INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC ĐIỂM HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
NIÊM YẾT TRÊN SÀN GIAO DỊCH CHỨNG KHỐN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tóm tắt
ThS. Hồng Thị Phương Anh; ThS. Vũ Minh Hà
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm định ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng
quản trị đến hiệu quả hoạt động của 10 ngân hàng niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khốn
Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn từ năm 2010-2018. Bằng việc sử dụng mơ hình
mơ hình tác động ngẫu nhiên có hiệu chỉnh Robust Error, kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy rằng tỷ lệ thành viên nữ trong hội đồng quản trị có mối tương quan cùng chiều có ý nghĩa
thống kê với hiệu quả hoạt động và số lượng các cuộc họp của hội đồng quản trị có mối tương
quan ngược chiều với hiệu quả hoạt động cơng ty.
Từ khóa: Quản trị công ty, hiệu quả hoạt động, hội đồng quản trị, hoạt động ngân hàng,
đa dạng giới tính
Abstract
This study is designed to test the effect of board characteristics on the performance of 10
banks listed on the Ho Chi Minh Stock Exchange (HOSE) in the period from 2010-2018. By using
random effect model with Robust Standard errors, empirical research results show that the proportion of female board members has a statistically significant positive correlation with performance and the number of board meetings were negatively correlated with firm performance.
Keywords: Corporate governance, performance, board of directors, banking, gender
diversity
1. Giới thiệu
Chủ đề nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp ngày càng được chú ý trong hơn hai thập niên
gần đây. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, hệ thống tài tài chính quốc tế bị lung
lay, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế toàn cầu, mà một trong
những nguyên nhân sâu xa gây ra cuộc khủng hoản này là do những yếu kém sai lầm trong quản
trị công ty, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng. Việc cải thiện cấu trúc quản trị của công ty hầu
hết được chấp nhận là nền tảng cho các hoạt động kinh tế lâu dài của các công ty. Cấu trúc quản
trị công ty được cho là tốt khi nó giúp giảm thiểu rủi ro, thu hút nhà đầu tư, tận dụng các cơ hội
đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động công ty cũng như năng lực cạnh tranh, trong bối cảnh
nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng. Quản trị
công ty hiệu quả giúp các doanh nghiệp giảm thiểu tổn thương trước các cuộc khủng hoảng, giúp
1288
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
“thúc đẩy các giá trị kinh tế gia tăng của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động có năng
suất cao hơn và giảm rủi ro tài chính hệ thống cho các quốc gia” (-International Finance Corporation và Ủy ban Chứng khốn Nhà nước, 2006). Cùng với đó là khn khổ pháp lý ở Việt Nam
vẫn đang trong giai đoạn phát triển và chỉ mới đưa vào áp dụng các quy định về quản trị công ty.
Các văn bản quy phạm về quản trị cơng ty mang tính bắt buộc cịn ít chỉ có Nghị định
71/2017/NĐ-CP ngày 6/6/2017 của Chính phủ hướng dẫn về quản trị công ty áp dụng cho công
ty đại chúng; Thông tư 95/2017/TT-BTC ngày 22/9/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số
điều của Nghị định số 71/2017/NĐ-CP; Thơng tư 155/2015/TT-BTC ngày 6/10/2015 của Bộ Tài
chính hướng dẫn cơng bố thơng tin trên thị trường chứng khốn, cịn các tài liệu khác liên quan
đến quản trị cơng ty thì cũng có nhưng khơng bắt buộc thực hiện như hướng dẫn thực thi quản
trị công ty theo nguyên tắc của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Sổ tay quản trị
công ty, các Báo cáo thẻ điểm quản trị công ty. Trong khi các nước trên thế giới đã và đang cập
nhật các quy chế quản trị công ty vào hệ thống luật pháp của quốc gia, thì ở Việt Nam vẫn cịn
sử dụng các quy chế quản trị công ty được ban hành từ nhiều năm trước. Trong “Báo cáo đánh
giá quản trị công ty các doanh nghiệp niên yết tại Việt Nam năm 2018”, sau khi xây dựng các
tiêu chí đánh giá, thang điểm đánh giá từ 0-104, các doanh nghiệp được chọn để thực hiện đánh
giá bao gồm các doanh nghiệp nằm trong danh mục chỉ số VNX Allshare - các doanh nghiệp
đảm bảo về các chỉ số vốn hóa, tỷ lệ tự do chuyển nhượng và thanh khoản, cho thấy có 70 %
doanh nghiệp được chọn đánh giá có điểm từ 50-70, các doanh nghiệp đạt trên 70 điểm chỉ chiếm
4% doanh nghiệp được chọn đánh giá, các doanh nghiệp chỉ đạt 64,4% yêu cầu tuân thủ và 31,7%
yêu cầu thông lệ tốt. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự chú trọng vào quản trị cơng
ty, hoặc có chăng là họ chỉ dừng lại ở mức tuân thủ pháp luật, còn việc áp dụng các quy chế quản
trị tiên tiến cịn hạn chế. “Việc đáp ứng quản trị cơng ty theo tiêu chuẩn thẻ điểm của Quản trị
công ty Việt Nam (VCGS - Viet Nam Corporate Governance Score) vẫn còn là thách thức với đa
số doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Tại Việt Nam, khuôn khổ quản trị doanh nghiệp chỉ mới
ở giai đoạn đầu phát triển. Trong giới học thuật, quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam đã được
Nguyen (2008) tiếp cận nhiều góc độ pháp luật và xem xét pháp lý, xem xét định tính của Le và
Walker (2008) và cách tiếp cận định lượng của Võ và Phan (2013a, b, c, d). Tuy nhiên, mặc dù
các nghiên cứu của Vo và Phan (2013) đã đề cập đến một loạt các vấn đề liên quan đến quản trị
doanh nghiệp, ước tính của họ về hiệu suất của các công ty là tương đối hạn chế. Do đó, tầm
quan trọng của chủ đề về quản trị doanh nghiệp và nới lỏng các hạn chế đối với các phép đo hiệu
suất của công ty đã cung cấp các lý do chính để thực hiện nghiên cứu này để cung cấp bằng
chứng thực nghiệm khác về vấn đề này để tranh luận them.
Ngân hàng đóng một vai trị quan trọng trong nền kinh tế, là trung gian tài chính, cung cấp
và phân bổ vốn cho nền kinh tế, là kênh truyền dẫn các chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà
nước, do đó vấn đề quản trị cơng ty trong lĩnh vực ngân hàng lại càng quan trọng hơn. Một sự
bất ổn trong hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia. Các nghiên cứu trước
đây hầu như chỉ nghiên cứu sự tác động của quản tri công ty đối với các doanh nghiệp sản xuất,
các doanh nghiệp phi tài chính. Cùng với đó là có sự khác biệt giữa quản trị cơng ty và quản trị
ngân hàng là do: Quy mô ảnh hưởng của ngân hàng lớn hơn các cơng ty phi tài chính; hoạt động
ngân hàng sử dụng đòn bẩy lớn hơn rất nhiều so với cơng ty tài chính; hoạt động của ngân hàng
1289
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
chịu nhiều áp đặt của các quy tắc; cấu trúc vốn phức tạp hơn các cơng ty phi tài chính; tính phức
tạp của hoạt động ngân hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của quản trị công ty trong các ngân
hàng đối với hiệu quả hoạt động, bài nghiên cứu đưa ra cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa quản
trị công ty và hiệu quả hoạt động. Dựa trên các cơ sở lý luận đó, tác giả tiến hành kiểm định thực
nghiệm đối với các ngân hàng niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh. Từ cơ sở lý luận và các kết quả thực nghiệm sẽ góp phần nâng cao nhận thức của doanh
nghiệp về quản trị cơng ty, từ đó có thể áp dụng vào thực tiễn kinh doanh.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là kiểm định nhằm đưa ra bằng chứng về sự
tác động của đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
niêm yết trên Sàn Giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh.
Với mục tiêu nghiên cứu đã nêu, tác giả đặt ra những câu hỏi nghiên cứu như sau:
Có hay khơng tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động?
Các đặc điểm của hội đồng quản trị tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp?
