Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Ảnh hưởng của covid 19 đến lĩnh vực du lịch và hàm ý chính sách cho lĩnh vực du lịch tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.52 KB, 15 trang )

INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

ẢNH HƯỞNG CỦA COVID-19 ĐẾN LĨNH VỰC DU LỊCH
VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO LĨNH VỰC
DU LỊCH TẠI VIỆT NAM

EFFECTS OF COVID-19 ON TOURISM AND IMPLICATIONS ON
TOURISM POLICIES IN VIETNAM

ThS. Lê Cát Vi; ThS. Nguyễn Văn Điệp
Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQGTP.HCM


Tóm tắt

Sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đang có tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn
cầu. Ngành du lịch đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các biện pháp ngăn chặn đại dịch của các
quốc gia. Những nỗ lực ngăn chặn đại dịch có thể khiến nền kinh tế du lịch toàn cầu giảm từ 45
đến 70%. Tuy nhiên, du lịch trong nước được kỳ vọng sẽ phục hồi nhanh hơn ngành du lịch quốc
tế. Bài viết này trình bày những ảnh hưởng của Covid-19 lên lĩnh vực du lịch trên thế giới và
Việt Nam. Trên cơ sở này, bài viết sẽ đưa ra một số hàm ý chính sách mà Việt Nam có thể tham
khảo để phục hồi lĩnh vực du lịch trong bối cảnh hậu Covid-19.
Từ khóa: Covid-19, mơ hình xã hội hoá, du lịch, bền vững, cơ sở lưu trú, du lịch quốc tế,
du lịch trong nước
Abstract

The outbreak of the Covid-19 pandemic is having serious impacts on the global economy.
One way or another, the tourism industry has been hit hard by its country’s pandemic prevention
policies. As the result, it could reduce the global tourism economy by 45 to 70 percent. However,
domestic tourism is expected to recover faster than international tourism. This article presents


the influences of Covid-19 on tourism worldwide and in Vietnam. Basically, the article will give
some policy implications that Vietnam can refer to revive the tourism industry in the after-Covid19 context.

Keywords: Covid-19, model of socialization, tourism, sustainability, accommodation, international tourism, domestic tourism
1. Đặt vấn đề

Thế giới tiếp tục đối mặt với tình trạng nguy hiểm do sự xuất hiện của những đại dịch mới.
Những đại dịch mới này không những gây thiệt hại lớn về tính mạng con người mà cịn dẫn làm
tê liệt hệ thống kinh tế, chính trị, và văn hóa xã hội tồn cầu. Vào tháng 12 năm 2019, một đợt
bùng phát vi rút mới gây viêm phổi ở Vũ Hán (Hồ Bắc, Trung Quốc) đã được báo cáo. Đây là
loại dịch bệnh do một loại coronavirus mới (Covid-19) gây ra (Dong, Du & Gardner, 2020). Vào
1598


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

ngày 11 tháng 1 năm 2020, Trung Quốc đã công bố trường hợp tử vong đầu tiên do COVID-19
gây ra (Aljazeera, 2020; WHO, 2020). Cho đến cuối tháng 8 năm 2020, COVID-19 đã lan tới
215 quốc gia, vùng lãnh thổ với hơn 25 triệu trường hợp nhiễm bệnh và gần 1 triệu trường hợp
tử vong (Johns Hopkins University, 2020). Đặc biệt là từ tháng 2 năm 2020, Covid-19 đã lan
nhanh ra trên thế giới, đặc biệt là ở Ý, Hàn Quốc, và các quốc gia châu Mỹ (Dunford & cộng sự,
2020; WHO, 2020).

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tuyên bố Covid-19 là đại dịch vào ngày 11 tháng 3 năm
2020 (WHO, 2020). Điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của Covid-19 và nhiều chính phủ
phải lập lại chiến lược và thực thi một số hướng dẫn để kiểm soát đại dịch. Theo Brodeur & cộng
sự (2020), Sigala (2020), Pollinger (2020) thì nhiều quốc gia đã và đang thực hiện các biện pháp
như đóng cửa tồn bộ nền kinh tế (total lockdown), đóng cửa biên giới, hạn chế đi lại (điều này
ngụ ý rằng khơng có các hoạt động kinh tế nào diễn ra). Biện pháp này lần đầu tiên được Trung

Quốc thực hiện khi số ca nhiễm mới tại nước này bắt đầu gia tăng nhanh chóng. Ngồi ra, các
chính phủ đã thiết lập các quy tắc và hướng dẫn nghiêm ngặt để tuân theo nhằm hạn chế sự lây
lan của Covid-19, bao gồm: duy trì sự giãn cách xã hội, không tụ tập hoặc tổ chức sự kiện công
cộng và tự cách ly trong trường hợp một người có bất kỳ triệu chứng nào. Hầu hết các quốc gia
đã đóng cửa trường học, nhà hàng, khách sạn, câu lạc bộ đêm và hầu hết các lĩnh vực liên quan
đến việc tụ tập đông người, tất cả đều nhằm giảm bớt sự lây lan của đại dịch.

