.
Phần a: mở đầu
1. lý do chọn đề tài.
Đúng oh ngày 1-7-1997 lễ trao trả Hồng Kông về với Trung Quốc Đại
Lục đà đ-ợc cử hành trọng thể. Sự kiện Hồng Kông hồi quy với t- cách là
một Khu hành chính đặc biệt (SAR) của n-ớc CHND Trung Hoa, đ-ợc đánh
giá là một trong m-ời sự kiện nổi bật nhất trong năm 1997. Sự kiện này đÃ
kết thúc gần 100 năm thống trị và bảo hộ của V-ơng quốc Anh (1898 - 1997)
đồng thời đánh dấu một b-ớc ngoặt đối với sự phát triển của Hồng Kông nói
riêng và của n-ớc CHND Trung Hoa nói chung.
Là một chuỗi đảo nhỏ nằm ở phía Đông Nam bờ biển Trung Quốc, đất
không rộng, tài nguyên khan hiếm, nh-ng chỉ trong bốn thập kỷ phát triển
(1847 - 1987), Hồng Kông đà trở thành một trong bốn con rồng của châu á,
là nơi xuất khẩu hàng công nghiệp lớn thứ 13 của thế giới và là một trong ba
trung tâm tài chính, th-ơng mại lớn nhất thế giới (New york, Tokyo và Hồng
Kông). Những thành tựu đáng khâm phục đó đà khiến Hồng Kông trở thành
một thành phố công nghiệp hiện đại, có cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục,
phúc lợi xà hội hết sức hoàn hảo.
Với tốc độ phát triển kinh tế đến chóng mặt, Hồng Kông đà trở thành
một "hiện t-ợng lạ". Một nhà nghiên cứu đà nói rằng: "nếu nh- gọi sự tăng
tr-ởng của các n-ớc, lÃnh thổ NICs Đông á là những "điều thần kì" thì Hồng
Kông chính là "sự thần kì của những điều thần kì". Sự phồn vinh của Hồng
Kông không những đ-ợc d- luận đánh giá cao, mà còn đ-ợc các nhà nghiên
cứu trong khu vực và trên thế giới rất quan tâm. Những vấn đề nh-: bằng
cách nào mà Hồng Kông lại đạt d-ợc những thành tựu cao nh- vậy? Quá
trình phát triển kinh tế - x· héi cđa Hång K«ng ra sao? Hång K«ng ®· thi
1
hành những biện pháp, chính sách nào trong quá trình phát triển?... đà trở
thành những đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học.
"Kì tích kinh tế" mà Hồng Kông đà đạt đ-ợc trong thời gian qua, chính là
những bài học kinh nghiệm quý giá cho nhiều n-ớc tham khảo và học hỏi,
trong đó có cả Việt Nam - một quốc gia có nhiều điểm t-ơng đồng về bối
cảnh địa lí, lịch sử và truyền thống văn hoá. Thiết nghĩ rằng việc tìm hiểu về
con đ-ờng phát triển và tình hình Hồng Kông sau ngày trở về với đất mẹ
Trung Quốc là cần thiết, nhất là trong khi ở n-ớc ta ch-a có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này.
Là một sinh viên khoa Lịch Sử, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Tình hình
Hồng Kông từ năm 1997 đến nay" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp Đại học
với hi vọng sẽ góp phần tạo nên một bức tranh chân thực về tình hình của
Hồng Kông kể từ sau ngày 1-7-1997 cho đến nay. Tuy nhiên vì điều kiện và
khả năng còn hạn chế, nên khoá luận này sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong sự miễn thứ và đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các
bạn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Từ tr-ớc tới nay, đà có nhiều các học giả tiến hành nghiên cứu về Hồng
Kông, mà chủ yếu là nghiên cứu về sự "thần kì", trên con đ-ờng phát triển
của Hồng Kông, nh- bài "Hồng Kông tr-ớc ngày Trung Quốc khôi phục chủ
quyền" của PGS Nguyễn Huy Quý, đ-ợc đăng trên tạp chí "Nghiên cứu
Trung Quốc" số 5 (9), 6 (10) năm 1996 và số 1(11) năm 1997.