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1 Các nghiên cứu ngồi nước
Theo Williamson (1988), cơng ty sẽ tổ chức các giao dịch nhằm tối thiểu hóa chi phí giao
dịch (giảm bớt được tính duy lý hạn chế, đồng thời bảo vệ các giao dịch này khỏi những rủi ro
của tính cơ hội chủ nghĩa). Tính duy lý hạn chế được hiểu là hành vi duy lý một cách chú ý,
nhưng chỉ duy lý một cách có giới hạn và cơ hội chủ nghĩa, đó là điều kiện tìm kiếm lợi ích riêng
với sự láu cá. Arrow (1969) đã định nghĩa các chi phí giao dịch là “các chi phí vận hành hệ thống
kinh tế”. Bài nghiên cứu cũng đưa đến nhận định sau: “lợi thế kinh tế do chi phí giao dịch được
hiện thực hóa bằng cách gán các giao dịch (vốn có các thuộc tính khác nhau) với các cấu trúc
quản trị (vốn là những khung tổ chức mà trong khung này tính tồn vẹn của quan hệ hợp đồng
được quyết định) theo một cách thức phân biệt sáng suốt. Vì vậy, cần phải nhận dạng các thuộc
tính xác định của các giao dịch, cần phải mơ tả các thuộc tính thích nghi và động cơ khuyến khích
của các cấu trúc quản trị thay thế khác nhau”. Xem xét công ty là một tổ chức kinh tế, lợi ích
cơng ty sẽ được tối đa khi tối thiểu hóa chi phí giao dịch bằng cách sử dụng các cấu trúc quản trị
công ty phù hợp. Một doanh nghiệp có hệ thống quản trị yếu kém làm giảm niềm tin của các nhà
đầu tư và ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư bên ngoài. Ở một nghiên cứu thực nghiệm khác,
Bhagat và Bolton (2008) cũng chỉ ra rằng quản trị doanh nghiệp tốt có ảnh hưởng tích cực đến
thành quả hoạt động của cơng ty. Claessens (2006) khẳng định, quản trị doanh nghiệp hiệu quả
sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng thu hút được nguồn vốn từ bên ngồi, từ đó giảm chi phí vốn, gia
tăng hiệu quả hoạt động. Theo Kang và cộng sự (2007) và Ferreira (2010), cấu trúc hội đồng
quản trị cùng với sự đa dạng về nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác, dân tộc, v.v ... có hiệu quả
trong việc bảo vệ tốt hơn lợi ích của cổ đơng và các bên liên quan khác cũng như là nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty. Kang và cộng sự (2007) cho rằng khả năng áp dụng cấu trúc
quản trị công ty của nước này cho nước khác là hạn chế, khó thực hiện do sự khác biệt giữa các
quốc gia về mơi trường pháp lý kinh tế, văn hóa, quy mô thị trường. Sự đa dạng của hội đồng
1290
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
quản trị như một khái niệm quản trị doanh nghiệp gần đây đã thu hút sự chú ý của các nhà hoạch
định chính sách, nhà quản lý, giám đốc, cổ đơng và các nhà nghiên cứu khoa học tài chính (Johansen, 2008).
Shrader và cộng sự (1997) đã kiểm chứng mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính của cơng ty
với sự đa dạng giới tính ở cấp quản lý cấp trung và cấp cao, một cơng ty có tỷ lệ nữ giới cao
thường có ROS, ROA, ROI và ROE cao. Kết quả cho thấy có mối quan hệ tích cực về sự đa dạng
giới tính của hội đồng quản trị đối với hiệu suất hoạt động. Burke (2000) đã tìm thấy các hệ số
tương quan dương đáng kể giữa số lượng giám đốc nữ và doanh thu, tài sản và khả năng sinh lợi
cho các công ty Canada. Fondas (2000) lập luận rằng sự hiện diện của các nữ thành viên hội đồng
quản trị giúp hội đồng quản trị thực hiện các chức năng chiến lược, nữ giới có nhiều lợi thế hơn
về các kỹ năng để hiểu khách hàng và thị trường, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng việc có sự xuất
hiện của thành viên nữ đồng thời cũng là thành viên độc lập trong hội đồng quản trị thể hiện tính
độc lập và khách quan của hội đồng quản trị. Farrell và Hersch (2005), nghiên cứu đã phân tích
273 cơng ty niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ trong giai đoạn 2011 đến 2015,
xem xét tác động của thành viên nữ trong hội đồng quản trị và chính sách cổ tức, phát hiện ra
rằng thành viên nữ trong hội đồng quản trị thường đại diện tốt hơn cho lợi ích của cổ đơng. Smith
và cộng sự (2006), nghiên cứu dựa trên mẫu dữ liệu bao gồm 2500 công ty ở Đan Mạch từ 19932001, tiết lộ rằng tỷ lệ nữ cao trong nhóm các cơng việc quản lý công ty, hàm ý bao gồm cả thành
viên hội đồng quản trị là nữ, có xu hướng có tác động tích cực đến hiệu suất cơng ty. Adams và
Ferreira (2009), với mẫu dữ liệu gồm 8.253 quan sát của các công ty thuộc Standard & Poor’s
(S&P) 500, S&P MidCaps 400, and S&P SmallCap 600 vào khoảng hơn 1500 công ty, phát hiện
ra rằng thành viên nữ trong hội đồng quản trị giúp cải thiệu hiệu quả hoạt động của hội đồng
quản trị. Theo Yermack (1996), với nghiên cứu sử dụng số liệu của 452 tập đồn cơng nghiệp
lớn tại Mỹ, quy mơ hội đồng quản trị có mối quan hệ ngược chiều với hiệu suất hoạt động, vì vậy
khi quy mơ hội đồng tăng lên sẽ nảy sinh vấn đề tương tác, phối hợp và giảm khả năng quản lý
của hội đồng quản trị, các quyết định sẽ khó được sự đồng thuận của tất cả các thành viên, từ đó
dẫn đến các vấn đề đại diện, hiệu quả của các quyết định. Nghiên cứu của Rashid và Islam (2013),
xem xét mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động tại thị trường đang phát triển
Malaysia lại tìm thấy kết quả cũng cho thấy quy mơ hội đồng quản trị lớn hơn có thể thực hiện
phối hợp, tương tác và ra quyết định tốt hơn so với các hội đồng quản trị nhỏ hơn. Sami và cộng
sự (2011) nhận thấy rằng các công ty có hệ thống quản trị tốt hơn sẽ có hiệu quả hoạt động cao
hơn và được định giá cao hơn.
Dalton và cộng sự (1998) đã phát hiện ra rằng có mối quan hệ giữa thành viên độc lập của
hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm của CEO và hiệu suất công ty. Kết quả cho thấy rằng cả thành
phần độc lập của hội đồng quản trị cũng như cơ cấu lãnh đạo hội đồng quản trị (sự kiêm nhiệm
của CEO) ln có mối quan hệ chặt chẽ với hiệu suất cơng ty. Rhoades và cộng sự (2001) đã tìm
thấy một mối quan hệ đáng kể giữa sự kiêm nhiệm của CEO và hiệu suất công ty. Chen và Jaggi
(2000) đã xem xét mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, hiệu quả hoạt động và chính sách cổ tức
trong các cơng ty hoạt động tại Hồng Kơng và tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa sự kiêm nhiệm
và Tobin Q (đối với các công ty lớn), nhưng không có mối quan hệ nào được tìm thấy giữa sự
kiêm nhiệm và lợi nhuận trên tài sản (ROA) hoặc lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Abdul
1291
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
và cộng sự (2006) lập luận rằng số lượng cuộc họp ủy ban kiểm tốn ít hơn sẽ cải thiện hiệu quả
tài chính của cơng ty vì nó làm giảm chi phí phát sinh thêm trong cuộc họp.
Majumdar (1997) chỉ ra rằng có một mối quan hệ trái chiều giữa địn bẩy và hiệu suất cơng
ty. Peni và Vahamaa (2012) đã điều tra rằng quy mơ doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đáng
kể đến lợi nhuận của cơng ty. Burson (2007) đã tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô
doanh nghiệp và lợi nhuận công ty. Finch và Shivdasani (2006) chỉ ra rằng các nhà quản trị nắm
giữ hơn 3 vị trí sẽ dẫn đến một hệ thống quản trị yếu kém, làm giảm hiệu quả hoạt động. Mangena
và Tauringana (2008) lập luận rằng có mối quan hệ tích cực giữa tần suất của các cuộc họp Hội
đồng quản trị và hiệu quả hoạt động của một công ty. Adnan (2011) nhận thấy rằng trong số các
biến quản trị doanh nghiệp, quy mô hội đồng quản trị nhỏ hơn và tỷ lệ sở hữu khối cao hơn dường
như luôn dẫn đến hiệu quả tốt hơn. Tuy nhiên, phần còn lại của các biến quản trị doanh nghiệp
dường như khơng có tác động đáng kể và rõ ràng đến hiệu quả hoạt động.