Du lịch tạo ra ngoại hối, thúc đẩy sự phát triển của khu vực, hỗ trợ trực tiếp cho nhiều loại
việc làm và kinh doanh, đồng thời tạo cơ sở cho nhiều cộng đồng địa phương. Theo Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD), ngành này đóng góp trung bình trực tiếp 4,4% GDP và 21,5%
xuất khẩu dịch vụ ở các nước này (OECD, 2020a). Tỷ lệ này cao hơn nhiều đối với một số quốc
gia OECD. Ví dụ, du lịch ở Tây Ban Nha đóng góp 11,8% GDP trong khi du lịch chiếm 52,3%
tổng xuất khẩu dịch vụ, ở Mexico các con số này là 8,7% và 78,3%, ở Iceland 8,6% và 47,7%, ở
Bồ Đào Nha 8,0% và 51,1%, và ở Pháp 7,4% và 22,2% (OECD, 2020b). Tuy nhiên, đại dịch
COVID-19 đã có những tác động rất hữu hình đối với lĩnh vực du lịch, vốn là rất quan trọng đối
với nhiều người, nhiều địa điểm và doanh nghiệp, đặc biệt là ở các quốc gia, thành phố và khu
vực nơi du lịch là một phần quan trọng của nền kinh tế. Các chiến lược và biện pháp truyền thông
về sức khỏe mà các quốc gia thực hiện đã ngăn cản việc di chuyển, du lịch và giải trí tồn cầu
(Sigala, 2020). Du lịch là ngành rất dễ bị tổn thương trước các rủi ro về môi trường, chính trị,
kinh tế và xã hội. Novelli & cộng sự (2018), Higgins-Desbiolles (2020) cho rằng ngành du lịch
đã linh hoạt hơn để phục hồi từ các cuộc khủng hoảng (ví dụ như khủng bố, động đất bao gồm
cả trận sóng thần năm 2005 ở khu vực Ấn Độ Dương, tác động của vụ khủng bố ‘9/11” tấn công
vào Hoa Kỳ năm 2001) và các dịch bệnh trước đó (ví dụ như Ebola, SARS, Zika). Tuy nhiên,
bản chất, hoàn cảnh và tác động chưa từng có của Covid-19 đã cho thấy những dấu hiệu cho thấy
cuộc khủng hoảng này không chỉ khác biệt mà cịn có thể gây ra những thay đổi sâu sắc và lâu
dài về cơ cấu và chuyển đổi đối với du lịch như hoạt động kinh tế xã hội và ngành du lịch.

Bài viết này tổng hợp những tác động của đại dịch Covid-19 đến lĩnh vực du lịch. Trên cơ
sở này, bài viết đưa ra một số hàm ý chính sách phát triển cho ngành du lịch Việt Nam trong bối
cảnh hậu Covid-19.

1599


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

2. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp dựa trên dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các tổ
chức khác nhau để phân tích ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến lĩnh vực trên thế giới và Việt
Nam. Trên cơ sở những ảnh hưởng này, bài viết sẽ đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm phát
triển lĩnh vực du lịch hậu Covid-19 tại Việt Nam.
3. Ảnh hưởng của Covid-19 đến lĩnh vực du lịch

3.1. Trên thế giới

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy tác động của Covid-19 đối với nền kinh tế thế giới và tác
động của nó đến các lĩnh vực cụ thể. Nicola & cộng sự (2020) đã cho thấy tác động của Covid19 trong: (i) lĩnh vực chính (primary sectors) bao gồm các ngành liên quan đến khai thác nguyên
liệu thô, (ii) lĩnh vực thứ cấp (secondary sectors) liên quan đến sản xuất thành phẩm và (iii) lĩnh
vực dịch vụ (tertiary sectors) bao gồm tất cả các ngành cung cấp dịch vụ.

Trong những thập kỷ qua, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế năng động
và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Tầm quan trọng của ngành này như một động lực tạo việc
làm và thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và sản phẩm địa phương. Du lịch góp phần giải quyết
việc làm cả trực tiếp và gián tiếp, đặc biệt là cho phụ nữ và thanh niên (ILO, 2020). Ngành khách
sạn là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi Covid-19. Trên toàn cầu, các khách sạn đã báo cáo
có tỷ lệ lấp đầy cực kỳ thấp hoặc đã bị đóng cửa trên quy mô lớn. Chẳng hạn, doanh thu ngành
khách sạn trên mỗi phòng trống ở Hoa Kỳ giảm 11,6% trong tuần kết thúc vào ngày 7 tháng 3
năm 2020, trong khi tỷ lệ lấp đầy tại Trung Quốc giảm 89% vào cuối tháng 1 năm 2020. Các
khách sạn khác của Hoa Kỳ đang tìm kiếm viện trợ trực tiếp khoảng 150 tỷ đô la cho nhân viên

do nhu cầu giảm chưa từng thấy, cùng với khoản lỗ ước tính 1,5 tỷ đơ la kể từ giữa tháng 2 (Nicola
& cộng sự, 2020). MGM Resorts International cũng đã thông báo tạm ngừng hoạt động tại các
cơ sở kinh doanh ở Las Vegas, trong đó các hoạt động sịng bạc đóng cửa vào ngày 16 tháng 3,
sau đó là các hoạt động của khách sạn (Ahern, 2020). Trong khi đó từ ngày 1 tháng 3 năm 2020,
công suất khách sạn ở Đức giảm hơn 36% (Niessen, 2020). Các thành phố của Ý bao gồm Rome
có tỷ lệ lấp đầy hiện tại là 6%, London ổn định nhất với tỷ lệ lấp đầy khoảng 47% (Niessen,
2020). Nhìn chung, cuộc khủng hoảng Covid-19 đã dẫn đến sự méo mó quốc tế đối với ngành
khách sạn và sự sụt giảm nghiêm trọng đối với thị trường khách sạn châu Âu, ước tính có 76%
khách sạn tại nơi này đã đóng cửa (OECD, 2020b). Tại Hoa Kỳ, việc hạn chế tất cả các chuyến
du lịch không thiết yếu, đóng cửa biên giới Hoa Kỳ-Canada và đình chỉ dịch vụ thị thực có thể
đẩy nhanh sự gián đoạn nền kinh tế Hoa Kỳ (Nicola & cộng sự, 2020).

Do hậu quả trực tiếp của Covid-19, Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC) đã
cảnh báo rằng 50 triệu việc làm trong lĩnh vực du lịch và lữ hành tồn cầu có thể gặp rủi ro (Faus,
2020). Các nhà điều hành tour du lịch đã giảm hoặc tạm dừng hoạt động cho đến khi có thơng
báo mới. Liên minh Tuyên ngôn Du lịch châu Âu, bao gồm hơn 50 tổ chức công và tư của châu
Âu trong lĩnh vực du lịch và lữ hành, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện các biện pháp cấp
bách gồm viện trợ nhà nước tạm thời cho lĩnh vực du lịch và lữ hành từ các chính phủ quốc gia
cũng như khả năng tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với các khoản vay ngắn hạn và trung hạn
để khắc phục tình trạng thiếu thanh khoản, bao gồm cả nguồn vốn do EU cung cấp thông qua
1600


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Sáng kiến Đầu tư Ứng phó Corona và EU cũng đã kêu gọi khởi động Chương trình Tái bảo hiểm
Thất nghiệp Châu Âu (Gấl, 2020).