Sau ngày 1-7-1997, các nhà nghiên cứu lại rất quan tâm đến Hồng Kông
với t- cách là một Khu hành chính đặc biệt của n-ớc CHND Trung Hoa. Nhtác giả Vũ Thuỳ D-ơng với cuốn "Hồng Kông trên đ-ờng phát triển", Trung
2
tâm nghiên cứu Trung Quốc, Hà Nội 12 - 1998, tác giả Hải Linh với bài viết:
"Hồng Kông tr-ớc b-ớc ngoặt lịch sử" Tuần báo quốc tế - số 27 tháng 71997. Mới đây trên Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc - số 4 (50) năm 2003đÃ
đăng tải bài viết: "Hiện trạng và triển vọng hợp tác tài chính - tiền tệ giữa
Hồng Kông và Đại Lục" của hai tác giả Tiền ích Binh và V-ơng Việt do Bích
Ngọc dịch, hay tác giả D-ơng Văn Lợi với bài viết: "chính sách "một n-ớc
hai chế độ", thành tựu lớn của Trung Quốc trong 25 năm cải cách - mở cửa"
trên Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 1 (54) năm 2004.
Ngoài ra tôi còn đ-ợc tiếp cận với các nguồn t- liệu là những luận văn tốt
nghiệp, luận án thạc sĩ, nh- luận án "Hồng Kông trên đ-ờng phát triển và trë
vỊ trung Qc" cđa Th¹c sÜ Ngun Kim Nga - Tr-ờng ĐHKHXH và Nhân
văn - Hà Nội năm 1999, cùng với nhiều nguồn t- liệu thu thập đ-ợc trên
nhiều kênh thông tin khác nhau.
3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối t-ợng nghiên cứu.
Đối t-ợng nghiên cứu của khoá luận này, là nghiên cứu một cách khái
quát về tình hình của Hồng Kông từ sau ngày trở về với Trung Quốc cho đến
nay.
2.3. Phạm vi nghiên cứu.
- Nghiên cứu về những nhân tố tác động đến sự phát triển của Hồng Kông
t- năm 1997 cho đến nay.
- Nghiên cứu về tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá - xà hội của Hồng
Kông từ sau năm 1997 cho đến nay.
- Nghiên cứu về vai trò của Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông đối với
Trung Quốc, đặc biệt là vai trò về kinh tế và chính trị.
Đây là một vấn đề hay và khá mới mẻ, song do những hạn chế về kiến
thức, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, cịng nh- viƯc tiÕp cËn víi ngn t3
liệu, cho nên, khoá luận này mới chỉ xem xét vấn đề ở mức độ khái quát và
cơ bản nhất.
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu.
Với những nguồn tài liệu có đ-ợc, dựa trên quan điểm duy vật lịch sử,
tác giả khoá luận này cố gắng trình bày một cách khái quát nhất về tình hình
Hồng Kông sau khi trở về với Trung Quốc. Đứng trên lập tr-ờng quan điểm
Mác xít - Lê nin nít, kết hợp ph-ơng pháp sử học và ph-ơng pháp lô gíc với
các ph-ơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánhnhằm tạo dựng nên một bức
tranh chân thật, toàn diện về Hồng Kông sau ngày trở về với Trung Quốc.
5. Bố cục của để tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận đ-ợc trình
bày trong ba ch-ơng:
Ch-ơng1: Những nhân tố tác động đến sự phát triểncủa Hồng Kông từ
năm 1997 đến nay.
Ch-ơng 2: Tình hình Hồng Kông từ năm 1997 đến nay.
Ch-ơng 3: Vai trò của Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông đối với
Trung Quốc Đại Lục.