Nghiên cứu của Othman (2014), xem xét tác động của quản trị công ty lên hiệu quả hoạt
động của 80 công ty trên thị trường tài chính Dubai, trong giai đoạn 2010-2011. Kết quả cho thấy
rằng một cấu trúc quản trị công ty tốt giúp cải thiện hiệu quả hoạt động. Danoshana và Ravivathani (2013), kết luận rằng có ảnh hưởng giữa quản trị cơng ty lên thành quả hoạt động của 25
trung gian tài chính ở Sri Lanka giai đoạn từ năm 2008-2012, biến phụ thuộc bao gồm: ROA và
ROE; biến độc lập có tác động đến hiệu quả hoạt động như: quy mô hội đồng quản trị, mức độ
thường xuyên của các cuộc họp hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Nghiên cứu của Al-Sahafi
và cộng sự (2015), sử dụng mẫu nghiên cứu của 11 ngân hàng tại Saudi Arabia, giai đoạn 20092012, tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động
được đo lường bằng các biến ROE, ROA, Tobin’Q; mối quan hệ ngược chiều giữa hiệu quả hoạt
động và mức độ sử dụng địn bẩy tài chính; ảnh hưởng của đặc điểm ban kiểm sốt (quy mơ,
thành viên độc lập) lên hiệu quả hoạt động khơng được tìm thấy trong nghiên cứu này. Naushad
and Malik (2015), lựa chọn mẫu nghiên cứu bao gồm 24 ngân hàng trong Hội đồng Hợp tác Vùng
Vịnh (GCC - Gulf Cooperation Council), trong giai đoạn 2013-2014, kết luận quy mô hội đồng
quản trị nhỏ mang lại hiệu quả giám sát cao (Soba, Erem & Ceylan, 2016), xem xét mối quan hệ
giữ quản trị công ty và hiệu quả hoạt động, dữ liệu được sử dụng bao gồm 10 ngân hàng ở Thổ
Nhĩ Kỳ giai đoạn 2005-2015, cho thấy quy mô hội đồng quản trị cũng như là các ủy ban có mối
quan hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động ngân hàng. Grove và cộng sự (2011) đã thực hiện
một nghiên cứu trên 236 ngân hàng thương mại đại chúng ở Hoa Kỳ từ năm 2005-2008 để tìm
hiểu tác động quản trị doanh nghiệp đối với hoạt động của ngân hàng, tìm thấy quy mơ hội đồng
quản trị có mối tương quan ngược chiều với hiệu quả hoạt động.
2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Trong bài nghiên cứu của Vo & Nguyen (2014) cũng cho thấy rằng một số đặc điểm của
Hội đồng quản trị có tác động đến hiệu quả hoạt động của công ty, ủng hộ việc quản trị cơng ty
có tác động đến thành quả hoạt động, họ cho rằng các công ty phải chăng nên cho CEO và Chủ
tịch Hội đồng quản trị là một người, vì trong kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khi có sự kiêm nhiệm
này ảnh hưởng tích cực đến thành quả cơng ty. Việc lương thưởng cho CEO không nên là thưởng
bằng cổ phiếu mà nên thưởng bằng tiền mặt vì theo kết quả nghiên cứu thì sở hữu cổ phiếu cao
1292
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
của CEO không làm tăng hiệu suất công ty. Lê Quang Cảnh, Lương Thái Bảo và Nguyễn Vũ Gia
Hùng (2015) thực hiện nghiên cứu quản trị công ty với hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp tư
nhân lớn ở Việt Nam với mẫu là 500 doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam trong năm 2013 cho
thấy, quản trị công ty tốt sẽ mang lại hiệu quả hoạt động tốt hơn cho doanh nghiệp.
Xem xét mối quan hệ giữa quản trị công ty và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt
Nam, Nguyễn Mạnh Hà (2016) sử dụng các biến quy mô hội đồng quản trị, số lượng thành viên
nữ, trình độ học vấn của hội đồng quản trị, kinh nghiệm của Hội đồng quản trị, số lượng thành
viên độc lập của hội đồng quản trị và cổ đông lớn đại diện cho biến quản trị công ty, nghiên cứu
dữ liệu của 16 ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2014. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng, quy mô hội đồng quản trị có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động;
thời gian hoạt động, cổ đông lớn, số lượng thành viên độc lập trong hội đồng quản trị có mối
quan hệ nghịch chiều với hiệu suất hoạt động; các biến còn lại khơng có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Đào Thị Thanh Bình và Hồng Thị Hương Giang (2012): Dữ liệu nghiên
cứu bao gồm 11 ngân hàng trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2011. Bài nghiên cứu sử dụng các
biến quy mô hội đồng quản trị, sở hữu nước ngồi đại diện cho quản trị cơng ty, biến kiểm sốt
được sử dụng là hệ số an tồn vốn. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng quy mô hội đồng quản trị
có tác động tích cực với hiệu quả hoạt động ngân hàng, tác giả cho rằng kinh nghiệm và năng lực
của thành viên hội đồng quản trị sẽ đa dạng hơn so với một hội đồng quản trị có quy mơ nhỏ
hơn, điều đó giúp hội đồng quản trị đưa ra các quyết định được chính xác hơn. Sở hữu nước
ngồi có mối quan hệ ngược chiều với hiệu quả hoạt động, lý do được đưa ra là mặc dù các tổ
chức nước ngồi có kinh nghiệm, chun mơn về quản trị công ty cao hơn Việt Nam nhưng do
các tổ chức này chỉ dừng lại ở mức góp vốn và không chuyển giao các kinh nghiệm và chuyên
môn đó nên lợi ích từ đầu tư nước ngồi vào ngân hàng không nhất thiết làm tăng hiệu quả hoạt
động, cùng với đó là các quan niệm về đầu tư giữa trong nước và ngồi nước có sự khác biệt,
một bộ phận lãnh đạo có thể khó chấp nhận các tiến bộ mới trên thế giới, lo sợ rằng khi áp dụng
các nguyên tắc mới các ngân hàng có thể bị thâu tóm. Thời gian được chọn để làm mẫu nghiên
cứu ngắn, do đó có thể mối quan hệ giữa sở hữu nước ngồi và hiệu quả hoạt động có thể khơng
được rõ ràng, điều đó hàm ý rằng cần có thời gian dài hơn (từ khoảng 10 năm) để có cái nhìn
khách quan hơn về sở hữu nước ngồi và hiệu quả hoạt động ngân hàng. Tác giả cũng cho rằng,
giai đoạn nghiên cứu nằm trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, do đó các
ước lượng có thể cá biệt và thay đổi khi xem xét ở khung thời gian dài hơn. Mức độ ảnh hưởng
của quản trị công ty lên hiệu quả hoạt động cũng khác nhau giữa các thị trường khác nhau.
