CHIẾC LƯỢC NGÀ
-Nguyễn Quang SángĐề bài 1: Cảm nhận về bé Thu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà ( Nguyễn
Quang Sáng)
A. MB:
Cách 1: Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh
đất Thành đồng cùng những người con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của
ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hịa
bình. Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra
quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người
cán bộ Cách mạng – cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng
như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn
tượng.
Cách 2:
An – đéc – xen , tác giả của những câu chuyện cổ tích nổi tiếng gắn với tuổi thơ
của bao thế hệ trên khắp thế giới đã từng viết: Khơng có câu chuyện cổ tích nào
đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết lên”. Có thể nói, cuộc kháng chiến
chống Mĩ của dân tộc đã đi qua nhưng có biết bao những câu chuyện đã trở thành
huyền thoại được ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy ta
khơng thể bỏ qua “ Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm
tựa như một câu chuyện cổ tích, một bài ca về tình phụ tử mãi thổn thức lịng
người. Trong đó hình ảnh bé Thu với tình thương cha vừa bướng bỉnh vừa mãnh
liệt đã để lại bao ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
II.Thân bài:
1.Khái quát (Dẫn dắt vào bài):
- Hoàn cảnh của bé Thu:
Bé Thu trong câu chuyện cũng như bao cô bé miền Nam khácđều thiếu thốn tình
cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu lên đường nhập ngũ, Thu chưa đầy
một tuổi. Tám năm trời cha con em chỉ biết nhìn nhau qua hai tấm ảnh. Lần về
phép ba ngày của anh sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau. Nhưng
nhà vawnlaij đặt bé Thu vào một cảnh ngộ thật éo le: vì sự hiểu lầm trẻ con, Thu đã
không nhận anh Sáu là ba. Đến khi nhận ra thì cũng là lúc ba emleen đường tập
kết. Lần gặp mặt ấy cũng là lần gặp gỡ đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con
em.
Song cũng từ trong cảnh ngộ éo le, người đọc càng cảm nhận rõ nét cá tính riêng
của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt
có tình thương cha sâu sắc, mãnh liệt. Tình thương ấy được thể hiện trong hai hoàn
cảnh trái ngược trước và sau khi em nhận ra ba.
* Phân tích:
- Luận điểm 1: Bé Thu là cơ bé có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi đến ương ngạnh
a. Luận cứ 1: Cá tính đó được thể hiện trước hết qua thái độ và hành động
của Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha.
*Khi mới gặp ông Sáu:
- Phút đầu tiên hai cha gặp mặt trái với sự mong nhớ sốt ruột và suy nghĩ của anh
Sáu , bé Thu lại:
+ Giật mình, trịn mắt nhìn... ngơ ngác, lạnh lùng
+ Thấy lạ, nó chớp mắt... mặt tái đi vụt chạy kêu thét:" Má Má". Đó là những biể
hiện của một sự ngạc nhiên, bất ngờ,đến sợ hãi, hốt hoảng khiến mặt con bé tái
đi.
=>Thái độ đó của Thu cũng thật dễ hiểu bởi từ nhỏ cho đến lúc 8 tuổi con bé chưa
được nhìn mặt cha. Vậy mà giờ đây đứng trước nó là một người đàn ơng xa lạ tự
nhận là cha nó. Và trên má của người đàn ơng đó lại có một vết sẹo dài đàng đỏ
ửng lên giần giật làm sao mà con bé không khỏi ngạc nhiên bất ngờ và sợ hãi.
=> Tâm lý sợ hãi đó được nhà văn miêu tả bằng tiếng kêu thét gọi mẹ. Đó là phản
ứng hết sức tự nhiên. Em như một chú gà con đang tìm đến mẹ khi cảm thấy mối
đe dọa đến với mình. Tiếng kêu của em và hành động vụt chạy đi đã gây cho người
đọc sự xúc động cảm thương cho anh Sáu. “ nhìn theo con nỗi đau đớn khiến mặt
anh sầm lại và trong thật đnags thương, hai cánh tay buông thõng như bị gãy.” Đó
chính là nghịch lý tớ trêu cho người cha. Một sự lạ lẫm ngiwx ngàng của đúa con
được nhà văn miêu tả thật sinh động, kích tích sự tò mò hứng thú để người đọc
theo dõi tiếp diễn biến câu chuyện.
b. Luận cứ 2: Cá tính đó được thể hiện trong những ngày ông Sáu ở nhà:
- Trong khi ba ngày ở nhà ông Sáu không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, bù
đắp sự thiếu vắng tình cha trong con trong suốt 8 nuawm qua thì bé thu lại tỏ ra
cứng đàu, khơng chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng ba dù chỉ một
lần.
- Nhà văn đã khéo léo xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí thái độ rát
trẻ con cố chấp của bé Thu:
+ Khi má bắt vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ gọi
trống không, khơng chịu gọi ba.
+ Vơ ăn cơm.
+ Cơm chín rồi.
+ Con kêu rồi mà người ta không nghe.
Hai tiếng người ta đầy xa cách mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lịng đến mức
khơng khóc được anh chỉ khe khẽ lắc đầu cười. Tiếng cười mà nghe sao thật chua
xót, bất lực của một người cha bị con mình từ chối khơng nhận nghay từ giây phút
đầu gặp mặt.
- Thậm chí ngay cả khi bị má đặt vào một hồn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh
Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sơi, Thu cũng lại nói trống khơng.
“Cơm sơi rồi chắt nước giùm cái”.Sự im lặng của anh Sáu và cả những gowijys
của bác ba cũng không làm cô bé gọi tiếng ba đơn sơ giản dị- tiếng gọi mà mỗi
đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.
-Đỉnh điểm của sự kiên quyết không chịu nhận ba của bé Thu là chi tiết cái trứng
cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lịng thương con của người cha, anh sáu găp
miengs trứng ngon nhất vào chén cơm cho bé Thu nhưng con bé bất thần :hất tung
miếng trứng cá...làm cơm văn tung tóe.
=>Có người cho rằng đây là một chi tiết thể hiện phản ứng dữ dội của con bé và
chi tiết này cũng bộc lộ tình yêu mãnh liệt và tức tưởi nhất của nó đối với ba. Đây
quả thực là một nhận xét hết sức tinh tế. Bởi đối với con bé, anh Sáu chỉ là một
người xa lạ có phần xảo quyệt vì anh đang cố tình dụ dỗ nó, bắt nó gọi bằng Ba.
Nó dứt khốt khơng gọi anh là Ba thì càng bộc lộ tình cảm, tình yêu vẹn ngun
của nó dành cho ba.
- Bị ba đánh,Thu khơng khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà
bà ngoại khi xuống xuồng em còn có ý khua dây cột kêu rổn rảng. => Tỏ ý bất
bình, tức giận, thách thức người lớn đừng làm phiền.
Những chi tiết bình thường mà tinh tế này được nhà văn ghi lại thật chân thực mà
gợi rung cảm tới đáy sâu tâm hồn người đọc thể hiện một sự am hiểu sâu sắc tâm lí
rẻ thơ của ngịi bút NQS. Trẻ em vốn ngây thơ nhưng cũng đầy cố chấp nhất là khi
chúng có sự hiểu lầm chúng kiên quyết từ chối tình cảm của người khác, mà khơng
cần cân nhắc nhất là với coobes cá tính bướng bình như Thu. Người đọc nhiều khi
thấy giận em thương cho anh Sáu nhưng thật ra Thu vẫn chỉ là một cơ bé. Sự ương
ngạnh của bé Thu hồn tồn khơng đáng trách. Trong hồn cảnh xa cách và trắc
trở của chiến tranh, em cịn q nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc
nghiệt, éo le của đời sống.Và người lớn cũng chưa ai kịp chuẩn bị cho Thu đón
nhận những khả năng bất thường nên em khơng tin ơng Sáu là ba chỉ vì vết sẹo đã
làm khuôn mặt ông thay đổi khác với người ba trong tấm hình mà bé đã biết. Phản
ứng tâm lí của bé Thu là hồn tồn tự nhiên, chứng tỏ tình cảm sâu sắc mà em
dành cho ba, em chỉ yêu ba khi biết chắc đó là ba. Trong cái cứng đầu của em ẩn
chứa sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình cảm dành cho người cha trong bức hình
chụp chung với má. Phải chăng đó là cái mầm của một cá tính mạnh mẽ, bản lĩnh
cứng cỏi sau này sẽ trở thành nét tính cách đẹp của cô giao liên Thu với lập trường
kiên định.
b. Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra ba.