Nguồn: Flightradar24 (2020)


Hình 1: Số lượng chuyến bay tồn cầu khi xuất hiện Covid-19

Ngành cơng nghiệp hàng khơng cũng đang phải vật lộn với làn sóng hủy chuyến chưa từng
có và nhu cầu giảm đáng kể trong bối cảnh chính phủ chỉ đạo nghiêm ngặt thực hiện cách xa xã
hội và hạn chế các chuyến du lịch khơng cần thiết. Trên tồn cầu, việc đóng cửa biên giới đang
gia tăng. Các hãng hàng không đã phải cắt giảm đáng kể và trong một số trường hợp phải cắt
giảm đội bay và ngừng hoạt động. Theo Flightradar24 (một website theo dõi các chuyến bay tồn
cầu) thì số lượng chuyến bay thương mại trung bình mỗi ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm 2020
là 100.000 chuyến bay đến tháng 3 năm 2020 là 78.500 chuyến bay và trong tháng 4 năm 2020
là 29.400 chuyến bay. Hình 1 cho thấy số lượng chuyến bay thương mại đã giảm đột ngột theo
chiều hướng xấu.

Nguồn: IATA (2020)

Hình 2: Doanh thu ước tính của ngành hàng khơng trong năm 2020

1601


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Doanh thu của ngành cơng nghiệp hàng khơng ước tính sẽ chỉ đạt khoảng 314 tỷ USD
trong năm 2020, giảm hơn 55% so với năm 2019. Hình 2 cho thấy ước tính khoản lỗ của ngành
cơng nghiệp hàng khơng trong năm 2020 so với năm 2019 tại các khu vực. Nicola & cộng sự
(2020) cho thấy rằng tại Hoa Kỳ, tất cả cơng dân nước ngồi từ Trung Quốc, Iran và một số nước
EU nhất định bị cấm nhập cảnh. Lệnh cấm này bao gồm bất kỳ ai đã đến thăm các quốc gia này
trong vòng 14 ngày trước chuyến đi Mỹ của họ. Bộ Ngoại giao Vương quốc Anh cũng đã khuyến
cáo công dân Vương quốc Anh không nên đi tất cả, trừ các chuyến du lịch quốc tế cần thiết. Tại

châu Âu, chủ tịch ủy ban EU đã đề xuất tất cả các chuyến du lịch không thiết yếu từ bên ngồi
EU bị đình chỉ trong 30 ngày. Việc đình chỉ du lịch cũng đã được thực hiện trên khắp châu Á và
châu Phi (BBC, 2020; Wilson, 2020). Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO) ước tính
sự sụt giảm lưu lượng hành khách quốc tế theo lịch trình trong năm 2020 sẽ tương đương với
việc giảm từ 44 đến 80% lượng hành khách quốc tế (ICAO, 2020). Sân bay Malaysia đã báo cáo
lưu lượng hành khách quốc tế giảm 30% trong tháng Hai (Sobie, 2020). Hội đồng Sân bay Quốc
tế (ACI), tính đến ngày 5 tháng 5, ước tính rằng cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến giảm 4,6 tỷ hành
khách vào năm 2020 (ACI, 2020). Các sân bay có thể đối mặt với thiệt hại tồn cầu 97 tỷ USD
(OECD, 2020b). Chẳng hạn, hãng hàng không của Mỹ đã tìm kiếm một gói cứu trợ của chính
phủ bao gồm 25 tỷ đơ la từ tài trợ, 25 tỷ đô la cho vay và giảm thuế đáng kể để đảm bảo sự tồn
tại (Shepardson & Holland, 2020). Các hãng hàng không của Vương quốc Anh cũng đã kêu gọi
một gói cứu trợ khẩn cấp 7,5 tỷ bảng ngay lập tức để ngăn chặn tình trạng ngừng hoạt động trên
diện rộng. Các bộ trưởng ở Hà Lan cũng đã báo cáo việc thực hiện các chiến lược để đảm bảo
tiếp tục hoạt động của Air France-KLM và sân bay Schiphol của Amsterdam, trong khi Chính
phủ Ý được cho là đã gần kiểm sốt hồn tồn hãng hàng khơng ốm yếu Alitalia (Nicola & cộng
sự, 2020).

Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm cho ngành hàng không ngày càng trầm trọng, nhiều
hãng hàng không trên thế giới đã tuyên bố phá sản. Tại châu Mỹ, có các hàng hãng khơng như
LATAM, Avianca và Aeromexico. Tại châu Á, hãng hàng không Thai Airways đã chính thức nộp
đơn xin phá sản tại Tòa án phá sản Trung ương Thái Lan ngày 26/5. Trong khi đó Ủy ban châu
Âu (EC) ngày 25/6 đã thơng qua gói cứu trợ khổng lồ của Chính phủ Đức dành cho hãng hàng
không Lufthansa. Hiện tại, ngành hàng khơng nội địa có thể sẽ dần phục hồi trong năm nay, tuy
nhiên đường bay quốc tế dự kiến sẽ chỉ phục vụ những chuyến bay được chỉ định hoặc nối lại
các đường bay với số lượng hạn chế.
3.2. Tại Việt Nam

Đại dịch Covid-19 đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng khơng chỉ đến thế giới mà
cịn gây ra những tổn thất nặng nề đến du lịch Việt Nam. Sự tác động thể hiện trên một số các
phương diện như sau:


Thứ nhất là lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã sụt giảm. Tính chung 6 tháng đầu năm
2020, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 3.744,5 nghìn lượt người, giảm 55,8% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng khơng đạt 3.040,5 nghìn lượt người, chiếm
81,2% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, giảm 54,3%; bằng đường bộ đạt 559,6 nghìn lượt
người, chiếm 14,9% và giảm 66,8%; bằng đường biển đạt 144,3 nghìn lượt người, chiếm 3,9%
và tăng 3,7%.
1602


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Bảng 1: Lượng khách quốc tế du lịch đến Việt Nam theo hình thức vận tải

Đơn vị tính: nghìn người

Khách du lịch đến Việt Nam

06 tháng đầu năm 2019

06 tháng đầu năm 2020

Đường bộ

1685,5

559,6

Đường hàng không

Đường biển

6653,2
139,2

3040,5
114,3

Nguồn: Tổng cục thống kê (2020)

Trong 6 tháng đầu năm, khách đến từ châu Á đạt 2.729,6 nghìn lượt người, chiếm 72,9%
tổng số khách quốc tế đến nước ta, giảm 58,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khách đến
từ hầu hết các thị trường chính đều giảm mạnh: Trung Quốc đạt 919,5 nghìn lượt người, giảm
63% so với cùng kỳ năm trước; Hàn Quốc 823 nghìn lượt người, giảm 60,4%; Nhật Bản 201,4
nghìn lượt người, giảm 55,8%; Đài Loan 192,8 nghìn lượt người, giảm 55,2%; Ma-lai-xi-a 116,4
nghìn lượt người, giảm 61%; riêng khách đến từ Cam-pu-chia đạt 120,5 nghìn lượt người, tăng
105,9%.