2.3. Các giả thiết nghiên cứu
Với những tìm hiều về các nghiên cứu về ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị đến
hiệu quả hoạt động của công ty, tác giả đã xây dựng hệ thống giả thiết nghiên cứu như sau:
H1: Sự đa dạng về giới tính trong Hội đồng quản trị có tác động đến thành quả cơng ty
Erhardt và cộng sự (2003) lập luận rằng các phân tích tương quan và hồi quy về tính đa
dạng của hội đồng có liên quan tích cực với các chỉ số tài chính về hiệu suất của cơng ty. Adler
(2001) cho thấy một mối tương quan mạnh mẽ giữa các công ty thân thiện với nữ giới và lợi
nhuận của cơng ty. Carter và cộng sự (2003) đã tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa sự đa
1293
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
dạng của hội đồng quản trị (về nữ giới và dân tộc thiểu số) và giá trị doanh nghiệp. Smith và
cộng sự (2006) đã xem xét ba lý do khác nhau để nhận ra tầm quan trọng của nữ giới trong Hội
đồng quản trị. Đầu tiên, các thành viên hội đồng quản trị nữ thường hiểu rõ hơn về thị trường so
với các thành viên nam. Như vậy, sự hiểu biết này sẽ tăng cường các quyết định của hội đồng
quản trị. Thứ hai, các thành viên hội đồng quản trị nữ sẽ mang lại hình ảnh tốt hơn trong nhận
thức của cộng đồng đối với một công ty và điều này sẽ đóng góp tích cực vào hiệu suất của công
ty. Thứ ba, các thành viên hội đồng quản trị khác sẽ tăng cường hiểu biết về môi trường kinh
doanh khi các thành viên hội đồng quản trị nữ được bổ nhiệm. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng
chỉ ra rằng các thành viên hội đồng quản trị nữ có thể ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển nghề
nghiệp của nhân viên nữ cơ sở trong một doanh nghiệp. Do đó, hiệu suất của cơng ty được cải
thiện trực tiếp và gián tiếp với sự có mặt của các thành viên hội đồng quản trị nữ.
H2: Quy mô hội đồng quản trị có tác động đến thành quả hoạt động của công ty
Jensen (1994) tiết lộ rằng quy mô hội đồng quản trị lớn hoạt động kém hiệu quả hơn một
hội đồng quản trị có quy mơ nhỏ, ơng cho rằng kích thước bảng tối ưu nên từ 7 đến 9 thành
viên. Yermack (1996) và Ozkan (2011) ủng hộ lập luận quy mô hội đồng quản trị nhỏ mang lại
hiệu quả hoạt động tốt hơn, là do các thành viên trong hội đồng quản trị dễ dàng tương tác, hạn
chế các xung đột, bất đồng quan điểm. Chancharat và cộng sự (2012) cho rằng quy mô hội đồng
quản trị nhỏ giúp tăng khả năng phối hợp giữa các thành viên, giảm thiểu vấn đề “kẻ thụ hưởng
miễn phí” (free-rider). Tuy nhiên, Johl và cộng sự (2015) chỉ ra rằng quy mơ hội đồng quản trị
có liên quan tích cực đến hiệu suất của công ty. Monks và Minow (1995), Uadiale (2010) cho
rằng quy mơ hội đồng quản trị có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, quy mơ hội đồng
lớn thì mang lại hiệu quả tốt hơn một hội đồng quản trị có quy mơ nhỏ hơn là do các thành viên
có nhiều kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hơn, việc giám sát Ban điều hành của Hội đồng quản trị
trở nên sát sao hơn, do công việc được phân bổ cho nhiều người (Reddy và cộng sự, 2010). Dalton và cộng sự (1998) cho thấy một mối quan hệ tích cực giữa kích thước bảng và hiệu suất
công ty. Nuryanah và Islam (2011) đã chỉ ra rằng quy mơ hội đồng quản trị càng lớn thì hiệu
suất của cơng ty càng tốt.
H3: Ban kiểm tốn của cơng ty có tác động đên thành quả hoạt động công ty
DrorParnesa (2011) phát hiện ra rằng một ủy ban kiểm toán hiệu quả được đo lường bởi
một số lượng lớn các chuyên gia trong ủy ban giúp tăng cường chất lượng báo cáo tài chính. Abbott và Parker (2000) cho thấy mối quan hệ nghịch đảo đáng kể giữa ủy ban kiểm tốn và hoạt
động của cơng ty. Kyereboah-Coleman (2008) cho rằng các cuộc họp thường xuyên của ban kiểm
tốn có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động. Anderson và cộng sự (2004) cho thấy quy mô
của ủy ban kiểm toán lớn tạo ra nhiều nguồn lực hơn từ đó tăng khả năng giám sát các hệ thống
báo cáo tài chính và kiểm sốt nội bộ trong một cơng ty do đó hiệu quả hoạt động được nâng
cao, tạo điều kiện thảo luận giữa các thành viên ủy ban kiểm toán (DeZoort and Salterio, 2001).
H4: Số lượng các cuộc họp của Hội đồng quản trị tác động đến thành quả công ty
Ntim (2009), Ntim và Osei (2011) phát hiện ra rằng tần suất họp hội đồng quản trị cao hơn
có thể dẫn đến chất lượng giám sát quản lý cao hơn và do đó tác động tích cực đến hiệu quả tài
chính doanh nghiệp. Peng và cộng sự (2007) tiết lộ rằng tham dự cuộc họp thường xuyên được
1294
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
coi là một đặc điểm của giám đốc có trách nhiệm. Vafeas (1999) cho rằng tần suất các cuộc họp
hội đồng quản trị có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của công ty do các cuộc họp gây
ra các tổn thất về thời gian cũng như là tiền của, tuy nhiên nghiên cứu cũng nhận thấy hiệu quả
hoạt động của công ty tăng lên một năm sau đó là do tần suất xảy ra các cuộc họp thường xuyên,
các quyết định được thảo luận kỹ và hiệu quả, cũng như là chức năng giám sát của hội đồng quản
trị được thực hiên tối đa, từ đó cải thiện hoạt động kinh doanh; các doanh nghiệp có kinh nghiệm
sẽ tổ chức các cuộc hợp với tần suất thích hợp điều đó khơng chỉ giảm các chi phí mà cịn tạo ra
giá trị gia tăng cho cơng ty. Irshad và Ali (2015) đã phát hiện ra rằng tỷ lệ thành viên hội đồng
quản trị độc lập, tần suất các cuộc họp và quy mơ hội đồng quản trị có ảnh hưởng tích cực đến
hiệu suất của cơng ty được đo thông qua chỉ số Tobin’Q và tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản
(ROA).
H5: Quy mơ cơng ty có tác động đến thành quả hoạt động
Majumdar (1997) đã nghiên cứu tác động của quy mô doanh nghiệp đến lợi nhuận và hiệu
suất hoạt động của một công ty và thấy rằng quy mơ doanh nghiệp có tác động tích cực đến hiệu
suất công ty. Burson (2007) tiết lộ rằng quy mơ doanh nghiệp có mối quan hệ tích cực với ROA
(một trong những thước đo hiệu quả hoạt động cơng ty). Ghazali (2010) lập luận rằng có một
mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa quy mơ doanh nghiệp và hiệu quả quả hoạt động, các công
ty lớn được dự đốn có lợi nhuận cao hơn là do quy mơ kinh tế, khả năng có được nguồn vốn rẻ
hơn, cũng như là việc đa dạng hóa ngành nghề trong cơng ty.
H6: Địn bẩy tài chính có tác động đến thành quả hoạt động
Abor (2007) chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa quản trị doanh nghiệp và địn bẩy; xác định
rằng các cơng ty có thực tiễn quản trị doanh nghiệp tốt có nhiều cơ hội nhận được nợ hơn so với
các doanh nghiệp không thực hiện quản trị doanh nghiệp tốt. Kết quả cũng cho thấy các công ty
có cấp độ quản trị cơng ty tốt có thể trả hết nợ, lãi đúng hạn. Kyereboah-Coleman và Biekpe
(2006) cũng cho thấy rằng địn bẩy có mối liên hệ tích cực và có ý nghĩa với hiệu quả hoạt đơng.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Dữ liệu nghiên cứu
Tác giả đã thu thập dữ liệu của 10 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng- Bảo
hiểm được niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn
từ năm 2010-2018, với tổng số lượng quan sát là 90 quan sát, được tổng hợp từ các Báo cáo tài
chính đã kiểm tốn, Báo cáo thường niên, Báo cáo quản trị công ty. Các báo cáo này được công
bố công khai trên cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp. Sau cuộc khủng hoảng năm 20082009, các doanh nghiệp đã có cái nhìn khác hơn về tầm quan trọng của quản trị doanh nghiệp,
đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng, trong nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, thì ngân
hàng càng đóng vai trị quan trọng, cung cấp và huy động vốn, tạo động lực cho phát triển kinh
tế, công cụ điều tiết của ngân hàng. Một sự bất ổn trong quản trị ngân hàng sẽ làm lung lay hệ
thống tài chính quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Nhận thấy được điều đó, sau
khi khủng hoảng, Ngân hàng nhà nước đã có những quyết định về tái cơ cấu lại hệ thống ngân
hàng ngày càng hiện đại, và phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
1295
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
3.2 .Mơ hình nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu là đánh giá ảnh hưởng của đặc điểm hội đồng quản trị
và cấu trúc quản trị đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng niêm yết trên Sàn Giao dịch Chứng
khốn Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã kế thừa mơ hình nghiên cứu của Gupta (2018).