4
Phần b: nội dung
Ch-ơng 1:
những nhân tố tác động đến sự phát triển
của hồng kông từ 1997 đến nay
1.1. vài nét về điều kiện địa lý và lịch sử
Hồng Kông là tên gọi chung cho một khu vực bao gồm bán đảo Tân
Giới, Cửu Long, đảo Hồng Kông và rải rác hơn 235 hòn đảo lớn nhỏ với tổng
diện tích là 1076 km, dân số là 6,3 triệu ng-ời (1996). hồng Kông nằm ở vị
trí có thể xem là rất thuận lợi, phía đông cách áo Môn bởi cửa khẩu sông
Chu Giang, phía tây là hai bờ eo biển Đài Loan, phía Bắc giáp với Trung
Quốc Đại Lục, là đầu mối giao thông quan trọng giữa thái bình d-ơng và
ấn độ d-ơng.
Phần đất lớn nhất của khu vực Hồng Kông là bán đảo tân giới. Nếu kể
cả hơn 200 đảo nhỏ xung quanh thì tổng diện tích của bán đảo tân giới là
984,53km, chiếm 62% dân số, 92% tổng diện tích của toàn bộ khu vực
hồng kông. Gần nh- hầu hết các công x-ởng, thị trấn, thành phố mới đều
đ-ợc xây dựng tại đây. tân giới là đầu mối giao thông quan trọng nối liền
trung quốc lục địa với hồng kông.
Bán đảo cửu long nằm ở phía nam bán đảo tân giới với diện tích là
11,7 km. ngày nay bán đảo cửu long đà trở thành trung tâm hoạt động
th-ơng nghiệp và cũng là một trong những tuyến đ-ờng giao th«ng träng u
cđa khu vùc hång k«ng.
5
Phía d-ới bán đảo cửu long là đảo hồng kông. Đảo hồng kông với
tổng diện tích là 79,77km, đây là nơi hoạt động công - th-ơng nghiệp diễn
ra sôi động nhất, là trung tâm chính trị của toàn bộ khu vực hồng kông. Ven
biển phía bắc của đảo hồng kông là cảng victoria nổi tiếng: "Cảng này có
thể cùng một lúc đón hơn 150 tàu thuyền cập bến. đây là một trong ba cảng
n-ớc sâu lớn nhất thế giới" [5-2].
Khác với các n-ớc và khu vực khác trên thế giới, hồng kông không đ-ợc
thiên nhiên -u đÃi. Phần lớn diện tích đất đai của hồng kông là núi đồi,
đồng bằng rất ít và th-ờng là n-ớc chua mặn, tầng đất canh tác rất mỏng vì
thế chỉ có một số nơi ở tân giới là canh tác đ-ợc, điều này giải thích vì sao
"hàng năm hồng Kông phải nhập trên 80% thực phẩm cho tiêu dùng nội địa"
[5-2]. mặc dù diện tích đồi núi nhiều, song lại rất ít khoáng sản, chỉ có một ít
quặng sắt, quặng chì, quặng thiếc nh-ng phần lớn đà bị ng-ời nhật khai thác
trong Chiến tranh thÕ giíi thø hai.
khÝ hËu hång k«ng thc khu vùc gió mùa á nhiệt đới, mùa hè không
nóng lắm, nhiệt ®é th-êng tõ 27° C - 29°C, mïa ®«ng kh«ng lạnh lắm nhiệt
độ th-ờng từ 15 C - 19C. khí hậu ôn hoà đà tạo điều kiện cho hồng kông
trở thành nơi nghỉ mát lý t-ởng đối với với du khách quốc tế. vì thế mà
ngành du lịch, dịch vụ hồng kông phát triển rất mạnh. tuy nhiên ở hồng
kông vẫn th-ờng hay có bÃo vào khoảng từ tháng 7 đến tháng 9, s-ơng mù
dầy đặc vào mùa xuân. Do đó đà hạn chế các hoạt động kinh tế, đặc biệt là
giao thông đ-ờng thuỷ và hàng không. mùa m-a th-ờng kéo dài từ tháng 5
đến tháng 9, tuy nhiên l-ợng m-a nhỏ, trung bình hàng năm khoảng 2246
mm, bởi vậy n-ớc sinh hoạt vẫn th-ờng phải vận chuyển từ trung quốc lục
địa sang.