Khách đến từ châu Âu trong 6 tháng ước tính đạt 666,1 nghìn lượt người, giảm 42% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga 245,7 nghìn lượt người, giảm 31,5%;
Vương quốc Anh 81,6 nghìn lượt người, giảm 50,6%; Pháp 74,6 nghìn lượt người, giảm 51,9%;
Đức 61,5 nghìn lượt người, giảm 48,1%. Khách đến từ châu Mỹ ước tính đạt 234,4 nghìn lượt
người, giảm 54,8% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khách đến từ Hoa Kỳ đạt 172,8 nghìn
lượt người, giảm 56%. Khách đến từ châu Úc đạt 102,3 nghìn lượt người, giảm 54,4%, trong đó
khách đến từ Australia đạt 92,3 nghìn lượt người, giảm 53,9%. Khách đến từ châu Phi đạt 12,1
nghìn lượt người, giảm 46,6% so với cùng kỳ năm 2019.
Bảng 2: Lượng khách quốc tế du lịch đến Việt Nam theo châu lục và quốc gia

Châu Á


Các nước

Trung Quốc

6 tháng đầu năm
2485,1

Hàn Quốc

2078,3

Nhật Bản

455,7

Đài Loan

430,4

Malaysia

298,5

Thái Lan

Campuchia
Châu Âu

201,4
192,8

116,4
36,8

Đức

116,3

155,1
358,7
1603

823,0

26,6

165,2

Liên Bang Nga

919,5

125,7

Vương quốc Anh
Pháp

6 tháng đầu năm

124,6
58,5


Lào

Đơn vị tính: nghìn người

120,5
81,6
74,6
61,5

245,7


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Châu Mỹ

Hoa kì

392,7

172,8

Châu Úc

Australia

200,2


92,3

Châu Phi

Khác

125,9

Khác

24,1
22,7

61,6
10,0
12,1

Nguồn: Tổng cục thống kê (2020)

Thứ hai là các sơ sở lưu trú phải đóng cửa, nhân viên ngành du lịch thất nghiệp.

Diễn biến phức tạp, ảnh hưởng của dịch Covid 19 không chỉ tác động trực tiếp lên số lượng
khách đi du lịch mà còn tác động đến các cơ sở lưu trú. Công suất hoạt động các cơ sở lưu trú
giai đoạn này chỉ đạt 20 - 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Số lượng khách hủy phòng tại các cơ
sở lưu trú tại Hà Nội là hơn 80.613 lượt, số ngày bị hủy phòng khoảng 57.652 ngày. Phân khúc
khách sạn 5 sao tại Hà Nội chỉ đạt công suất 25%.

Các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú tại Đà Nẵng cũng như một số tỉnh thành trên cả nước
tuyên bố đóng cửa trong các đợt thực hiện giãn cách xã hội như hệ thống Silk Queen, Hệ thống
OHG sở hữu các khách sạn 4* & 5* như Oriental Suites Hotel & Spa, O’Gallery Premier Hotel

& Spa, O’Gallery Majestic Hotel & Spa hay Thiên Minh Group với chuỗi khách sạn & tàu Victoria 5*,… Điều này không chỉ ảnh hưởng lớn về mặt tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp mà
còn gây ra những tác động đến tình hình nhân sự ngành du lịch. Theo khảo sát của Hội đồng tư
vấn du lịch Việt Nam (TAB), trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát, có 18% đã cho nghỉ
việc tồn bộ nhân viên, 48% cho nghỉ việc từ 50-80% nhân viên và 75% có các hình thức hỗ trợ
tài chính khác nhau cho một số người lao động bị mất việc. Tại Hà Nội, có khoảng 28199 lao
động trong ngành du lịch nghỉ việc tạm thời. Ở Hồ Chí Minh, 90% khối doanh nghiệp lữ hành
dừng hoạt động, 10% làm ở nhà hoặc trực tuyến, hầu hết cho nhân viên tạm nghỉ việc không
lương. Các khách sạn cho nhân viên nghỉ việc lên tới 80-90% (Hội đồng tư vấn du tịch, 2020).
Thứ ba, doanh thu từ ngành du lịch sụt giảm. Du lịch là một lĩnh vực kinh tế tổng hợp, liên
quan tới nhiều nhóm ngành khác, như: vận chuyển, lưu trú, dịch vụ ăn uống..., vì vậy tác động
của dịch Covid-19 khiến doanh thu tất cả những nhóm ngành này cũng đồng thời sụt giảm.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 234,7 nghìn tỷ đồng,
chiếm 9,9% tổng mức và giảm 18,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 10,2%),
trong đó quý II/2020 giảm mạnh 26,1% do ảnh hưởng của tháng thực hiện giãn cách xã hội.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số
địa phương: Khánh Hòa giảm 60,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 49,4%; thành phố Hồ Chí Minh
giảm 47,3%; Cần Thơ giảm 29,5%; Đà Nẵng giảm 27,1%; Hà Nội giảm 22,8%; Quảng Bình
giảm 20,4%; Quảng Ninh giảm 17,4%; Hải Phịng giảm 13,8%.

Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng ước tính đạt 10,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,4% tổng mức
và giảm 53,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng 12,4%) do việc tạm dừng tiếp
nhận khách du lịch quốc tế để khống chế dịch Covid-19, đồng thời trong tháng Sáu học sinh và

1604


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020


sinh viên chưa nghỉ hè nên du lịch nội địa cịn kém sơi động. Một số địa phương có doanh thu du
lịch lữ hành 6 tháng giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước: Khánh Hòa giảm 73,5%; thành phố
Hồ Chí Minh giảm 71,2%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 66,2%; Quảng Ninh giảm 60,8%; Cần Thơ
giảm 55,8%; Quảng Bình giảm 52,3%; Thanh Hóa giảm 47,1%; Hà Nội giảm 44,2%; Đà Nẵng
giảm 44%; Hải Phòng giảm 28,9%.

Nguồn: Tổng cục thống kê (2020)

Hình 3: Doanh thu ngành dịch vụ Việt Nam 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ 2019

Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 240,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức
và giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó doanh thu của Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 17,4%;
Thanh Hóa giảm 14,7%; Đà Nẵng giảm 13,8%; thành phố Hồ Chí Minh giảm 11,5%; Hà Nội
giảm 8,7%; Cần Thơ giảm 8,4%; Hải Phòng giảm 7,4%.

Vận tải hành khách tháng Sáu năm 2020 ước tính đạt 297,4 triệu lượt khách vận chuyển,
tăng 13,4% so với tháng trước và luân chuyển 12,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3%; quý II năm nay
ước tính đạt 681,1 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 44,4% so với cùng kỳ năm trước và luân
chuyển 29,1 tỷ lượt khách.km, giảm 51,9%. Tính chung 6 tháng, vận tải hành khách đạt 1.812,6
triệu lượt khách vận chuyển, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2019 tăng
10,7%) và luân chuyển 82,4 tỷ lượt khách.km, giảm 32,7% (cùng kỳ năm trước tăng 9,5%), trong
đó vận tải trong nước đạt 1.809,9 triệu lượt khách, giảm 27,2% và 73 tỷ lượt khách.km, giảm
24,6%; vận tải ngoài nước đạt 2,7 triệu lượt khách, giảm 68,6% và 9,4 tỷ lượt khách.km, giảm
63,2%. Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường đều giảm do ảnh hưởng của dịch Covid19 từ những tháng trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ 6 tháng đạt 1.701,9 triệu lượt
khách, giảm 27,8% so với cùng kỳ năm trước và 61,2 tỷ lượt khách.km, giảm 24,4%; đường thủy
nội địa đạt 91,3 triệu lượt khách, giảm 10,3% và gần 2 tỷ lượt khách.km, giảm 12,7%; hàng
không đạt 14,6 triệu lượt khách, giảm 46,1% và 18,2 tỷ lượt khách.km, giảm 51,2%; đường biển
đạt 2,8 triệu lượt khách, giảm 27,4% và 176,9 triệu lượt khách.km, giảm 22,6%; đường sắt đạt 2
triệu lượt khách, giảm 53,7% và 897,1 triệu lượt khách.km, giảm 48,3%.


1605


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Qua những con số thống kê đã cho thấy dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến ngành du
lịch. Đặc biệt, trong giai đoạn thực hiện cách ly xã hội
4. Kết luận

Du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn với nhiều tiềm năng, đa
dạng và phong phú. Năm 2019 là năm thành công của du lịch Việt Nam, không chỉ thể hiện ở các
con số thống kê về lượng khách du lịch quốc tế, nội địa, doanh thu, mà còn là các danh hiệu mà
du lịch Việt Nam đạt được. Tuy nhiên, đầu những năm 2020, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19
đã ảnh hưởng tương đối lớn đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam khơng nằm trong ngoại lệ,
trong đó, ngành Du lịch là ngành chịu ảnh hưởng khá nặng nề. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch
Thế giới (UNWTO), sự ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến ngành Du lịch toàn cầu có thể bị
thiệt hại tương đối lớn vì chính phủ các nước phải áp dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn lây lan
của dịch bệnh như đóng cửa biên giới, dừng các hoạt động vận tải đường hàng không quốc tế và
nội địa… Trong bối cảnh đó, ngành Du lịch Việt Nam cũng chịu những tổn thất nghiêm trọng và
phải đối diện với khơng ít thách thức. Do vậy, việc đề xuất một số giải pháp, chính sách là điều
cần thiết giúp ngành Du lịch có thể vượt qua được những khó khăn trong giai đoạn này.
5. Hàm ý chính sách

Các quốc gia đang ở trong các giai đoạn khác nhau của cuộc khủng hoảng Covid-19 và
trong khi một số quốc gia đang điều chỉnh chính sách cho kế hoạch phục hồi lĩnh vực du lịch.
Tuy nhiên, những chính sách trọng tâm ban đầu là bảo vệ người lao động, du khách và hỗ trợ sự
tồn tại của doanh nghiệp. Trong dài hạn, các nhà hoạch định chính sách cũng đang xem xét những
tác động lâu dài của cuộc khủng hoảng đối với lĩnh vực này và sự chuyển đổi cơ cấu sẽ là cần
thiết để xây dựng kinh tế du lịch bền vững và có khả năng phục hồi trong tương lai.


Sau khi ứng phó với khủng hoảng trước mắt, quá trình chuyển đổi xanh và chuyển đổi kỹ
thuật số sẽ vẫn phù hợp và các quyết định của các nhà hoạch định chính sách sẽ đóng vai trị
quan trọng trong việc định hình ngành du lịch trong bối cảnh hậu Covid-19. Từ cuộc khủng hoảng
Covid-19, các nhà hoạch định chính sách sẽ cải thiện các chiến lược quản lý khủng hoảng nhằm
chuẩn bị tốt hơn để ứng phó với các cú sốc trong tương lai. Cụ thể, khi thiết kế các kế hoạch
phục hồi, các quốc gia cần xác định các lĩnh vực ưu tiên và các thách thức chính. Cụ thể, các
quốc gia cần tư duy lại lĩnh vực du lịch. Cuộc khủng hoảng là cơ hội để phát triển hệ thống du
lịch bền vững nhưng linh hoạt hơn. Sự can thiệp chính sách sẽ là cần thiết để giải quyết các vấn
đề cơ cấu của ngành, tránh quay trở lại các vấn đề về quản lý du lịch (ví dụ: du lịch quá mức) và
thúc đẩy các mơ hình kinh doanh mới, số hóa và gia tặng sự kết nối. Hình thức du lịch có trách
nhiệm như một giải pháp chuyển đổi cần thiết. Điều đầu tiên của Bộ Quy tắc ứng xử toàn cầu về
đạo đức du lịch theo Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) là “Đóng góp của du lịch vào sự hiểu
biết lẫn nhau và tôn trọng giữa con người và xã hội”. Theo đó, du lịch phải được phát triển dựa
trên sự hiểu biết, phát huy các giá trị đạo đức chung cho nhân loại với thái độ khoan dung, tôn
trọng sự đa dạng của tôn giáo, triết học, đạo đức và niềm tin. Đó vừa là nền tảng, vừa là hệ quả
của du lịch có trách nhiệm (UNWTO, 1999). Các phương pháp tiếp cận du lịch có trách nhiệm
được ủng hộ như một giải pháp giải quyết các tác động tiêu cực đến môi trường du lịch cũng như
1606