Mơ hình 1:
ROE = β0 + β1BDV + β2BSIZEit + β3AUCOMit + β4BMETit + β5BHSit + β6DUALitt +
β7FMZit + β8LEVit + εit
Mơ hình 2:
MPS = β0 + β1BDV + β2BSIZEit + β3AUCOMitt + β4BMETit + β5BHSit + β6DUALit +
β7FMZit + β8LEVit + εit
Áp dụng mơ hình vào thực tế ở Việt Nam, tác giả nhận thấy cần phải thay đổi số biến trong
mơ hình, có nghĩa là tác giả sẽ loại hai biến DUAL và BHS ra khỏi mơ hình, bởi vì các lý do sau:
- Loại bỏ biến DUAL (sự kiêm nhiệm của Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám
đốc/Giám đốc) là do theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam: căn cứ khoản 32, Điều 4,
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, “…32. Người điều hành tổ chức tín dụng bao gồm
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc), Kế toán trưởng, Giám đốc chi
nhánh và các chức danh tương đương theo quy định tại Điều lệ của tổ chức tín dụng”; căn cứ
khoản 1, Điều 34, luật Các tổ chức tính dụng số 47/2010/QH12 “…1. Chủ tịch Hội đồng quản
trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng khơng được đồng thời là người điều hành
của tổ chức tín dụng đó…”, như vậy theo quy định của pháp luật Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng
quản trị khơng được kiêm nhiệm vị trí Tổng giám đốc/Giám đốc, biến DUAL khơng phù hợp
cũng như khơng có giá trị trong quá trình thực hiện mục tiêu nghiên cứu;
- Loại bỏ biến BHS (tỷ lệ thành viên sở hữu số lượng cố phần trên 5% vốn cổ phần công
ty) là do theo quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam: căn cứ vào khoản 1, Điều 55: “…1.
Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng;
…”, như vậy tỷ lệ sở hữu ngân hàng ở Việt Nam bị kiểm soát bởi các quy định pháp lý, làm cho
biến BHS trở nên không phù hợp và không có giá trị. Qua xem xét ở một tỷ lệ sở hữu cổ phần
khác, tác giả khơng tìm thấy bằng chứng cũng như là nền tảng vững chắc để sử dụng tỷ lệ đó.
Từ những căn cứ và lý do được nêu trên, do đó, trong bài nghiên cứu này tác giả sẽ sử
dụng mơ hình nghiên cứu như sau:
Mơ hình 1: ROEi,t = β0 + β1BDV + β2BSIZEit + β3AUCOMit + β4BMETit + β5BHSit +
β6LEVi,t +εi,t
Mơ hình 2:
MPSi,t = β0 + β1BDVi,t+β2BSIZEi,t+β3BMETi,t+β1AUCOMi,t+
β5FMZi,t+ β6LEVi,t+εi,t
1296
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Bảng1: Mơ tả các biến trong mơ hình
Biến
Diễn giải
Cách tính
Nguồn tham khảo
ROE (Return on tỷ suất sinh lơi trên vốn lợi nhuận ròng chia Akpan và Roman
Equity)
chủ sở hữu
Vốn cổ phần
(2012), Tomar và
Bino (2012)
BIẾN
PHỤ
THUỘC MPS
giá thị trường của cổ trung bình của giá thị Uwuigbe (2013),
(Market price per phiếu
trường của cổ phiếu ở Malik
(2012),
share)
đầu năm và cuối năm Walker (2013)
BIẾN
ĐỘC
LẬP
BDV
(Board diversity)
BSIZE
size)
biến số đo lường sự đa tỷ trọng thành viên là
dang (về giới tính) trong nữ trong HĐQT, được
Hội đồng Quản trị
tính bàng cách lấy số
lượng thành viên nữ
chia cho tổng số lượng
thành viên của Hội
đồng quản trị;
Dutta và Bose
(2006); Julizaerma
và Sori (2012);
Ekadah và Mboya
(2012); Marinova,
Plantenga và Remery (2010)
(Board biến số đo lường quy mô số lượng thành viên Akpan và Roman
HĐQT
trong HĐQT
(2012), Tanna và
cộng sự (2011),
Aygun và cộng sự
(2014)
AUCOM
biến số về quy mơ của tính bằng số lượng Anderson và cộng
(Audit committee) ban kiểm soát
thành viên trong ban sự (2004); DeZoort
kiểm sốt
và Salterio (2001);
Archambeault và
cộng sự (2008)
BMET
(Board meeting)
BIẾN
KIỂM
SỐT
FMZ (Firm size)
Quy mơ ngân hàng
LEV (Leverage)
Địn bẩy tài chính
số lượng các cuộc họp Vafeas (1999);
của HĐQT trong năm Ilaboya và Obaretin
(2015), Ghosh
(2007)
Logarit tự nhiên của Burson
(2007),
tổng giá trị tài sản
Ekwe và Duru
(2012)
Tổng nợ trên Tổng Abor (2007)
vốn chủ sở hữu
Bên cạnh việc sử dụng hồi quy dữ liệu theo phương pháp Pooled OLS, phương pháp phân
tích hồi quy dữ liệu bảng cũng được tác giả sử dụng trong bài nghiên cứu, do các đặc điểm của
dữ liệu nghiên cứu.
Tiếp theo, tác giả tiến hành chạy hồi quy theo mơ hình Hiệu ứng cố định (Fixed effect
Model) và mơ hình hiệu ứng ngẫu nhiên (Ramdon effect Model). Tiến hành các kiểm định như
F-test, hausman test để lựa chọn mơ hình thích hợp. Khi xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi
1297
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
sử dụng mơ hình hồi quy sai số chuẩn mạnh (Robust standar Error) để khắc phục.
Kết quả nghiên cứu
Biến
BDV
BSIZE
BMET
AUCOM
FMZ
LEV
Constant
Adj Rsquared
F-test
LM (*)
Hausman
Bảng 2. Kết quả nghiên cứu 3 mơ hình hồi quy (Pooled OLS, FEM, REM)
với các biến phụ thuộc lần lượt là ROE và MPS
Pooled OLS
ROE
FEM
REM
0.053
(0.326)
0.264***
(0.007)
0.012
(0.409)
-0.001***
(0.001)
-0.0008***
(0.003)
0.079***
(0.001)
0.068***
(0.000)
-0.437
(0.019)
-1.093
(0.002)
-0.014***
(0.001)
-0.0006***
(0.007)
-0.001
(0.514)
-0.005
(0.335)
-0.007
(0.635)
-0.003
(0.166)
R-sq= 0.2532 R-sq:
within = 0.3105
Between = 0.065
overall = 0.13
F(6.71) = 4.13
Chi2(01) = 3.24
chi2(6) = 7.05
0.0707
(0.239)
MPS
Pooled OLS
FEM
REM
-14084.20*
-15466.66
(0.07)
-10785.31
(0.21)
84.97
(0.107)
-856.62
(0.571)
-972.08
(0.522)
0.039**
(0.001)
22727.58***
(0.00)
8117.23
(0.004)
7686.95***
(0.001)
-1.0931
(0.002)
-159297.6
(0.00)
-151758.20
(0.004)
-133697.30
(0.003)
-0.012***
(0.007)
0.006
(0.649)
-0.0021
(0.357)
R-sq:
within = 0.2416
Between= 0.2877
overall =0.2462
-1099.34*
(0.06)
-746.49
(0.58)
-20.62
(0.457)
-369.61
(0.31)
R-sq= 0.483
Prob > F =0.000
F(6.45) = 15.35
Prob>chi2= 0.316
chi2(6) = 11,89
Prob > chi2 = 0.035
806.22
(0.174)
668.45
(0.061)
R-sq:
within = 0.603
between= 0.0283
overall = 0.217
Chi2(01) = 39,65
(0.078)
391.34
(0.463)
-8.73
(0.745)
396.58
(0.221)
R-sq:
within =0.591
Between = 0.062
overall = 0.269
Prob > F =0.000
Prob > chi2 = 0,000
Prob>chi2= 0,0644
Nguồn: Kết quả tính tốn từ phần mềm Stata
***, ** và * lần lượt tương ứng với mức ý nghĩa là 1%, 5% và 10%
Với (*) LM: Kiểm định nhân tử Lagrange (Breusch-Pagan Lagrange multiplier)
Thực hiện các kiểm định lựa chọn mơ hình, kết quả thống kê cho thấy rằng mơ hình REM
là phù hợp để đánh giá tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu quả hoạt động ngân
hàng và mối tương quan giữa các biến số đó được trình bày trong bảng 3.