Trước khi nhận ra cha Thu ngang ngạnh bao nhiêu thì khi nhận được ba em lại có
tình u cha tha thiết bấy nhiêu.
* Luận cứ 1: Khi được bà ngoại tháo gỡ thắc mắc:
Sự nghi ngờ của Thu dược giải tỏa khi em được bà ngoại giải thích tại sao ba lại có
vết thẹo dài trên má: vì ba đi đánh Tây bị Tây bắn thương. Nghe những điều ấy, nó
nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.
=> Người đọc có thể cảm nhận được sau nỗi ân hận buồn rầu là niềm thương cha
vơ cùng. Thu thương xót vì nỗi đau đớn mà cha phải chịu đựng, vì vết sẹo trên má
khiến gương mặt cha trở nên xấu xí. Vì mình đã đối xử phũ phàng với cha những
ngày qua. Hơn nữa ta cịn nhận ra Thu cũng là một cơ bé có suy nghĩ, như người
lớn em biết ân hận vì những việc mình đã làm ra.
* Luận cứ 2: Khi cha chuẩn bị lên đường.
- Thái độ, hành động của Thu đột ngột thay đổi hoàn toàn.
- Biểu hiện:
+ Vẻ mặt có gì hơi khác... sầm lại, buồn rầu...
+ Đơi mắt “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”
+ Khi ơng Sáu nhìn Thu trìu mến, buồn rầu thì “đơi mắt mênh mơng của con bé
bỗng xơn xao”.
=> Tình cảm của Thu dành cho cha thật sa lắng, thiết tha. Tình cảm ấy khơng bồng
bột như những đứa trẻ khác, mà có chiều sâu như một cơn sóng ngầm chỉ chờ lúc
ịa ra.
* Luận cứ 3: Khi cha nói lời từ biệt
+ Khi ơng Sáu chào từ biệt “tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó”
+ Kêu thét lên: “Ba... a... a...ba!”
=>Tiếng kêu Ba! Xé tan sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người. Tiếng Ba bật lên từ
trong tiềm thức, nó đã kìm nén bao lâu nay, giờ vỡ tung để mọi người phải xót xa
đau đớn. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với
Thu đó là nỗi khát khao suốt 8 năm trời xa cách, nhớ thương. Đó là tiếng gọi của
traai tim của tình u trong lịng đứa trẻ 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Tiếng
Ba ấy nó đã khao khát được gọi bao lâu nay với tất cả nội lực của một trái tim bé
nhỏ, của một tình yêu vẹn nguyên. Lúc này mọi người mới nhận thức được tình
u mà nó dành cho ba là vô cũng mãnh liệt
Thu khao khát gần gũi ba. Ta nhận ra tình cảm của trẻ thơ đối với đấng sinh thành
là một tình cảm hết sức nguyên vẹn và mãnh liệt. Đây khơng chỉ là khao khát mà
cịn là quyền của các em. Tất cả các thế lực ngăn cản các em đều là tội ác.
+ Sau tiếng kêu thét đó là những cử chỉ, những hành động gấp gáp, dồn dập.
Những cảm xúc bị kìm nén bao lâu nay bùng ra mãnh liệt
+ “Những cái ôm chặt, câu chặt, siết chặt như muốn cố sức giữ lại người thân yêu
bởi cha sắp phải lên đường.
Những cái hôn đẫm nước mắt cũng dồn dập, nó hơn cả vết thẹo dài trên má, - vết
thẹo mà trước đó nó cịn sợ hãi, Cái hôn như muốn xoa đi nỗi đau mà ba phải chịu
đựng nư muốn bù đưps những gì mà nó đã ddooois xử với ba trong những ngày
qua. Cái hơn đó cịn có cả niềm tự hào về ba vì ba đã cống hiến hi sinh cả tuổi xuân
cho đất nước.
Cả những tiếng khóc nấc ba khoogn cho ba đi ba ở nhà với con cugx cứ ám nahr
mãi tâm hồn người đọc.
- Mọi người:
+ Xúc động không cầm được nước mắt.
+ Người kể: thấy khó thở như thấy bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.
=> Qua những biểu hiện tâm lí và hành động của bé Thu, ta được cảm nhận
đượcbé Thu có tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ và cũng thật dứt khốt, rạch rịi. Ở
em cịn có cá tính cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, bướng bỉnh
nhưng vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ.
* Đánh giá:
- Xun suốt đoạn trích, trong hai hồn cảnh và trong haio cách ứng xử hoàn toàn
khác nhau nhưng thực chất chỉ là biểu hiện cho tấm lòng son sắt của bé Thu- một
cô bé mới tám tuổi. Không giữ được ba em đồng ý để cho ba đi cùng với lời nhắn
nhủ: Ba về ba mua cho con một cây lược. Đó là món quà mà có lẽ bất cứ em gái
nào cũng ao ước có được. bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà đã bước vào câu
chuyện và trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con Thu.
- Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu khi trước lúc hi sinh anh
đã nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu cây lược nhỏ mang dòng chữ
yêu thươ]ng “ Yêu nhớ, tặng Thu con của ba là kỉ vật chứa đựn tình thương nỗi
nhớ, hình bóng tấm lịng của cha. Chiếc lược đã động viên em vững vàng trong
cuộc chiến đấu. Khi bác ba tình cờ gặp lại Thu vafd trao cây lược thì cơ bé bướng
bỉnh ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm . và nguồn động lực tiếp thêm
sức manh chiến đấu cho em chính là tình u u ba, tình u đất nước.
- Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khốt (đến nỗi, nhìn
thống qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo…) nhưng
cũng hết sức hồn nhiên, đáng u, ngoan ngỗn và có tình u cha sâu sắc.
+ Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em,
cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” ( như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé
Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu
xin ba trước lúc ba đi…)
=> Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến
tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một em bé Nam bộ thời chiến với tính
cách đáng yêu, đáng mến.
Đề bài 2: Cảm nhận tình yêu của ông Sáu dành cho bé Thu, khi ông trở về
khu căn cứ và làm cho con cây lược ngà trong tác phẩm “Chiếc lược
ngà”(Nguyễn Quang Sáng)
I.
Mở bài:
Cách 1: Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh
đất Thành đồng cùng những người con trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của
ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hịa
bình. Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra
quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người
cán bộ Cách mạng – cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cảm
động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình u thương mà ơng Sáu
dành cho đứa con gái. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về
thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến.
Cách 2:
An – đéc – xen , tác giả của những câu chuyện cổ tích nổi tiếng gắn với tuổi thơ
của bao thế hệ trên khắp thế giới đã từng viết: Khơng có câu chuyện cổ tích nào
đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết lên”. Có thể nói, cuộc kháng chiến
chống Mĩ của dân tộc đã đi qua nhưng có biết bao những câu chuyện đã trở thành
huyền thoại được ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy ta
không thể bỏ qua “ Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm
tựa như một câu chuyện cổ tích, một bài ca về tình phụ tử mãi thổn thức lịng
người. Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình u thương
mà ơng Sáu dành cho đứa con gái. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào
trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng
chiến.
II. Thân bài:
1. Khái quát
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ơng lên tám tuổi, ơng mới
có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt
làm ba em khơng giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết.
Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cảm cha con thức dậy
mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ơng Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi
nhớ thương con ,ơng dồn vào việc làm cho con cây lược. Ơng hi sinh trong một
trận càn của Mỹ nguỵ. Trước lúc nhắm mắt, ơng cịn kịp trao cây lược cho một
người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ơng Sáu được miêu tả thật cảm động,
làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính Cách mạng, của người cha yêu con.