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

xã hội. Jamal và cộng sự (2013) cho rằng, các phương pháp tiếp cận du lịch có trách nhiệm thể
hiện sự vượt trội hơn so với phương pháp tiếp cận du lịch bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh đó, một
số học giả cũng cho rằng chỉ đơn thuần tiếp cận theo hướng “bền vững” hoặc “có trách nhiệm”
là chưa đủ. Khái niệm du lịch bền vững được ra đời vào những năm 1992, tuy nhiên, đến năm
2002, khái niệm du lịch có trách nhiệm mới ra đời, thể hiện cách thức tiến hành để thực sự hướng
tới phát triển du lịch bền vững. Theo đó, du lịch có trách nhiệm là một cách tiếp cận quản lý du

lịch theo hướng tối đa hố lợi ích kinh tế, xã hội, mơi trường nhưng giảm thiểu tối đa chi phí.
“Cốt lõi của du lịch có trách nhiệm là sự hiểu biết và chấp nhận trách nhiệm. Mọi quyết định và
hành động của chúng ta đều có ảnh hưởng nào đó: tiêu cực hoặc tích cực. Để thực hành du lịch
có trách nhiệm, chúng ta cần phải lấy đạo đức, nguyên tắc và quy luật xã hội ra làm căn cứ chỉ
dẫn, đưa ra các quyết định mang lại lợi ích tích cực nhất cho con người và môi trường xung quanh
chúng ta.” 1

Phương pháp tiếp cận du lịch có trách nhiệm khuyến khích các tác nhân du lịch phải quan
tâm và có trách nhiệm hơn đối với các hoạt động của họ. Whyte’s (2010) đã tiến hành phân tích
trường hợp du lịch địa phương như một ví dụ minh hoạ. Đối với du lịch phát triển theo hướng
cộng đồng, người dân địa phương chính là chủ thể tạo ra các sản phẩm du lịch, duy trì, gìn giữ
văn hố dân tộc, phong tục tập quán của các vùng miền. Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo hay sự
thiếu hiểu biết của người dân địa phương lại là một vấn đề thường nhận được rất ít sự quan tâm,
người dân địa phương thường có kiến thức du lịch rất hạn chế. Do đó, Whyte cho rằng để có thể
phát triển du lịch theo hướng đơi bên cùng có lợi, việc quản lý các điểm đến du lịch cần có sự
tham gia của chính quyền địa phương trong quá trình thực hiện các nguyên tắc quản lý du lịch
có trách nhiệm.

Thời kì hậu Covid-19 là giai đoạn cần thiết phải sử dụng các phương pháp tiếp cận quan
trọng nhằm khơi phục cũng như kích hoạt lại các hoạt động du lịch ở cả trong và ngồi nước.
Một số hình thức can thiệp của chính phủ bao gồm các hoạt động tái phát triển mạng lưới an toàn
xã hội, đẩy mạnh các chiến lược phát triển du lịch theo hướng xã hội hố để đối phó với những
thách thức của cuộc khủng hoảng này. Xã hội hóa du lịch được hiểu là q trình kinh tế diễn ra
sự liên kết các đơn vị, các giai đoạn, các bộ phận làm tăng tính xã hội của các hình thức tổ chức
hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch dựa trên cơ sở phân cơng chun mơn hố. Scott (2006)
giải thích: “Sự hiếu khách sẽ là bước khởi đầu quan trọng trong q trình xã hội hố, từ đó khách
du lịch có thể hồ nhập vào cuộc sống của người dân bản địa”. Theo đó, tất cả các bên cần tham
gia vào quá trình phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững. Q trình đó được thực hiện
bằng việc giải quyết hợp lý các lợi ích kinh tế của các chủ thể dưới sự quản lý của Nhà nước
nhằm đảm bảo các hoạt động du lịch phát triển hiệu quả, bảo vệ môi trường, di sản văn hố,

truyền thống dân tộc. Một số phân tích gần đây trong giai đoạn hậu Covid-19 đã ghi nhận cách
các chính phủ các nước phát triển như Úc, New Zealand, Đan Mạch,… thơng qua các chính sách
“xã hội hố” để ứng phó với khủng hoảng như tư nhân hố một số lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục

1. Du lịch có trách nhiệm khác với các hình thức du lịch bền vững như thế nào? – Tài liệu 8 câu hỏi liên
quan đến du lịch có trách nhiệm của Dự án EU-ESRT

1607


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

nhằm tránh tình trạng bất ổn xã hội lan rộng. Theo đó, xã hội hố du lịch sẽ giúp du lịch có thể
đáp ứng kịp thời những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Hình 4 mơ tả sự thay đổi của hệ thống
du lịch theo sự biến đổi liên tục của xã hội.