1298
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Bảng 3. Tóm tắt tác động của các biến số về đặc điểm hội đồng quản trị,
cấu trúc quản trị đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
BDV
Các biến số
BSIZE
BMET
AUCOM
FMZ
LEV
ROE
Mối tương quan
MPS
Không tương quan
-
-
Không tương quan
-
Không tương quan
+
Không tương quan
Không tương quan
Không tương quan
+
Không tương quan
Nguồn: Tổng hợp nghiên cứu của tác giả
hMột số nghiên cứu có kết quả tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả:
Tỷ lệ nữ giới trong hội đồng quản trị và kích thước hội đồng quản trị có tương quan nghịch
với MPS và có ý nghĩa thống kê, riêng tỷ lệ thành viên nữ trong hội đồng quản trị có mối quan
hệ ngược chiều đối với MPS chấp nhận ở mức ý nghĩa là 10%. Mối quan hệ giữa quy mô hội
đồng quản trị và hiệu quả hoạt động tính theo thang đo MPS tương đồng với nghiên cứu của
Cheng (2008), Florackis và Ozkan (2004), Byard và cộng sự (2006). Tỷ lệ thành viên nữ trong
hội đồng quản trị ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động thông qua giá trị cổ phiếu, điều này
trái ngược với một số nghiên cứu trước đây cho rằng việc có thành viên nữ trong hội đồng quản
trị có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động, như Vera và Campbell (2007), Likewise và Adams
(2008). Số lượng cuộc họp hội đồng quản trị và logarit tự nhiên của tổng tài sản có mối quan hệ
cùng chiều với giá cổ phiếu. Một sự gia tăng các cuộc họp hội đồng quản trị sẽ làm tăng hiệu quả
hoạt động thể hiện qua giá cổ phiếu, điều này là phù hợp với các nghiên cứu trước đây cho rằng
tần suất của các cuộc họp hội đồng quản trị có tác động tích cực lên hiệu quả hoạt động như các
nghiên cứu của Ntim và Osei (2011), Irshad and Ali (2015), Akpan (2015), Brick và Chidambaran
(2007); Tong, Junarsin, và Davidson (2013). Các cuộc họp thường xuyên giúp doanh nghiệp giải
quyết các vấn đề đang gặp phải một cách nhanh chóng. Khơng tìm thấy bằng chứng thống kê về
mối quan hệ giữa quy mơ ban kiểm sốt và hiệu quả hoạt động. Quy mơ cơng ty có tác động tích
cực lên hiệu quả hoạt động công ty, phù hợp với các nghiên cứu của Hall và Weiss (1967), Fiegenbaum và Karnani (1991), Majumdar (1997).
Qua bảng kết quả hồi quy, chúng ta thấy biến BDV và ROE khơng có mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê, tức là tỷ trọng thành viên nữ trong hội đồng quản trị không tác động đến thành
quả hoạt động của công ty. Biến LEV và ROE cũng khơng có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê.
Số lượng thành viên ban kiểm sốt khơng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động. Quy mô hội đồng
quản trị có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động công ty, một hội đồng quản trị lớn không
làm tăng hiệu quả hoạt động. Số lượng các cuộc họp hội đồng quản trị có ảnh hưởng tiêu cực đến
hiệu quả hoạt động công ty, theo Vafeas (1999), việc tổ chức các cuộc họp sẽ làm tốn các chi phí
về thời gian và các chi phí phát sinh khác. Trong một nghiên cứu khác, sử dụng một nghiên cứu
1299
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
được thực hiện với mẫu nghiên cứu là 328 công ty niêm yết tại Malaysia từ năm 2003 đến 2007
đã cho thấy rằng tần suất họp hội đồng quản trị cao là một trong những nguyên nhân làm cho
hiệu quả công ty thấp (Amran, 2011). Quy mô tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu có
mối quan hệ cùng chiều, phù hợp với các nghiên cứu Stierwald (2009), Saliha and Abdessatar
(2011), Akbaş and Karaduman (2012), Shubita and Alsawalhah (2012). Kết quả cũng cho thấy
rằng mối liên hệ giữa địn bẩy tài chính của ngân hàng và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu là
không có ý nghĩa thống kê.
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả có kết luận sau đây:
- Mối quan hệ giữa quy mô hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động khơng được tìm thấy.
Kết quả thực nghiệm cho thấy rằng khơng có chứng cứ để ủng hộ hoặc bác bỏ sự ảnh hưởng của
quy mô hội đồng quản trị lên hiệu quả hoạt động.
- Trong nghiên cứu thực nghiệm này, phát hiện rằng tỷ lệ nữ trong hội đồng quản trị có
mối quan hệ ngược chiều với hiệu quả hoạt động khi sử dụng thước đo giá cổ phiếu.
- Số lượng cuộc họp Hội đồng quản trị hằng năm cũng có tác động tiêu cực đến hiệu quả
hoạt động thông qua thước đo tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, và khơng có bằng chứng mối
liên hệ thực nghiệm của số lượng cuộc họp và giá cổ phiếu. Tức là số lượng các cuộc họp không
dẫn đến một hiệu quả hoạt động công ty tốt hơn mà tùy thuộc vào chất lượng của mỗi cuộc họp.
- Kết quả thực nghiệm cũng không cho thấy mối quan hệ giữa quy mơ ban kiểm sốt và
hiệu quả hoạt động cơng ty. Như đã trình bày ở phần đầu nghiên cứu, việc áp dụng các mơ hình
quản trị doanh nghiệp chỉ mới đi vào thực tiễn trong những năm gần đây, các nguyên tắc quản trị
công ty chưa được sử dụng sâu rộng, một số doanh nghiệp xem việc xây dựng ban kiểm soát như
là một cách tuân thủ pháp luật, ban kiểm soát thực hiện chưa đúng vai trị của mình, do đó ảnh
hưởng của ban kiểm sốt lên hiệu quả hoạt động chưa rõ ràng.
- Tác động của các biến kiểm soát lên hiệu quả hoạt động: Địn bẩy tài chính, trong nghiên
cứu này, khơng tìm ra mối quan hệ giữa địn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động qua kết quả
thực nghiệm, nhưng quy mô cơng ty có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động.
- Các mối tương quan giữa các biến về đặc điểm hội đồng quản trị và cấu trúc quản trị với
hiệu quả hoạt động ngân hàng không tương đồng, ví dụ như khi xem xét ở thang đo hiệu quả
hoạt động là ROE thì khơng tìm thấy bằng chứng thống kê về mối quan hệ giữa tỷ lệ nữ giới
trong hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động, trong khi sử dụng biến MPS làm thước đo hiệu
quả hoạt động lại tìm thấy bằng chứng thống kê về mối tương quan giữa hiệu quả hoạt động và
tỷ lệ nữ giới trong hội đồng quản trị. Điều này có thể được giải thích với lý do thị trường Việt
Nam là khơng hiệu quả, bởi vì nếu thị trường hiệu quả thì giá phản ánh tất cả các thơng tin ở mọi
thời điểm, và các nhà đầu tư có thơng tin là như nhau, họ khơng có cơ hội kiếm được tỷ suất sinh
lợi vượt trội. Nhưng ở đây là lại tìm thấy mối quan hệ khơng đồng nhất đó, giá cổ phiếu phải có
mối quan hệ tương đồng với ROE, trong trường hợp này, giá cổ phiếu khơng hồn toàn phù hợp
với tỷ suất sinh lợi.
