S. C. Wang, S.
Kasprowicz, H. H. Durrence (2002) "Sleep and

375


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2
quality of life in breast cancer patients". J Pain
Symptom Manage, 24 (5), 471-80.
4. F. P. Cappuccio, L. D'Elia, P. Strazzullo, M. A.
Miller (2010) "Sleep duration and all-cause
mortality: a systematic review and meta-analysis
of prospective studies". Sleep, 33 (5), 585-92.
5. S. L. Beck, A. M. Berger, A. M. Barsevick, B.

Wong, K. A. Stewart, W. N. Dudley (2010)
"Sleep quality after initial chemotherapy for
breast cancer". Support Care Cancer, 18 (6),
679-89.
6. O. M. Buxton, S. W. Cain, S. P. O'Connor, J. H.
Porter, J. F. Duffy, W. Wang, et al. (2012)
"Adverse metabolic consequences in humans of
prolonged sleep restriction combined with
circadian disruption". Sci Transl Med, 4 (129),
129ra43.
7. S. Ancoli-Israel, L. Liu, M. Rissling, L. Natarajan,
A. B. Neikrug, B. W. Palmer, et al. (2014) "Sleep,
fatigue, depression, and circadian activity
rhythms in women with breast cancer before and
after treatment: a 1-year longitudinal study".
Support Care Cancer, 22 (9), 2535-45.
8. D. Jung, K. M. Lee, W. H. Kim, J. Y. Lee, T. Y.
Kim, S. A. Im, et al. (2016) "Longitudinal
Association of Poor Sleep Quality With
Chemotherapy-Induced Nausea and Vomiting in
Patients With Breast Cancer". Psychosom Med,
78 (8), 959-965.

376

9. T. C. Mansano-Schlosser, M. F. Ceolim (2017)
"Association between poor clinical prognosis and
sleep duration among breast cancer patients".
Rev Lat Am Enfermagem, 25, e2899.
10. T. C. Mansano-Schlosser, M. F. Ceolim, T. D.

Valerio (2017) "Poor sleep quality, depression
and hope before breast cancer surgery". Appl
Nurs Res, 34, 7-11.
11. R. Fakih, M. Rahal, L. Hilal, L. Hamieh, M. Dany,
S. Karam, et al. (2018) "Prevalence and Severity
of Sleep Disturbances among Patients with Early
Breast Cancer". Indian J Palliat Care, 24 (1), 3538.
12. Arthur Mesas, Paul Peppard, Lauren Hale, Elliot
Friedman, F. Nieto, Erika Hagen (2019)
"Individuals' perceptions of social support from
family and friends are associated with lower risk
of sleep complaints and short sleep duration".
Sleep Health, 6
13. L. Y. Chang, C. C. Wu, L. L. Yen, H. Y. Chang
(2019) "The effects of family dysfunction
trajectories during childhood and early
adolescence on sleep quality during late
adolescence: Resilience as a mediator". Soc Sci
Med, 222, 162-170.
14. K. Liu, T. Yin, Q. Shen (2020) "Relationships
between sleep quality, mindfulness and workfamily conflict in Chinese nurses: A crosssectional study". Appl Nurs Res, 151250.


Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2

SUMMARY
Objective: Sleep plays an important role in everyone's health. For breast cancer patients, poor sleep
quality of life reduces the quality of life, is associated with treatment outcomes, and even increases the risk of
death. However, studies around the world show that poor sleep quality is becoming more common in breast

cancer patients, this rate ranges from 30 - 66%. Therefore, the studies were conducted to determine the poor
sleep quality rate and related factors in breast cancer patients at Chi Minh City Oncology nospital. with the
desire to improve sleep quality as well as the quality of life of cancer patients
Method: Cross-sectional study describes over 105 breast cancer patients from stage I to stage III who are
being treated in the departments of Internal 4, Surgery 4, Radiation 4 at Ho Chi Minh Ccity Oncology hospital.
Overall sampling study, using the PSQI scale to assess sleep quality (PSQI score>5 mean poor quality).
Results: The rate of poor quality control in breast cancer patients is 79.1%. There is a relationship between
the sleep quality and family function, anxiety and depression.
Keyword: Sleep Quality, Breast Cancer, PSQI, Ho Chi Minh city Oncology hospital.

377



×