Nguồn: Higgins-Desbiolles và cộng sự (2020)

Hình 4: Sự thay đổi của hệ thống du lịch theo sự biến đổi liên tục của xã hội

Trong giai đoạn hiện nay, xã hội hố là một q trình kinh tế khách quan biểu hiện sự phát
triển tính chất xã hội các hình thức hoạt động du lịch. Theo đó, sự liên kết giữa các doanh nghiệp
kinh doanh du lịch dựa trên sự phân công và hợp tác lao động được thực hiện thơng qua sự phân
phối các lợi ích kinh tế giữa các chủ thể dưới sự quản lý của Nhà nước (Wheeler, 2015; Campos
và cộng sự, 2018). Higgins-Desbiolles và cộng sự (2020) đã đưa ra khung du lịch lấy cộng đồng
làm trung tâm theo hình thức xã hội hố như hiện nay. Cụ thể hơn, mơ hình bắt đầu với việc định
nghĩa lại du lịch với quyền của cộng đồng địa phương cao hơn của khách du lịch cũng như các
công ty du lịch. Với cách tiếp cận như trên, du lịch sẽ thay đổi hoàn toàn cách thức tiến hành
(hình 5).


Nguồn: Higgins-Desbiolles và cộng sự (2020)

Hình 5: Sự tác động của mơ hình xã hội hố du lịch
1608


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Cuộc khủng hoảng Covid-19 đã cho thấy tầm quan trọng của cộng đồng, sự kết nối xã hội.
Do đó, hình thức du lịch địa phương hoá sẽ là một hướng đi mới trong tương lai (Higgins-Desbiolles, 2020). Các quốc gia nên tạo sự điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các tập đoàn địa phương trong ngành du lịch (Stiglitz, 2007). Các
mơ hình phát triển theo hướng hợp tác xã, doanh nghiệp xã hội hoạt động phi lợi nhuận cần được
tạo điều kiện hỗ trợ du lịch hơn cả vì lợi ích cộng đồng (Biddulph, 2018). Các hình thức du lịch
cơng ích cần được tạo điều kiện và thúc đẩy, bao gồm du lịch giáo dục, khoa học công dân, du
lịch xã hội, giao lưu cộng đồng,.. Các lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi cho người dân địa phương
hưởng lợi từ du lịch cũng cần được ưu tiên. Các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo vệ môi
trường sinh thái cũng phải được đặt mối quan tâm lên hàng đầu trước mối đe dọa biến đổi khí
hậu, do đó, các loại hình du lịch nên do cộng đồng địa phương quyết định. Thêm vào đó, chính
quyền địa phương cần được tham vấn về các hình thức du lịch được phát triển trong cộng đồng
để định ra quy trình phù hợp. Hình thức xã hội hố du lịch theo hướng phát triển có trách nhiệm
và bền vững cần sự tham gia của tất cả các chủ thể cụ thể như sau:

- Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, mơ hình xã hội hố cần sự tách bạch rõ ràng chức
năng quản lý vĩ mô của nhà nước đối với hoạt động du lịch với kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, trước hết, Nhà nước cần quyết định chiến lược, cũng như những quy hoạch tổng thể cho sự
phát triển của du lịch trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh sử dụng
các công cụ, chính sách bảo vệ mơi trường, kiểm sốt dịch bệnh, khai thác hiệu quả tài nguyên
du lịch, thực hiện phân cấp, giao quyền cho địa phương, tổ chức phối hợp với địa phương, các

ngành trong việc giới thiệu các chương trình du lịch,.. Sự quan tâm của các ngành, các cấp, từ
trung ương đến địa phương phải được thể chế hố, cụ thể hố thơng qua các văn bản quy phạm
pháp luật như hướng dẫn người dân địa phương nên tập trung phát triển những sản phẩm gì, sản
xuất như thế nào để có thể phát huy được điểm mạnh vùng miền cũng như đáp ứng được nhu cầu
của khách du lịch. Khơng những thế, sự quan tâm cịn thể hiện thơng qua việc ban hành các chính
sách khuyến khích các cơng ty du lịch, doanh nghiệp lữ hành tiêu thụ các sản phẩm do người dân
bản địa tạo ra. Có như vậy, bản sắc văn hố dân tộc, đặc trưng vùng miền sẽ được duy trì, bảo
tồn, đồng thời, cũng giúp cho người dân địa phương gia tăng thu nhập, có cơng việc làm ổn định,
xố đói giảm nghèo,..

- Đối với mỗi địa phương, việc xác định phát triển du lịch theo hướng xã hội hố địi hỏi
các địa phương phải đưa ra phương án lựa chọn loại hình sản phẩm để từ đó định hướng phát
triển cho phù hợp. Cụ thể hơn, dựa trên cơ sở những đặc điểm vị trí địa lý, đặc trưng về bản sắc,
văn hoá dân tộc, phong tục tập quán, lối sống, ẩm thực,.. của người dân bản địa, chính quyền địa
phương xác định rõ giá trị cốt lõi, những điểm đặc sắc mang nét riêng để gìn giữ và bảo tồn. Trên
cơ sở đó, địa phương sẽ định hướng phát triển các loại hình du lịch phù hợp với các giá trị, đồng
thời xây dựng các mơ hình du lịch ni dưỡng và phát huy những giá trị văn hố đó. Việc làm
này không chỉ giúp phát huy được lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, sắc
thái văn hoá bản địa của cộng đồng các dân tộc mà cịn giúp cho khách du lịch có cơ hội được
trải nghiệm văn hoá đa dạng của các vùng miền. Có như vậy, việc phát triển du lịch sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương nhưng vẫn tôn trọng những giá trị bản địa, giá trị cộng
đồng theo hướng du lịch có trách nhiệm, đảm bảo theo đúng định hướng phát triển du lịch cộng
1609


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

đồng bền vững. Ngồi ra, chính quyền địa phương cũng cần có các chế độ, chính sách nhằm thu
hút các công ty lữ hành khai thác và liên kết các tour du lịch, đa dạng hố các loại hình du lịch,…