2. Tình cảm của ơng Sáu dành cho con khi ơng ở căn cứ kháng chiến.
- Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ơng Sáu đã được đón nhận một niềm
vui vơ bờ khi bé Thu gọi tiếng “Ba”. Ơng trở lại khu căn cứ với một yên tâm lớn
rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút
mong ông quay về. Tình cảm của ơng Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn,
cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược
ngà cho con.
- “Ba về ! Ba mua một cây lược cho con nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của
đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con tạm biệt. Nhưng đối với người cha ấy,
đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thơi thúc trong lịng.
Khiến cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu
khẩn của tình phụ tử trong lịng. Ông bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn:
làm cây lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ khơng đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu,
ơng khơng thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục
khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho
con của ông phải được làm bằng thứ q gía ấy. Và ơng khơng muốn mua, mà
muốn tự tay mình làm ra. Ơng sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình u thương con của
mình. Ơng quả là một người cha chiều con và luôn biết giữ lời hứa với con, đó là
biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng.
- Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy,
khi người ta hố thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách
người cha cao q của mình. Những lúc rỗi, ơng “ngồi cưa từng chiếc răng lược,
thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc ”. Bụi ngà mỗi ngày rơi một nhiều
làm người đồng đội cũng cảm thấy vui cho ông. Trên sống lưng cây lược, ông đã
tẩn mẩn khắc một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dịng chữ nhỏ
mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc làm chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm
trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương khao khát cháy
bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một
vật q giá thiêng liêng với ơng Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao
nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con
xa cách. Cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng nó như gỡ rối được
phần nào tâm trạng của ông. Những lúc nhớ con, ơng “lấy cây lược ra ngắm nghía
rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lịng u con đã biến người
chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy
nhất trong đời. Ơng gửi vào đó bao lời nhắn nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi
nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn
sơ mà diệu kì, là hiện hữu của tình cha con bất hủ giữa ơng Sáu và bé Thu. Tình
thương ơng dành cho con cháy bỏng, như một dịng sơng chảy mãi từ suối nguồn,
như dịng máu chảy sâu vào tim ông, vào tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy
chẳng nguôi.
- Làm được cây lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải
mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu:
trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực
và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng,khơng cịn đủ sức trăng trối lại điều
gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng
chỉ cịn cho ơng làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn
chiến đấu. Đó là điều trăng trối khơng lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời
di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử.
Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành
cho con gái, cho dù đến khi khơng cịn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho
con. Người kể chuyện, đồng đội của ơng Sáu đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc
động thực sự khi kể lại câu chuyện. Có lẽ, khơng ai hiểu nhau hơn những người
đồng đội, gần nhau hơn những người đồng đội. Cho nên, sau này, khi trao tận tay
Thu chiếc lược , giữa Thu và người đồng đội của cha mình nảy nở một tình cảm
giống như tình cha con.
- Những dịng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi buồn mênh mang
mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân
loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,chiến tranh làm khuôn mặt
ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,bị
thử thách,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao
chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. Nhưng
những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo gây ra không thể nào giết chết
những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam. “Chiếc lược ngà” như một truyện
cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người còn, người
mất nhưng kỉ vật gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với
chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng chí, tình cha con.Cảm động nhất, để
lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình
u thương mà ơng Sáu dành cho đứa con gái.
3. Nhận xét, đánh giá:
- Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của
đứa con gọi cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng khơng thể cầm lịng khi chứng kiến
cái cử chỉ cầm cây lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây phút lâm trung.
Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một
trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người
cha dành cho con.
- Có thể nói nhân vật ơng Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật
đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ
đó ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ
tử. Ngồi ra, ngơn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương
Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt,nhà văn đã lựa chọn
được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé
Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi…
- Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha
u con nồng thắm. đoạn trích đã góp phần làm nên thành công chjop tác phẩm.
III. Kết bài:
- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản
dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé
Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết,
mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được sự đau thương, mất
mát của chiến tranh tàn khốc gây ra…Vì thế mà ta càng q trọng cuộc sống thanh
bình ngày hơm nay, q trọng tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ
trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình u và sự hi
sinh vơ điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng
mãi sống ích kỉ - chỉ biết nhận tình cảm yêu thương từ cha mẹ mà chẳng bao giờ
đền đáp lại. Nếu bạn còn cha, và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng
đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này!
Đề bài 3: Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn "Chiếc lược
ngà" của Nguyễn Quang Sáng.
I.Mở bài:
- Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh đất
Thành đồng cùng những người con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của
ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hịa
bình. Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra
quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người
cán bộ Cách mạng – cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng
như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn
tượng.
II.Thân bài:
1.Khái qt(Dẫn dắt vào bài):
- Hồn cảnh của ơng Sáu:
+ Ông Sáu là một người nông dân Nam bộ đồng thời là người chiến sĩ tham gia vào
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
+ Lúc ra đi chiến đấu, đứa con gái của ông chưa đầy tuổi. 8 năm sau, ơng mới có
dịp về thăm nhà, thăm con trong 3 ngày ngắn ngủi. Nhưng thật trớ trêu, ngày về
sau 8 năm xa cách đứa con mà ông yêu thương ấy nhất định không nhận ông là
cha. Đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ơng
Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con, ông dồn vào việc làm
cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ ngụy. Trước lúc nhắm
mắt, ông cịn kịp trao cây lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của
ơng Sáu được miêu tả thật cảm động,làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính Cách
mạng, của người cha yêu con.
* Phân tích:
1. Luận điểm 1: . Vẻ đẹp người lính Cách mạng:
- Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp
của người lính Cách mạng.
+ Kháng chiến bùng nổ, ơng Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ,
vợ trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi ơng ra đi, bé Thu, con gái đầu lịng, cũng là
đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi.Vậy mà, đằng đẵng suốt những
năm kháng chiến, đê giữ vững kỉ luật, ông không một lần về thăm con. Tám năm
ông chỉ về phép 3 ngày và rồi vì nhiệm vụ ơng vẫn phải gạt niềm riêng ra đi
+ Cũng vì cuộc kháng chiến của dân tộc ơng đã phải mang vết thẹo trên mặt, hi
sinh vẻ dẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác mà chiến tranh đã gây ra
cho ông.
+ Mấy ngày về thăm nhà ông lại phải gánh chịu nỗi đau về tinh thần. : đứa con gái
bé bỏng không nhận cha chỉ vì vết sẹo đáng sợ trên mặt.
+Để rồi trở lại chiến trường chiến đấu ông đã hi sinh trong một trận càn của địch,
Người chiến sĩ ấy đã hi sinh cuộc đời cho mùa xuân đất nước.
Lòng yêu nước của ông Sáu cũng nư bao người chieenssix jhacs trong hai
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cứu nước. Hàng triệu người con đất VIệt đã
bước vào chiến trường, gạt đi những niềm riêng. Tổ quốc cần họ sẵn sang
2. Luận điểm 2: Tình yêu thương con:
Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trong hình ảnh người
cha chiến sĩ ấy chính là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình u thương mà ơng
Sáu dành cho đứa con gái:
a. Luận cứ 1: Tình cảm yêu thương con của ông Sáu được thể hiện trước hết
qua niềm khao khát được gặp con:
- Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lịng ơng Sáu là được
gặp con, được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay
ơng chưa được sống. Vì thế, về gần tới nhà, thống thấy bóng con,khơng chờ
xuồng cập bến, ơng nhón chân nhảy thót lên xơ chiếc xuồng tạt ra.Ông bước vội
vàng những bước dài. Cái tiếng gọi ơng phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật
cảm động, làm người đọc thấy nghẹn ngào: -"Thu!Con".Ngược lại với điều ông
mong muốn, đứa con gái ngơ ngác,hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến
người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy.
=>Chi tiết đó biểu lộ tâm trạng đau đớn đến tột cùng của người cha.