5. Kết luận
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu mối quan hệ giữa các đặc điểm của
1300
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
hội đồng quản trị công ty, sử dụng các biến đại diện như quy mô hội đồng quản trị, tỷ lệ nữ trong
hội đồng quản trị, số lượng các cuộc họp hội đồng quản trị, quy mơ ban kiểm sốt đến hiệu quả
hoạt động (được đo lường bằng tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu và giá cổ phiếu trung bình
hằng năm).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quản trị cơng ty có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động công
ty, trả lời câu hỏi thứ nhất đặt ra ở đầu bài nghiên cứu. Tìm thấy bằng chứng thực nghiệm mối
quan hệ ngược chiều giữa số lượng các cuộc họp và hiệu quả công ty. Hàm ý rằng các ngân hàng
nên tập trung vào chất lượng các cuộc họp hội đồng quản trị hơn là số lượng, số lượng các cuộc
họp lớn dẫn đến các chi phí có liên quan. Hơn nữa, kết quả này cũng không hàm ý rằng cần phải
giảm số lượng cuộc họp hội đồng quản trị. Mẫu dữ liệu cho thấy số lượng các cuộc họp của ngân
hàng có độ phân tán rộng, ít nhất là 4 cuộc họp, nhiều nhất 134 cuộc họp trong năm. Việc xem
xét ngưỡng số lượng cuộc họp hội đồng quản trị cần thiết để gia tăng hiệu quả hoạt động cũng là
một hướng nghiên cứu trong tương lai. Sự đa dạng về giới cũng ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Việc gia tăng tỷ lệ nữ trong hội đồng quản trị khơng những góp phần
làm tăng hiệu quả hoạt động mà còn cải thiện hình ảnh cơng ty, ủng hộ sự bình đẳng về giới tính.
Đối với các ngân hàng có thành viên hội đồng quản trị là nam giới hoặc nữ giới chiếm thiểu số
thì việc gia tăng số lượng nữ giới có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động. Mối quan hệ
giữa quy mô hội đồng quản trị, quy mô ban kiểm sốt và hiệu quả hoạt động khơng được tìm
thấy trong nghiên cứu này. Mặc dù đã cố gắng để thu thập các dữ liệu nhưng vẫn không thể nào
tìm đủ tất cả các dữ liệu một phần là do các báo cáo không được cung cấp đầy đủ và tồn diện,
chỉ một số ngân hàng có quy mơ lớn, thì tính đầy đủ và minh bạch thơng tin mới được thực hiện
tốt, cho thấy việc công bố thông tin trong ngành ngân hàng vẫn còn hạn chế và khắc phục về sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Đào Thị Thanh Bình và Hồng Thị Hương Giang (2012). Quản trị doanh nghiệp ở các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 183 (II), trang 61-77.
Lê Quang Cảnh, Lương Thế Bảo và Nguyễn Vũ Tùng (2015). Quản trị doanh nghiệp với
kết quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân lớn ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển,
số 215.
Nguyễn Mạnh Hà (2016). Quan hệ giữa quản trị doanh nghiệp với hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng Việt Nam, Tạp chí Tài chính, < />Tiếng Anh
Abbott, L. J., & Parker, S. (2000). Auditor selection and audit committee characteristics.
A Journal of Practice and Theory, 19(2), pp. 47–67.
Abdul, R., Haneem, K., & Ali, F. M. (2006). Board, audit committee, culture and earnings
management: Malaysian evidence. Managerial Auditing Journal, 1(7), pp. 783–804.
1301
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Abor, J. (2007). Corporate governance and financing decisions of Ghanaian listed firms.
The International Journal of Business in Society, 7(1), 83–92.
Adams, R. B., & Ferreira, K. (2009). Women in the boardroom and their impact on governance and performance. Journal of Financial Economics, 9(1), pp. 291–309.
Adler, R. D. (2001). Women in the executive suite correlate to high profits. Working paper,
European project on equal pay, Pepperdine University, USA.
Adnan, M. A. (2011). A panel data analysis on the relationship between corporate governance and bank efficiency. Journal of Accounting Finance and Economics, 1(1), pp. 1–15.
Akpan, E. S., & Riman, H. B. (2012). Does corporate governance affect bank profitability?
Evidence from Nigeria. American International Journal of Contemporary Research, 2(7),
135-145.
Al-Shafi, A., Rodrigs, M. and Barnes, L., “Does Corporate Governance Affect Financial
Performance in the Banking Sector?”, International Journal of Economics, Commerce and Management, Vol. 3, No.3,2015, pp. 1-26.
Anderson, R.C., Mansi S.A & Reeb D.M., (2004). “Board characteristics, accounting report
integrity and the cost of debt”, Journal of accounting and economics, (37), pp. 315-342.
Archambeault S, F Todd DeZoort, & Dana R H (2008). Audit Committee Incentive Compensation and Accounting Restatements. Contemporary Accounting Research. 25, (1)
Arrow, Kenneth J., 1969. “The Organization of Economic Activity: Issues Pertinent to the
Choice of Market versus Non-market Allocations”, Analysis and Evaluation of Public Expenditures: The PPP System, Volume 1, các trang 47–64.
Aygun, M., Ic, S., & Sayim, M. (2014). The effects of corporate ownership structure and
board size on earnings management: Evidence from Turkey. International Journal of Business
and Management, 9(12), 123.
Bhagat, Sanjai and Bolton, Brian, (2008), Corporate governance and firm
performance, Journal of Corporate Finance, 14, issue 3, p. 257-273
Burke, R. J. (2000). Company size, board size and numbers of women corporate directors.
In Women on corporate boards of directors (pp. 157-167). Springer, Dordrecht.
Burson, K. (2007). The effect of firm size on profit rates in the financial services. Journal
of Economics Education Research, 8(1), pp. 67–81.
Carter, D. A., Simkins, J., & Gary, W. (2003). Corporate governance, board diversity, and
firm value. Financial Review, 38(1), pp. 33–53.
Chancharat, N., Krishnamurti, C., & Tian, G. (2012). Board structure and survival of new
economy IPO firms. Corporate Governance: An International Review, 20(2), 144-163.
Chen, C.J.P., & Jaggi, B. (2000). Association between Independent Non-Executive Directors, Family Control and Financial Disclosures in Hong Kong. Journal of Accounting and Public
Policy, 19(4-5), 285-310.
1302
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Claessens, Stijn. (2006). Corporate Governance and Development. World Bank Research
Observer. 21, pp. 91-122.
Dalton, D., Daily, C., Ellstrand, A., & Johnson, J. (1998). Meta-analytic review of board
composition, leadership structure, and financial performance. Strategic Management Journal,
1(9), 269–290.
Danoshana and Ravivathani, (2013). The impact of the corporate governance on firm performance: A study on financial institutions in Sri Lanka, Merit Research Journal of Accounting,
Auditing, Economics, and Financial, 1 (6) , pp. 118-121.
DeZoort F. T., S. Salterio, (2001). The effects of corporate governance experience and audit
knowledge on audit committee members’ judgments, Auditing: A Journal of Practice & Theory
20, pp. 31-47.
DrorParnesa, L. (2011). Corporate governance and corporate credit worthiness. Journal of
Risk and Financial Management, 2(1), pp. 1–42.
Dutta, P., and Bose, S. (2006). Gender diversity in the boardroom and financial performance
of commercial banks: Evidence from Bangladesh. The Cost and Management, 34(6).
Ekadah, J. W., and Mboya, J. (2012). Effect of Board Gender Diversity on the Performance
of Commercial Banks in Kenya. European Scientific Journal, 8(7).
Ekwe, M., & Duru, A. (2012). Liquidity management and corporate profitability in Nigeria. ESUT Journal of Accountancy, 3(1), 22–28.
Erhardt, P., Niclas, L., Werbel, H., & Shrader, D. (2003). Board of director diversity and
firm financial performance. Corporate Governance: An International Review, 9(1), pp. 102–111.
Farrell, K. A., & Hersch, P. L. (2005). Additions to corporate boards: The effect of gender.
Journal of Corporate Finance, 11(3), pp. 85–106.
Ferreira, K. (2010). Women in the boardroom and their impact on governance and performance. Journal of Financial Economics, 9(4), pp. 291–309.
Finch, E. M., & Shivdasani, A. (2006). Are busy boards effective monitors. Journal of Finance, 51(2), pp. 689–724.
Fondas, N. (2000). Women on boards of directors: Gender bias or power threat? Issues in
Business Ethics, 14(1), 171–177.