- Về phía các cơng ty du lịch, việc mở rộng liên kết với các hãng, các công ty du lịch nội
địa và quốc tế dựa trên cơ sở phân công hợp lý là một trong những hoạt động được khuyến khích
để tăng cường sức mạnh trong thời kì hậu Covid-19. Bên cạnh đó, các cơng ty cần đa dạng hố
các hình thức du lịch, tour du lịch, kết nối thị trường du lịch nội địa và quốc tế để đưa ra những
sản phẩm du lịch độc đáo nhưng vẫn đậm dấu ấn của địa phương, quốc gia, bản sắc văn hố dân
tộc. Khơng những thế, các cơng ty du lịch cần tham gia vào các việc xây dựng các tuyến, tour,
chương trình du lịch, các chiến dịch quảng bá du lịch của địa phương, tham gia hỗ trợ người dân
địa phương nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ khách, các chương trình tập huấn bồi dưỡng
kiến thức, nghiệp vụ cho người dân tham gia vào các mơ hình du lịch. Việc xây dựng các sản
phẩm du lịch theo hướng đa dạng có thể giúp khách du lịch có cơ hội được tham quan cảnh sắc,
trải nghiệm văn hoá hay tham gia vào một hay một số quy trình sản xuất của người dân địa
phương, tái hiện các trò chơi dân gian, tổ chức các làng nghề truyền thống,…

Thực tế cho thấy, ngành Du lịch Việt Nam sau đại dịch Covid-19 đang gặp những vấn đề
rất lớn trong đó bao gồm các chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với những doanh nghiệp hoạt
động trong ngành khi có khủng hoảng xảy ra. Do đó, mơ hình xã hội hoá với trọng tâm tập trung
vào các địa phương sẽ góp phần nhanh chóng tạo ra những hồi phục nhất định cho ngành Du lịch
trong giai đoạn hậu Covid-19.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

Hội đồng tư vấn du tịch (2020). Báo cáo kết quả khảo sát tại Hội nghị “Giải pháp thúc đẩy
du lịch nội địa và phục hồi du lịch quốc tế hậu Covid-19”.

Tổng cục Thống kê (2020). Báo cáo tình hình kinh tế sáu tháng đầu năm 2020.
/>Tiếng Anh

ACI (2020). Economic impact assessment of COVID-19 on the airport business. ACI Publishing.


Ahern, B. (2020). MGM Resorts international statement on temporary closure of Las Vegas
properties. />
Aljazeera
(2020).
Timeline:
How
the
new
coronavirus
spread.
h t t p s : / / w w w. a l j a z e e r a . c o m / n e w s / 2 0 2 0 / 0 1 / t i m e l i n e - c h i n a - c o r o n a v i r u s - s p r e a d 200126061554884.html
BBC (2020). Coronavirus: Britons urged to avoid non-essential travel abroad.
/>
Brodeur, A., Gray, D. M., Islam, A., & Bhuiyan, S. (2020). A Literature Review of the Economics of COVID-19. IZA DP No. 13411, Institute of Labor Economics.
1610


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Campos, M. J. Z., Hall, C. M., & Backlund, S. (2018). Can MNCs promote more inclusive
tourism? Apollo tour operator’s sustainability work. Tourism Geographies, 20(4), 630–652.

Dong, E., Du, H., & Gardner, L. (2020). An interactive web-based dashboard to track
COVID-19 in real time. The Lancet Infectious Diseases, 20(5), 533-534.

Dunford, D., Dale, B., Stylianou, N., Lowther, E., Ahmed, M., & dan Arenas, I. d. l. T.
(2020).
Coronavirus:

The
world
in
lockdown
in
maps
and
charts.
/>
Faus, J. (2020). This is how coronavirus could affect the travel and tourism industry.
/>
Gaál, B. (2020). Tourism alliance demands measures to reduce COVID-19 impact.
/>
Higgins-Desbiolles, F. (2020). Socialising tourism for social and ecological justice after
COVID-19. Tourism Geographies, 22(3), 1-14.

ICAO (2020). Effects of Novel Coronavirus (COVID-19) on Civil Aviation: Economic Impact Analysis. ICAO.
ILO (2020). The impact of COVID-19 on the tourism sector. ILO Brief.

Jamal, T., Camargo, B., & Wilson, E. (2013). Critical omissions and new directions for
sustainable tourism: A situated macro–micro approach. Sustainability, 5(11), 4594–4613.

Johns Hopkins University (2020). COVID-19 Data Repository by the Center for Systems
Science and Engineering (CSSE) at Johns Hopkins University. />
Niessen, C. (2020). Coronavirus hits German hotel industry hard: more than every-3-guests
stay away. />
Novelli, M., Gussing Burgess, L., Jones, A., & Ritchie, B. W. (2018). ‘No Ebola…stilldoomed’ – The Ebola-induced tourism crisis. Annals of Tourism Research, 70, 76–87.

Nicola, M., Alsafi, Z., Sohrabi, C., Kerwan, A., Al-Jabir, A., Iosifidis, C., Agha, M. & Agha,
R. (2020). The socio-economic implications of the coronavirus and COVID-19 pandemic: a review. International Journal of Surgery, 78, 185-193.

OECD (2020a). OECD Tourism Trends and Policies 2020. OECD Publishing.

OECD (2020b). Tourism Policy Responses to the coronavirus (COVID-19). OECD Publishing.

Pollinger, S. (2020). Optimal Case Detection and Social Distancing Policies to Suppress
COVID-19. Covid Economics, 23, 152-187.
Scott, D. G. (2006). Socialising the stranger: Hospitality as a relational reality (Dissertation,
March).
1611


INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020

Sigala, M. (2020). Tourism and COVID-19: impacts and implications for advancing and
resetting industry and research. Journal of Business Research, 117(2020), 312–321.

Shepardson, D., & Holland, S. (2020). U.S. airlines seek $50 billion coronavirus bailout
to
avoid
collapse.
/>
Sobie, B. (2020). Commentary: COVID-19, the biggest crisis ever for Singapore’s aviation
industry and Singapore Airlines. />UNWTO (1999). The global code of ethics for tourism. ethics-for-tourism.

UNWTO (2020a, April 1). Message from Madrid: Tourism and Covid-19.
news/madrid-tourism-covid-19.

UNWTO (2020b). Supporting jobs and economies through travel and tourism. World
Tourism Organization.


Wheeler, S. (2015). Global production, CSR and human rights: the courts of public opinion
and the social licence to operate. The International Journal of Human Rights, 19(6), 757–778.

WHO (2020). WHO Timeline - COVID-19. />
Whyte, K. (2010). An environmental justice framework for Indigenous tourism. Journal
of Environmental Philosophy, 7(2), 75–92.

Wilson, A. (2020). Coronavirus travel updates: which countries have restrictions and FCO
warnings in place? />
1612



×