Người cha hụt hẫng đau đớn không hiểu sao. Ơng vừa đau đớn thất vọng vừ bất
lực. Khơng phải ngẫu nhiên mà tác giả sang tạo vết thẹo trên má . Đó là vết
thương thân xác là dấu tích tội ác của kẻ thù. Và từ chi tiết ấy tác giả đã tạo nên
một sự đối chiếu, một vết thương cịn đau đớn hơn gấp nghìn lần: vết thương
tinh thần trong lịng ơng Sáu. Gặp con trong giây phút ban đầu đã bị con chối
từ.
b. Luận cứ 2: Tình cảm u thương con của ơng Sáu được thể hiện trong 3
ngày ông Sáu ở nhà
Rồi suốt ba ngày nghỉ phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần
con. Song, ơng càng xích lại gần nó càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe
tiếng “ba” từ lịng con, nó càng khơng gọi... Bị con cự tuyệt,ơng Sáu đau khổ
khơng khóc được phải cười.
c.Luận cứ 3: Tình cảm u thương con của ơng Sáu được thể hiện trước
giị phút ơng Sáu lên đường trở lại chiến trường
- Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ơm con,nhưng lại sợ con khơng
nhận đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé
Thu ịa ra mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, Tiếng gọi ấy như cơn mưa mát lành trải
xuống cánh rừng khơ cạn. Ơng Sáu xúc động đến phát khóc và “khơng muốn cho
con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi
hơn lên mái tóc của con”.Người chiến sĩ ấy đã từng trải qua bao gian lao của cuộc
đời cách mạng, từng bị thương trong chiến tranh, từng bao lần đứng trước ranh giới
mong manh của sự sống và cái chết, chưa một lần sợ hãi, chưa từng rơi nước mắt.
Vậy mà nay lại rơi nước mắt trước con gái bé nhỏ, điều đó cho thấy ơng u con
đến nhường nào!
d.Luận cứ 4: Tình cảm của ơng Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất
cảm động khi ông ở khu căn cứ.
- Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi
nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”đã
thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở
thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con.
+ Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông
dành hết tâm trí, cơng sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể
lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như
người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu tình u thương con ơng dồn vào việc làm
cây lược ấy? Rồi ơng gị lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu
nhớ tặng Thu con của ba”.Cây lược ấy, dịng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương,
sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con
ơng thường lấy cây lược ra ngắm ngía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng,
thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ơng khơng muốn con ơng bị đau khi chải lược lên
tóc. u con, ơng Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm
lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân –
nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời– chiếc lược ngà. Cho
nên,cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản
dị.
+ Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái
tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong
một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong
giờ phút cuối cùng,khơng cịn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha
con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ cịn cho ơng làm một việc
“đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối
khơng lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước
nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây
lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ
hai của bé Thu.
*Đánh giá:
- Nội dung: Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng
khóc thét của đứa con gọi cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng khơng thể cầm lịng
khi chứng kiến cái cử chỉ cầm cây lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây
phút lâm trung. Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng
có lẽ đây là một trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu
thương của người cha dành cho con. Cũng từ hình ảnh này, nhà văn đã khẳng định:
Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt được sự sống, nhưng tình cha con – tình
phụ tử thiêng liêng khơng gì có thể giết chết được.
- Nghệ thuật:
Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ
thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống
để từ đó ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình
phụ tử. Ngồi ra, ngơn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa
phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt,nhà văn đã lựa
chọn được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược
của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi… Tất cả đã góp phần tơ
đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.
III. Kết bài:
- Hình ảnh ơng Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc
lược ngà” đã để lại bao thổn thức trong lịng người đọc về tình phụ tử sâu sắc.
Chiếc lược ngà và những dòng chữ trên sống lưng lược mãi mãi là kỉ vật, là nhân
chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt của những năm chiến tranh.
Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải
nhiều gian khổ và hi sinh. Ơng là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn
sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất n
Đề 4: Cảm nhận về tình cha con sâu nặng, cảm động giữa ông Sáu và bé
Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
BÀI LÀM
Có câu nói: “Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi
con người. Tình mẫu tử khiến trái tim con người thêm nồng nàn, êm ái. Tình
thương của người giàu với người nghèo đem đến cho ta sự cảm thông và sẻ chia.
Tình u đơi lứa dẫn ta đến những cao độ của cung bậc cảm xúc. Có người nhận
xét rằng “tình phụ tử khơng thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”. Nhưng khi bước
vào những trang truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ta không tiếc
những giọt lệ bởi tình cha con thắm thiết xúc động của Ông Sáu và bé Thu. Câu
chuyện khắc họa nhân vật đầy ấn tượng và tinh tế, đồng thời ngợi ca tình cha con
thiêng liêng vĩnh cửu.
Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang. Ông tham gia bộ đội và hoạt động ở chiến
trường Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Văn ông giản dị mộc mạc
nhưng sâu sắc, ý nghĩa. Chiếc lược ngà viết 1966 tại chiến trường Nam bộ là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông. Câu chuyện đã đem đến cho ta
niềm xúc động trước tình phụ tử sâu nặng thiêng liêng giữa Ơng Sáu và bé Thu
trong hồn cảnh éo le của chiến tranh.
Người đọc có thể cảm nhận được tình cha con vơ cùng cao đẹp của Ơng Sáu
giành cho bé Thu. Điều đó thể hiện rõ nhất qua nỗi khao khát gặp lại con sau 8 năm
xa cách. Khi gặp lại con không chờ xuồng cập bến ông đã nhún chân nhảy thót lên
bờ, xơ chiếc xuồng tản ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to:
“Thu! Con”, anh vừa bước vừa khom người đón chờ con. Khơng ghìm nổi xúc
động vết thẹo dài trên má anh đỏ ửng lên giần giật. Anh bước chầm chậm tới giọng
lắp bắp run run: “Ba đây con”. Hẳn là tình cảm của anh kìm nén bao lâu nay ở
chiến khu bủa vây lấy anh và rồi giờ đây được bộc lộ một cách mãnh liệt nhưng oái
ăm thay bé Thu lại không chịu nhận anh là ba chỉ vì vết thẹo trên mặt làm ơng Sáu
khơng giống với bức ảnh chụp chung với má. Con bé giật mình trịn mắt nhìn ngơ
ngác, lạ lùng rồi sợ hãi bỏ chạy. Cịn anh anh đứng sững lại nhìn theo con, nỗi đau
đớn khiến mặt anh sầm lại và hai tay bng xuống như bị gãy. Có lẽ do q bất ngờ
và thất vọng vì đáp lại sự mong đợi của anh, thay vì bé Thu chạy xơ vào lịng anh
ơm chặt lấy cổ anh thì con bé tái mặt và thét lên: “Má! Má!”. Những hành động đó
khiến ta thấy xót xa thương cảm cho anh khi tình cảm anh dồn nén suốt tám năm
ròng ở chiến khu nay lại khơng được đứa con gái bé bỏng của mình chấp nhận.
Trong ba ngày về thăm nhà anh ln chìm trong nỗi khổ đến nổi khơng khóc được.
Trước thái độ lạnh nhạt của bé Thu anh vô cùng bất lực. Suốt ngày anh chẳng đi
đâu xa lúc nào cũng vỗ về con, mong được nghe con gọi một tiếng ba nhưng ông
càng vỗ về, con bé càng đẩy ra và nó chẳng bao giờ gọi anh là ba. Hành động của
con bé khơng chỉ khiến anh buồn mà cịn khiến cho người đọc cảm thấy xót xa và
buồn thay cho anh. Anh càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng bướng bỉnh
của con bé càng làm tổn thương anh. Cịn gì đau đớn hơn một người cha giàu lịng
thương con mà lại bị đứa con gái nhỏ từ chối? Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng
ra khỏi cái chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm bấy lâu nay dồn
nén chất chứa trong lịng anh. Khi con bé hất cái trứng anh gắp cho nó, vì giận q
khơng kiềm chế được nên anh đã đánh con. Có lẽ sự tức giận đó càng thể hiện rõ
khát khao con gọi tiếng ba của anh. Người đọc cảm thấy rằng anh cũng nhìn nhận
được rằng mình khơng đúng vì suốt tám năm trời chẳng thể về thăm con, chẳng
làm gì được cho con nên nhân những ngày này anh muốn bù đắp cho con phần nào.