Ghazali, N. A. M. (2010). Ownership structure, corporate governance and corporate performance in Malaysia. International Journal of Commerce and Management.
Ghosh, S., 2007. Board diligence, director busyness and corporate governance: an empirical
analysis
for
India.
Rev.
Appl.
Econ.
3
(1-2),
91e104.
/>
Grove, H., Patelli, L., Victoravich, L. M., & Xu, P. T. (2011). Corporate governance and
performance in the wake of the financial crisis: Evidence from US commercial banks. Corporate
Governance: An International Review, 19(5), pp. 418-436. />1303
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Gupta, RK, Chand, R, Sadaula, S, Saud, S & Ambai, S (2018). Effect of board diversity
and corporate governance structure on operating performance: Evidence from the Nepalese enterprises. in Business Governance and Society: Analyzing Shifts, Conflicts, and Challenges. Palgrave Macmillan, pp. 421-442. />
Ilaboya, O. J., & Obaretin, O. (2015). Board characteristics and firm performance: Evidence
from Nigerian quoted companies. Academic Journal of Interdisciplinary Studies, 4(1), 283.
Irshad, R., & Ali, M. (2015). Board effectiveness, ownership structure and corporate performance: Evidence from Pakistan. Journal of Business Studies Quarterly, 7(2), pp. 46-61.
Jensen, M. C. (1994). The modern industrial revolution, exist and the failure of internal
control system. The Journal of Applied Corporate Finance, 6(4), pp. 1–7.
Johansen, D. (2008). Corporate governance and board accounts: Exploring a neglected interface between boards of directors and management. Journal of Management and Governance,
12(4), 343–380.
Johl, S. K., Kaur, S., & Cooper, B. (2015). Board characteristics and firm performance:
Evidence from Malaysian public listed firms. Journal of Economics, Business and Management,
3(2), 239–243.
Julizaerma, M. K., & Sori, Z. M. (2012). Gender diversity in the boardroom and firm performance of Malaysian public listed companies. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 65,
1077-1085.
Kang, H., Cheng, M., & Gray, S. J. (2007). Corporate governance and board composition:
Diversity and independence of Australian Boards. Corporate Governance: An International Review, 15(2), pp. 194–207.
Kyereboah-Coleman, A. (2008). Corporate governance and firm performance in Africa: A
dynamic panel data analysis. Journal of Economics and Econometrics, 32(2), pp. 1–24.
Kyereboah-Coleman, A., & Biekpe, N. (2006). The relationship between board size, board
composition, CEO duality and firm performance: Experience from Ghana. Corporate Ownership
and Control, 4(2), 114-122.
Le Minh, T., & Walker, G. (2008). Corporate governance of listed companies in Vietnam.
Bond Law Review, 20(2), 6. />
Majumdar, S. K. (1997). Foreign ownership and profitability: Property rights, control, and
the performance of firms in Indian industry. The Journal of Law and Economics, 42(1), pp
209–238.
Malik, S. U. (2012). Relationship between corporate governance score and stock prices:
Evidence from KSE-30 index companies.
Mangena, M., & Tauringana, V. (2008). Corporate boards, ownership structure and firm
performance in an environment of severe political and economic uncertainty. British Accounting
Association Conference, Norton Street, Liverpool, USA.
1304
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Marinova, J., Plantenga, J., and Remery, C. (2010). Gender Diversity and Firm Performance: Evidence from Dutch and Danish Boardrooms. Utrecht School of Economics, Tjalling C.
Koopmans Research Institute, Discussion Paper Series 10-03.
Monks, R., and Minow, N.. Corporate Governance. Cambridge, MA: Blackwell (1995)
Naushad, Mohammad & Syed, Abdul Malik. (2015). Corporate Governance and Bank Performance: A Study of Selected Banks in GCC Region. Asian Social Science.
Nguyen, N. D. (2008). Corporate governance in Vietnam: regulations, practices and problems. Retrieved from [ access September 29, 2019)
Ntim, C. G. (2009). Internal corporate governance and firm financial performance: Evidence from South African listed firms. Unpublished PhD thesis, University of Glasgow.
Ntim, C., & Osei, K. A. (2011). The impact of corporate board meetings on corporate performance in South Africa. African Review of Economics and Finance, 2(2), pp. 83-103.
Nuryanah, S., & Islam, S. (2011). Corporate governance and performance: Evidence from
an emerging market. Malaysian Accounting Review, 10(1), pp.17–42.
of
Ozkan, N. (2011). CEO compensation and firm performance: An empirical investigation
Ozkan, N. (2011). CEO compensation and firm performance: An empirical investigation
of UK panel data. European Financial Management, 17(2), 260-285.
Peng, M. W., Zhang, S., & Li, X. (2007). CEO duality and firm performance during China’s
institutional transitions. Management and Organization Review, 3(2), 205-225.
Peni, E., & Vahamaa, S. (2012). Did good corporate governance improve bank performance
during the financial crisis? Journal of Financial Services Research, 41(2), pp. 19–35
Rashid, K. and Islam, S. (2013), “Corporate governance, complementarities and the value
of a firm in an emerging market: the effect of market imperfections”, Corporate Governance,
Vol. 13 No. 1, pp. 70-87. />
Reddy, K., Locke, S., & Scrimgeour, F. (2010). The efficacy of principle‐based corporate
governance practices and firm financial performance. International Journal of Managerial Finance.
Rhoades, D. L., Rechner, P. L., & Sudramurthy, C. (2001). A meta-analysis of board directorship structure and financial performance: Are two heads better than one? Corporate Governance-An International Review, 9(3), pp. 311–319.
Sami, H., Wang, J., & Zhou, H. (2011). Corporate governance and operating performance
of Chinese listed firms. Journal of International Accounting, Auditing and Taxation, 20(2), pp.
106–114.
Shrader, C. B., Blackburn, V. B., & Iles, P. (1997). Women in management and firm financial performance: An exploratory study. Journal of Managerial Issues, 9(3), pp. 355–372.
1305
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020
ICYREB 2020
Smith, N., Smith, V., & Verner, M. (2006). Do women in top management affect firm performance? A panel study of 2,500 Danish firms. International Journal of Productivity and Performance Management, 5(5), pp. 569–593.
Soba, M., Erem, I., & Ceylan, F. (2016). The impact of corporate governance practices on
bank efficiency: A case of Turkey.
Tanna, S., Pasiouras, F., & Nnadi, M. (2011). The effect of board size and composition on
the efficiency of UK banks. International Journal of the Economics of Business, 18(3), 441-462.
Tomar, S., & Bino, A. (2012). Corporate governance and bank performance: evidence from
Jordanian banking industry. Jordan Journal of Business Administration, 153(655), 1-40.
Uadiale, O. M. (2010). The impact of board structure on corporate financial performance
in Nigeria.
UK panel data. European Financial Management, 17, 260–285.
Uwuigbe, O. R. (2013). “Corporate governance and share price: Evidence from listed firms
in Nigeria.” African Research Review 7(2), pp. 129-143.
Vafeas, N. (1999), Board meeting frequency and firm performance, Journal of Financial
Economic, pp. 113-42.
Vo and Phan (2013). Corporate governance and firm performance: Empirical evidence from
Vietnam, />Vo, Duc & Nguyen, Tri. (2014). The Impact of Corporate Governance on Firm Performance: Empirical Study in Vietnam. International Journal of Economics and Finance.
Vo, H. D., & Phan, B. G. T. (2013b). Woman member in board of directors and firm
performance: Empirical evidence from Vietnam. Banking Journal, pp. 85, 21–30.
Vo, H. D., & Phan, B. G. T. (2013c). The role of CEO duality, experience of board and
growth opportunity on firm performance. Open University Journal, 3(31), pp. 52–65.
Vo, H. D., & Phan, B. G. T. (2013d). The relationship between corporate governance and
firm performance. Unpublished paper, Ho Chi Minh City Open University.
Walker, S. (2013). Corporate Governance: Its effect on Share Price. Manchester: Doctoral
Symposium.
Williamson, O.E. (1988) Corporate Finance and Corporate Governance. Journal of
Finance, 43, pp. 567-591. />
Yermack, D. (1996) High Market Valuation of Companies with a Small Board of Directors. Journal of Financial Economics, 40, pp. 185-211 />
1306