Giá như khơng có cái bi kịch ấy, giá như bé Thu nhận ra anh sớm hơn thì có thể
anh và con đã có những thời gian ngập tràn hạnh phúc, vui vẻ. Nhưng Nguyễn
Quang Sáng lại có sự độc đáo, tài tình khi xây dựng tình huống truyện đã gây cảm
động cho người đọc với những cảm xúc khác nhau, có lúc lại dồn nén hồi hộp, có
lúc lại cảm thơng thương xót, có lúc lại mừng mừng tủi tủi cho anh khi mà bé Thu
cất tiếng gọi ba. Tiếng gọi tuy muộn màng nhưng lại có ý nghĩa vơ cùng đẹp đẽ. Ai
có thể ngờ được một người lính gan dạ, can đảm nơi chiến trường, quen với mưa
bom bão đạn lại vô cùng mềm yếu trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm
hoi của một cuộc đời từng trải qua nhiều gian khổ lại rơi khi lần đầu tiên ơng cảm
nhận được sự ấm áp của tình ruột thịt. Mong ước “Ba về mua cho con một chiếc
lược nghe ba” của bé Thu thật đơn sơ giản dị trong giây phút cha con từ biệt.
Nhưng đối với anh lại là mơ ước đầu tiên và duy nhất nên nó cứ thơi thúc trong
lịng anh. Tình cảm của anh giành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh
liệt hơn bao giờ hết khi anh tự tay làm chiếc lược ngà cho con. Anh đã tỉ mẫn, kiên
nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược
ngà xinh xắn có khắc dịng chữ “u nhớ tặng Thu con của ba”. Tất cả tình yêu nỗi
nhớ con đan xen nỗi ân hận day dứt khi lỡ tay đánh con như dồn cả vào công việc
làm chiếc lược ngà ấy. Anh nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của
mình. Chiếc lược ngà ấy như một vật ký thác của người lính về tình phụ tử sâu
nặng và hẳn nhiên bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chiếc lược với
dòng chữ mang theo bao tình cảm yêu thương, mong đợi của người cha đối với đứa
con bé bỏng, hồn nhiên. Trong một lần chiến đấu, anh đã anh dũng hy sinh mà
không kịp trăng trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với ước nguyện cháy bỏng mong
người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con.
Tình cảm của anh khiến ta cảm thấy ấm lịng và cảm động sâu sắc.
Không chỉ khắc họa thành công nhân vật ơng Sáu, truyện ngắn “Chiếc lược ngà”
cịn làm cho người đọc vơ cùng thích thú và ấn tượng với nhân vật bé Thu-một cô
bé hồn nhiên trong sáng và có phần ương bướng cố chấp về tình cha con mãnh liệt
của mình. Bé Thu là nhân vật trung tâm của câu chuyện được tác giả khắc họa hết
sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính bướng bỉnh và gan góc có chút lì
lợm cố chấp nhưng lại một mực u thương, tơn thờ cha. Chỉ dành tiếng gọi ba cho
người cha đích thực và duy nhất của mình. Nguyễn Quang Sáng xây dựng hình ảnh
một bé Thu kiên quyết, ương ngạnh và khiến người đọc bất ngờ đan xen cảm động
trước một tính cách nhất quán. Dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào tình
thế ép buộc phải gọi ba, dù là bị ông Sáu đánh, trong mọi tình huống bé Thu ln
bộc lộ tính cách gan góc của mình. Con bé nhất quyết khơng gọi một tiếng ba, nó
nói trổng, nó lạnh lùng xa lánh. Nhưng phản ứng tâm lý đó là hồn tồn tự nhiên
bởi Thu còn quá nhỏ để hiểu được những đau thương mất mát do chiến tranh gây
ra, và người lớn cũng chưa ai kịp chuẩn bị cho Thu hiểu điều đó. Đằng sau sự ương
ngạnh, cứng đầu của bé Thu phải chăng ẩn chứa một tình yêu thương sâu sắc vẹn
nguyên của em dành cho người cha trong tâm trí trẻ thơ-người cha trong tấm hình
chụp chung với má. Tuy nhiên nói một cách khách quan, dù có bướng bỉnh cố
chấp, tình cảm có sâu sắc mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới lên
tám với tất cả nét hồn nhiên ngây thơ của con trẻ. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng tỏ
ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả vô cùng sinh động với tấm lòng yêu
mến và trân trọng.
Ở đoạn cuối, khi nghe bà khuyên nhủ và biết được nguyên nhân của mọi sự, khi
biết vết sẹo trên má ông Sáu chính là hậu quả của chiến tranh thì giờ đây trong tâm
trí của bé “ba” khơng chỉ là “người ba” mộc mạc, hiền hậu, chất phác mà là một
‘người ba” dũng cảm, bất chấp khó khăn để đem lại cuộc sống thanh bình cho đất
nước, cho gia đình và cho chính con gái – bé Thu. Ta thật khó để phủ nhận bé Thu
là đưa bé giàu tình cảm. Tình cha con trong em khát khao bấy lâu nay, giờ trỗi dậy
một cách mạnh mẽ vào cái giây phút mà cha con phải tạm biệt nhau. Có ai ngờ
rằng một cô bé không được gặp cha từ năm một tuổi vẫn ln vun đắp một tình u
bền bỉ và mãnh liệt với cha mình, dù người cha chưa hề bồng bế, cưng nựng, chăm
sóc cho em, làm ngựa cho em cưỡi hay làm cho em một món đồ chơi. Nhưng với
lịng u ba rất mực, nó có thể hình dung một người ba hiền hậu, chất phác, cao
lớn, tài giỏi, luôn dõi theo từng bước, từng ngày phát triển của em. Rồi lên ba, lên
bốn, rồi những bước đi chập chững đầu tiên, hình dáng người cha dang rộng vịng
tay ơm nó vào lịng, dỗ dành những khi em ngã. Bóng dáng người cha đó đã hằn
sâu vào tiềm thức, vào tâm trí em và tình cảm mãnh liệt đó ngăn không cho em
nhận người lạ mặt kia làm ba. Đến ngày ba em sắp phải từ biệt gia đình đến khu
căn cứ, em đứng ở góc nhà, theo dõi và khát khao được chạy đến ôm hôn ba nhưng
dường như có cái gì đó vơ hình chặn ngang cổ họng, làm em đứng nguyên ở đấy.
Và rồi đến khi ba em khẽ nói “Ba đi nghe con” mọi cảm xác, mọi tình cảm bấy lâu
nay em dồn nén, bỗng vở òa, em kêu hét lên “Ba .. aa á.. a”. Một tiếng kêu xé lịng,
xé tan cả khơng khí im lặng bủa vây mọi người và xé tan ruột gan, cõi lịng của
người đọc. Tiếng kêu đó như chạm phải trái tim ta, từng chút, từng chút một khiến
ta phải xúc cảm bật khóc. Gia đình là nơi ni dưỡng tâm hồn mỗi người từ lúc
tấm bé, người cha, người mẹ là quê hương “sẽ chắp cánh cho chúng ta bay cao, bay
xa” để rồi khi thành công hay thất bại “q hương” ln rộng mở tấm lịng đón ta
trở về, động viên, an ủi. Tình cảm ơng Sáu và bé Thu không đơn thuần là những
hành động, mà nó chất chứa trong con tim của em và ba. Tiếng kêu “Ba” từ trong
sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba, má đã dùng mọi cách để ép em gọi trong
bao ngày ngắn ngủi trôi qua, tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời em như thể
em là đứa trẻ bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba em tha thiết được nghe một lần, tiếng
gọi mà em ấp ủ để gọi người ba đích thực của mình. Tiếng gọi ấy khơng chỉ khiến
ba em bật khóc mà cịn là cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con
có cha của bé Thu. Sự hạnh phúc đó tuy ngắn ngủi nhưng được thể hiện rõ ràng
qua những giọt nước mắt. Và người đọc cũng phải rơi lệ từ những xúc cảm của
mình, rơi lệ để sẻ chia niềm vui đồn tụ của ơng Sáu và bé Thu.
Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi
kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ảnh hưởng bi thương trong lịng ta.
Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kì diệu, là
hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ơng Sáu và bé Thu và là minh chứng cho
lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Chiếc lược ngà cùng lời dặn dò
mang giá trị lớn lao. Cũng như người cha miền núi dặn con khi “lên đường, khơng
bao giờ nhỏ bé được” trong “Nói với con” của Y Phương thì với Nguyễn Quang
Sáng, ơng đã xây dựng hình ảnh bé Thu lấy người ba dũng cảm đã hi sinh làm
gương để mai này trở thành cô giao liên giải phóng gan dạ. Ta có thể nhận thấy
rằng, chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại nhưng từ chính trong gian khổ
khốc liệt ấy thì những thứ tình cảm đẹp đẽ vẫn nảy nở và đó là phương tiện, là
động lực cho con người mạnh mẽ đứng lên nối tiếp miền tin chiến thắng.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một bài văn ca ngợi tình phụ tử mộc mạc và
thiêng liêng cao quý. Thể hiện rõ tình u của ơng Sáu dành cho đứa con gái bé
nhỏ của mình đồng thời phản ánh được hiện thực khốc liệt của chiến tranh, trong
thời kì kháng chiến chiến chống Mỹ cứu nước.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng được viết vào năm 1966 – khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Nhưng khi đọc truyện ngắn
này, ta không hề nghe thấy tiếng bom rơi, đạn nổ mà thay vào đó là tiếng kêu, tiếng
gọi tha thiết của tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt. Đó là thành cơng của truyện
ngắn này. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã cho thế hệ bạn đọc trẻ hiểu hơn
về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, hiểu hơn về vẻ đẹp và sức mạnh của con
người Việt Nam trong quá khứ để chúng con biết trân trọng hơn cuộc sống tươi đẹp
hôm nay.
LẶNG LẼ SA PA
-Nguyễn Thành LongĐề 1: Vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên:
A. MB:
Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xi đáng chú ý thời kì
1960-1970. Ơng chỉ chun về truyện ngắn và kí. Trong kháng chiến khi hầu khắp
các nhà văn tìm đến với chiến trường thì Nguyễn Thành Long lại khốc ba lơ
ngược lên mảnh đất Sa Pa. Truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” đã khai sinh từ chuyến đi
đó.Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những
con người lao động bình thường mà cao cả. Tiêu biểu là anh thanh niên làm cơng
tác khí tượng thuỷ văn. Anh chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng là điểm sáng nổi bật
của bức tranh về phẩm chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong công cuộc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
B.TB
* Khái quát chung:
-Trước hết anh được gọi không phải bằng một cái tên cụ thể mà được gọi
theo lứa tuổi: anh thanh niên. Cũng không phải Nguyễn Thành Long không đặt
được cho nhân vật của mình một cái tên mà ơng muốn khẳng định đó chỉ là những
con người bình thường mà ta bắt gặp đâu đó trong cuộc sống hàng ngày, một con
người không ai biết đến tuổi tên nhưng họ lại âm thầm ngày đêm cống hiến cho đất
nước. Người anh hùng không chỉ cầm súng giết giặc mà còn là những con người
âm thầm, lặng lẽ cống hiến.
- Vị trí: Anh khơng xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu
rất ấn tượng của bác lái xe, qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các nhân vật khác
trong khoảng thời gian ngắn ngủi ( ba mươi phút). Chỉ 30 phút nhưng cũng đủ để
những người tiếp xúc kịp ghi một ấn tượng – kịp để ơng họa sĩ thực hiện bức kí
họa chân dung, kịp để cơ kỹ sư bàng hồng và có những cái gì đó như hàm ơn về
anh. Rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ
muôn thuở của núi cao Sa Pa. Và mọi người thấm thía điều mà nhà văn muốn
nói: Trong cái im lặng của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà
chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và
lo nghĩ như vậy cho đất nước.
* Vẻ đẹp:
- Hoàn cảnh sống và làm việc:
- Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27
tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với
mây mù và cây cỏ.
- Anh làm cơng tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu . Cơng việc của anh là “đo
gió, đo mưa, đo nắng,tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày
để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng địi hỏi
sự chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh,
đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngồi trời làm việc”.
- Hồn cảnh sống khắc nghiệt vơ cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc
sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ
vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ
nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt
tháng ở nơi núi cao khơng một bóng người. Cơ đơn đến mức “thèm người”, phải
lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện.
- Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp,giản dị mà sâu sắc.
* Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.
1. Lịng u nghề,tinh thần trách nhiệm với cơng việc:
* Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về cuộc sống và
công việc
- Anh sống gắn bó với sự nghiệp của đất nước, rất có trách nhiệm với cuộc
đời. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh làm công
tác khí tượng trên núi cao. Khơng ai có thể bắt buộc anh lên cái nơi “khỉ ho cò
gáy” này để làm việc và cống hiến. Trong khi bao nhiêu người sau khi ra trường đã
cố chạy chọt tìm bằng được một nơi làm việc giữa thủ đơ thì anh đã khốc ba lơ
vui vẻ vượt suối băng rừng để lên công tác ở nơi này. Anh tự nguyện lên đây
không phải do sự bốc đồng nhất thời mà là cả một sự nhận thức chín chắn, đúng
đắn, sâu sắc nhất. Anh thanh niên, một cán bộ vật lý kiêm khí tượng địa cầu, đã
sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để có thể phát huy tài năng và thực hiện ước mơ của
mình. Anh tự đặt và trả lời câu hỏi : “Mình sinh ra là gì ? Mình để ở đâu ? Mình vì
ai mà làm việc ?
- Anh có những suy nghĩ rất đẹp về ý nghĩa của cuộc sống, về hạnh phúc trong
đời. Với anh hạnh phúc là trong cơng việc. Khi kể lại thành tích nhờ phát hiện kịp
thời đám mây khô, không quân ta đã hạ nhiều máy bay Mĩ ở cầu Hàm Rồng, anh
nói : “kể từ hơm đó, cháu sống thật hạnh phúc”.
- Anh rất u cơng việc của mình. Đối với anh, công việc là niềm đam mê
cháy bỏng, là niềm hạnh phúc lớn nhất. Hơn ai hết, anh hiểu rõ cơng việc thầm
lặng của mình là có ích mọi người, nó gắn liền anh với cuộc sống chung của đất
nước. Anh tâm sự với ông họa sĩ : “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao
gọi là một mình được ? Huống chi cơng việc của cháu gắn liền với bao anh em
đồng chí dưới kia.Cơng việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn
đến chết mất”. Dù cơng việc có vất vả nhưng anh khơng thể sống thiếu nó.
- Thậm chí, mặc dù đã sống một mình trên đỉnh núi cao 2600mét nhưng anh
vẫn ước được làm việc ở đỉnh núi cao hơn nữa : Đỉnh Phan xi Păng cao 3143 mét
bởi anh nghĩ : “ Làm cơng tác khí tượng ở độ cao như thế mới là lý tưởng chứ”.Đó
là ước vọng được vươn cao hơn trong công việc để đạt được mục đích tốt đẹp nhất.
Những suy nghĩ đẹp ấy khiến anh thêm yêu cuộc sống và con người xung
quanh, “thấy cuộc đời đẹp quá!”, giúp anh có thêm nghị lực để sống một cuộc sống
đẹp, đầy ý nghĩa, gắn bó với mọi người dù một mình đơn độc làm việc trên núi
cao.
* Anh thanh niên còn là người biết hành đơng đẹp.
- Anh đã đề ra cho mình nhiệm vụ cơng tác và đã vượt mọi khó khăn thử thách
để đạt được kết quả tốt nhất. Chỉ có một mình ở trạm khí tượng trên núi cao nhưng
anh tự nguyện, tự giác, yên tâm công tác chưa hề để xẩy ra một sơ suất dù nhỏ.
- Công việc của anh ở nơi đây thật là vất vả và đơn điệu, phải lặp đi lặp lại
những con số nhưng anh khơng cảm thấy nhàm chán. Thậm chí từng phút, từng
giờ anh làm bạn với đủ loại máy móc : “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo
chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy địi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần
trách nhiệm cao. Và anh đã lập ra một thời gian biểu để thực hiện nó một cách
nghiêm ngặt. Đây là lời anh tâm sự với ông hoạ sĩ già: “Gian khổ nhất là lần ghi
bão về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang
nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn,
ngọn đèn báo bão vặn to đến cỡ nào vẫn không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió
tuyết và im lặng ở bên ngồi như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xơ tới…” Qua lời
anh nói ta có thể hình dung được bao nhiêu vất vả, khó khăn mà anh đã chịu đựng.
- Điều đáng quý là anh thanh niên nói rất thành thật. Anh là con người, có
những phút giây anh cũng ngại khó, ngại khổ nhưng với lịng hăng say trong cơng
tác, người con trai của rừng núi Sa Pa vẫn tự cố gắng vượt qua hồn cảnh khó
khăn, làm việc trong sự tự nguyện, tự giác, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, gặt hái những thành quả tốt đẹp. Cơng việc của anh thật chẳng kém gì nhiệm
vụ của các anh chiến sĩ biên phòng đang ngày đêm bảo vệ Tổ quốc.Chính vì tất cả
những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù vẫn
không buồn tẻ. Anh đã dồn tất cả thời gian, tâm sức mình cho nhiệm vụ. Sự say mê
cơng việc đã giúp anh không cảm thấy cô đơn.
2. Anh thanh niên cịn có phong cách sống rất đẹp
a. Ngồi ra anh tổ chức cuộc sống của mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp,
phong phú cả vật chất và tinh thần, một cuộc sống chủ động, làm chủ mình và có
ích cho đời.
- Anh biết sống cho sự nghiệp chung lớn lao và cũng biết sống cho riêng
mình. Anh trọng cái đẹp : anh trrồng hoa, một vườn hoa đầy mầu sắc. Đó là vẻ đẹp
của tâm hồn anh và anh hào phóng tặng cho mọi người. Gian nhà của anh sạch sẽ,
gọn gàng. Anh chạy về trước là để pha trà, cắt hoa tặng khách chứ không phải để
thu dọn nhà cửa vì khách tới thăm bất ngờ như họa sĩ tưởng. Anh trồng rau, nuôi
gà là để tự cung cấp cho mình thức ăn.
- Anh cịn đọc sách ngoài những giờ làm việc. Sách đã trở thành người bạn thân
thiết của anh. Khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như cầm
được vàng. Anh nói với cơ gái: “ Cơ thấy đấy, lúc nào tơi cũng có người trị
chuyện. Nghĩa là sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ”. Anh tự lo liệu xoay sở đẻ
thường xun có sách đọc. Sách khơng chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết, nâng cao
kiến thức, sách còn giúp anh khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi. Say mê
đọc sách là một thói quen, một đức tính đáng q ở anh.
b. Khơng chỉ say mê cơng việc, say mê đọc sách , anh thanh niên còn là một
con người rất đáng mến ở sự cởi mở,chân thành với mọi người.
Anh luôn khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với những người khác. Anh mừng
lắm khi gặp được bác tài và càng mừng hơn khi được tiếp bác tài, nhà hoạ sĩ, và cô
kỹ sư nông nghiệp trẻ mới ra trường tại nơi làm việc của anh. Chính anh đã nói to
lên đầy tiếc rẻ : « Trời ơi, chỉ còn năm phút ». Câu chuyện của anh tn ra như
suối khi gặp mọi người. Anh « nói to những điều người ta chỉ nghĩ và cũng ít
nghĩ ». Anh rất hiếu khách : mời khách uống trà, tặng hoa, tặng quà ( giỏ trứng)
cho khách. Và anh rất lưu luyến với khách khi chia tay. Thái độ vui vẻ, niềm nở,
hiếu khách của anh cũng đã để lại trong lịng mọi người những ấn tượng khó quên.
c. Dù vậy, trong cuộc sống, anh là một người rất khiêm tốn , luôn đề cao người
khác.Thực tâm, anh thấy cơng việc và sự đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Anh
luôn say sưa ca ngợi mọi người. Mặc dù ông hoạ sĩ già hết sức khâm phục anh,
ông muốn vẽ chân dung của anh, nhưng anh một mực từ chối, anh khơng muốn vì
cảm thấy mình khơng xứng đáng được hưởng ân huệ ấy. Anh đã kể những người
xứng đáng khác. Anh nói thành thực: “những người khác đáng kể, đáng vẽ hơn
anh. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phăng -xi -păng ba nghìn một trăm bốn
mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở
vườn rau dưới Sa Pa!… Hay là bác vẽ đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan
cháu…” Và anh say sưa kể về thành tích của những người ấy. Đức tính khiêm tốn
ấy của anh đã làm cho ông hoạ sĩ, bác lái xe và cô gái hết sức yêu mến và khâm
phục.
2.Nhân vật ấy giúp em hiểu thêm nét đẹp ở những con người lao động ở chốn
Sa Pa :
- Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy
nghĩ đẹp, sống có lý tưởng, qn mình vì cuộc sống chung, vơ tư, lặng thầm, cống
hiến hết mình cho đất nước, say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc.
- Họ có tấm lịng nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc
sống của họ âm thầm, bình dị mà đáng trân trọng biết bao.
- Đến đây, ta lại nhớ đến bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ cũng là người anh hùng: “không một tấm hình,
khơng một dịng địa chỉ” mà tác giả gọi bằng cái tên chung: Anh Giải phóng quân.
Và phải chăng những người con đất Việt ấy đã gặp nhau ở đức tính hi sinh qn
mình? Những con người anh hùng vơ danh ấy đã ngày đêm làm việc và lo nghĩ
như vậy cho đất nước, một cách thầm lặng không ồn ào, khoa trương. Họ làm việc,
công tác rất sôi nổi nhưng không lên gân. Tâm hồn họ đẹp đẽ, trong sáng nhưng
không đơn giản.
*Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật:
+ Trước hết nhà văn đã để cho nhân vật của mình xuất hiện trong một tình huống
đời thường nhưng khá độc đáo. Đó là cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô
kĩ sư trẻ và một anh thanh niên làm cơng tác khí tượng. Tình huống ấy tạo cho anh
thanh niên một vẻ đẹp của con người đời thường, con người mà ta có thể bắt gặp
đâu đó trong cuộc sống.
+ Nhân vật được ghi lại qua những cảm nhận trực tiếp nhưng không hề nhạt nhịa
bởi được khắc họa qua nhiều điểm nhìn và miêu tả tinh tế. Lời giới thiệu dẫn dắt
của bác lái xe, đã gây hứng thú, chú ý cho người đọc. Ông họa sĩ già với niềm say
mê và sự suy tư sâu lắng trước sự xuất hiện của một đối tượng nghệ thuật mà bao
lâu ơng khó nhọc kiếm tìm đã đem đến cho hình tượng anh thanh niên một vẻ đẹp
hồn nhiên chân thật mà độc đáo. Đặc biệt cảm xúc bàng hồng khi cơ kĩ sư nơng
nghiệp khám phá trên mấy trang sách đọc dở của anh kĩ sư trẻ tuổi góp phần tơ
đậm thêm đời sống tinh thần tuyệt đẹp của anh.
- Chất thơ của “Lặng lẽ Sa Pa” cũng phụ trợ đắc lực trong việc khắc họa chân dung
anh thanh niên. Vẻ đẹp của anh hòa cùng vẻ đẹp của núi rừng Sa Pa, những suy
nghĩ của anh cũng là những thanh âm sâu lắng hòa vào bức tranh nghệ thuật, hòa
vào bài ca ca ngợi những con người trong thời đại mới.
III – Kết luận:
Thế đấy, trong cái “lặng lẽ”của Sa Pa trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ
mấy ai biết được có một chàng trai đang sống, đang âm thầm làm việc. Người cán
bộ trẻ ấy được Nguyễn Thành Long xây dựng khá sắc nét với những đặc điểm, suy
nghĩ, hành động tích cực, một mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian
khổ hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Những trang viết của Nguyễn
Thành Long khiến ta thêm yêu con người và cuộc sống, thấy được trách nhiệm của
mình với sự nghiệp chung của đất nước. Lặng lẽ đi, lặng lẽ viết, bất giác ta chợt
nghĩ, phải chăng Nguyễn Thành Long cũng như anh thanh niên, ông đã làm một
công việc âm thầm với trái tim rực lửa.
Đề 2: Các nhân vật khác:
1. Nhân vật ông họa sĩ:
- Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như ngườikể chuyện đã nhập
vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sátvà miêu tả từ cảnh
thiên nhiên đến nhân vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắmsuy nghĩ về con người,
về nghệ thuật.
- Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sựtừng trải nghề nghiệp
và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng củanghệ thuật, ơng đã xúc
động và bối rối.
- Ơng muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kíhọa và “người con trai
ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúccảm và suy tư của nhân
vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khácnữa được gợi lên từ câu
chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêmsáng đẹp và tạo nên chiều
sâu tư tưởng.
2.Nhân vật cô kĩsư.
- Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tìnhđầu nhạt nhẽo” để lên
cơng tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anhthanh niên, những điều
anh nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiếncơ “bàng hồng”, “cơ
hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của ngườithanh niên, về cái thế
giới những con người như anh mà anh kể, và về con đườngcơ đang đi tới”. Nhờ
cái “bàng hồng” ấy, cơ mới nhậnra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết
bao, cuộc sống của mình lâu naytầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay
nhỏ bé biết bao ! Khoảnh khắc bàng hồng ấy chính là sự bừng dậy của những tình
cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ
cuộc sống, từ tâm hồnngười khác.
- Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lịng cơ
gái. Khơng phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời.
Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu
nhiên anh cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lêntrong tâm tư cơ gái trẻ những tình
cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về conngười, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô
gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởngcủa nhân vật anh thanh niên.
3, Bác lái xe:
- Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịpthể hiện những nét đẹp
trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30 nămtrong nghề lái xe mà vẫn
ln giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm vớicơng việc, nhạy cảm trước
vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bác lái xe làcầu nối giữa anh thanh niên và
cuộc đời ( mua sách cho anh, dừng xe dưới chânđồi để anh trò chuyện, giới thiệu
những người bạn mới cho anh). Bác lái xe cũnglà người dẫn dắt truyện, kích thích
sự tị mị của ơng họa sĩ và cô kĩ sư về anhthanh niên – người cô độc nhất thế gian,
người rất “thèm người”
=> Qua cảm xúc,suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cơ kĩ sư, ơng họa
sĩ, hình ảnh anh thanhniên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của
tác phẩm mở rộng thêm vàgợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật
chính như được soi rọi nhiều luồngánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên
nhiều màu sắc.
4. Trong tác phẩm,cịn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ
xuất hiện gián tiếp quacâu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ
đề của tác phẩm. Đó là:
- Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnhPhan-xi-păng cao 3142 mét.
- Ơng kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lịng với cơng việc. Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong
âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngàykhác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình
xem cách ong lấy phấn, thụ phận chohoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng
cây su hào để củ su hào nhân dântoàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ
sư làm cho anh thanh niên cảmthấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ
những con người nơimảnh đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.
- Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ởtrong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ
sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghesét là chống chồng chạy ra”. Anh đã
hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mêcơng việc để khai thác “của chìm nơng,
của chìm sâu” dưới lịng đất làm giàu choTổ quốc.
- Ơng bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.
-> Dù không xuấthiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của
anh thanh niên, song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và
cách sống. Họ là những người say mê cơng việc. Vì cơng việc làm giàu cho đất
nước, họ sẵn sang hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình.
Cuộc sống của họ lặng lẽ và nhân ái biết bao.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành cơng hình ảnh những
conngười lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm cơng tác
khítượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của
conngười lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
2. Nghệ thuật:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV
HĐ CỦA HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
1. Tác giả:
- Yêu cầu 1 HS trình bày - Trả lời cá - Nhà văn Nguyễn Thành Long
những hiểu biết cơ bản về nhân.
(1925-1991), quê quán: huyện Duy
tác giả.
Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
- Ông viết văn từ thời kháng chiến
GV: Nhấn mạnh lại về tác
chống Pháp.
giả.
- Chuyên viết truyện ngắn, bút kí.
Chuyên viết truyện ngắn,
- Truyện ngắn của Nguyễn Thành
bút kí.Trong truyện ngắn
Long thấm đẫm chất thơ, giàu chất
của ông mang đậm chất kí
triết lí.
ở lối ghi chép hiện thực và
chất trữ tình. Văn Nguyễn
Thành Long nhẹ nhàng,
trong sáng, giàu chất thơ,
đậm chất triết lí. Lặng lẽ
Sa Pa là một trong những
2. Tác phẩm:
truyện ngắn trữ tình tiêu
- Hồn cảnh sáng tác: 1970, trong
biểu cho phong cách nghệ - 3 HS lần chuyến đi thực tế lên Sa Pa của tác
thuật của ông.
lượt đọc diễn giả.
- Hướng dẫn HS đọc văn cảm.
- Xuất xứ: in trong tập Giữa trong
bản.
xanh (1972)
? Trình bày về hoàn cảnh - Trả lời cá - Thể loại: truyện ngắn.
sang tác, xuất xứ, thể loại? nhân.
- Ngôi kể: ngôi thứ ba.( Tác giả sử
dụng thủ pháp di chuyển điểm nhìn.
Truyện kể theo ngơi thứ 3 nhưng
đơi chỗ được nhìn trần thuật theo
ngơi kể thứ nhất: qua cái nhìn của
- Trả lời cá nhân vật phụ: ông hoạ sĩ.)
? Truyện được trần thuật từ nhân.
điểm nhìn của nhân vật
- Tóm tắt: Trên chuyến xe đi Lào
nào. Cách trần thuật ấy có
Cai, bác lái xe nói chuyện với ơng
tác dụng như thế nào đối
họa sĩ (khách đi xe). Cảnh đẹp của
với việc khắc hoạ nhân vật
Sa Pa hiện ra, bác lái xe dừng lại
và nội dung truyện?
- Tóm tắt
cho khách ăn trưa và giới thiệu với
mọi người về anh thanh niên làm
nghề khí tượng.
? Tóm tắt tác phẩm?
Anh thanh niên mời ông họa sĩ
và cô gái về nhà chơi, nhưng anh
về trước. Hai người đến, anh cắt
- Nhận xét
- Trả lời cá
nhân
.
hoa tặng cô gái và pha trà mời ông
hoạ sĩ rồi kể về công việc của
mỡnh cho hai người nghe Anh làm
công việc đo nắng, mưa gió góp
phần vào tin dự báo thời tiết hàng
ngày.
Ơng hoạ sĩ vẽ anh thanh niên.
Anh từ chối và đề nghị ông vẽ về
ông kĩ sư vườn rau Sa Pa và anh
cán bộ bản đồ.
Cô gái ngồi nghe chuyện của
anh thanh niên và cho rằng quyết
định của cô là đúng đắn.
Do hết giờ nghỉ ông họa sĩ và cô
gái chào tạm biệt anh thanh niên ra
về. Anh thanh niên biếu ông hoạ sĩ
và cô gái làn trứng. Ông hoạ sĩ hứa
sẽ quay trở lại Sa Pa.
Đoạn trích kể lại cuộc gặp gỡ
tình cờ giữa ơng hoạ sĩ già và bác
lái xe, cô gái với người thanh niên
làm công tác khí tượng trên đỉnh
Yên Sơn.
- Ca ngợi những con người lao
động bình thường âm thầm, cống
hiến hết mình cho cuộc đời.
- Khẳng định ý nghĩa của những
công việc thầm lặng.
- Tình huống truyện:
+ Tình huống cơ bản của truyện
ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" chính là cuộc
gặp gỡ tình cờ của anh thanh niên
làm việc một mình ở trạm khí
tượng với bác lái xe và hai hành
khách trên chuyến xe ấy - ông hoạ
sĩ và cô kỹ sư lên thăm trong chốt
lát nơi ở và nơi làm việc của anh
thanh niên.
+ Tạo ra tình huống ấy, tác giả đã
để câu chuyện được phát triển tự
nhiên, giới thiệu nhân vật chính
một cách thuận lợi và để nhân vật