6
tuy điều kiện tự nhiên của hồng kông không mấy thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế, nh-ng bù lại hồng kông lại có một vị trí rất -u việt mà không
phải nơi nào cũng có đ-ợc. Vị trí -u việt của hồng kông ở đây chính là chỗ
nó nằm ở vị trí 22 vĩ Bắc, giữa 113- 114 kinh Đông, ở chính giữa hai châu
lục lớn là châu Âu và châu Mỹ, đồng thời cũng là chính giữa hai thị tr-ờng
tiền tệ sôi động nhất thế giới. "chính sự chênh lệch về múi giờ đó mà hồng
kông đà lấp đ-ợc khoảng trống về thời gian đóng cửa và mở cửa của hai thị
tr-ờng tiền tệ châu Âu và châu Mỹ, đảm bảo cho việc giao dịch tiền tệ quốc
tế đến 24h trong ngày đ-ợc liên tục, không bị gián đoạn" [12-33]. khi thị
tr-ờng châu âu đóng cửa thì thị tr-ờng hồng kông mở cửa, thị tr-ờng hồng
kông đóng cửa thì thị tr-ờng châu mỹ mở cửa và khi thị tr-ờng châu mỹ
đóng cửa thì thị tr-ờng châu âu mở cửa.
từ những năm 50 của thế kỷ XX, kinh tế TBCN thế giới b-ớc vào thời kì
phát triển trong 20 năm, đây chính là cơ hội quốc tế thuận lợi để kinh tế
hồng kông phát triển. Thời gian này, tình hình quốc tế t-ơng đối ổn định,
mối quan hệ và mậu dịch giữa các n-ớc trên thế giới phát triển ch-a từng
thấy, khoa học kỹ thuật xuất hiện những đột phá mới và đ-ợc vận dụng rộng
rÃi trong thực tiễn. sự lớn mạnh của l-u thông tiền tệ t- bản quốc tế đà thúc
đẩy mậu dịch và đầu t- quốc tế phát triển. trong bối cảnh đó, hồng kông trở
thành một môi tr-ờng đầu t- thuận lợi đối với t- bản lũng đoạn quốc tế, nhờ
đó mà các mối quan hệ kinh tế, mậu dịch, tiền tệ... giữa hồng kông và các
n-ớc TBCN ngày càng phát triển, trên cơ sở ®ã, nỊn kinh tÕ hång k«ng cã
®iỊu kiƯn ®Ĩ cÊt cánh.
trong giai đoạn này, các n-ớc công nghiệp ph-ơng tây dần coi nhẹ công
nghiệp truyền thống vốn tập trung nhiều lao động nh- ngành dệt, may... mà
7
chú trọng đến các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn và kỹ thuật. Từ đó đà xuất
hiện "lỗ hổng" trong cơ cấu kinh tế thế giới. Đây là môi tr-ờng quốc tế thuận
lợi cho hồng kông tập trung phát triển các ngành công nghiệp truyền thống
nói trên và mở rộng thị tr-ờng xuất khẩu. chính quyền hồng kông đà biết
tận dụng môi tr-ờng quốc tế thuận lợi đó mà đề ra đ-ờng lối phát triển kinh
tế dựa vào công nghiệp hoá, h-ớng vào xuất khẩu hàng hoá, nguyên liệu và
bán thành phẩm nhập từ bên ngoài vào và gia công ở hồng kông. do đó đÃ
phát huy đ-ợc mậu dịch, ngoại th-ơng và tiền tệ để phát triển các ngành dịch
vụ truyền thống.
1.2. thực trạng hồng kông tr-ớc khi trở vỊ trung qc
1.2.1. thùc tr¹ng vỊ kinh tÕ.
nÕu tÝnh tõ sau ChiÕn tranh thÕ giíi thø hai trë ®i, tøc là giai đoạn bắt
đầu phục hồi và phát triển kinh tế, chỉ trong vòng 50 năm (1947-1997) GNP
bình quân đầu ng-ời của hồng kông đà tăng gấp hơn 10 lần. Để làm đ-ợc
điều t-ơng tự, n-ớc Anh phải mất 200 năm (1750 - 1950), n-ớc mỹ cũng
phải mất 120 năm (1840 - 1960) cũng chỉ tăng gấp 8 lần. GNP bình quân đầu
ng-ời của hồng kông năm 1990 là 12560 USD/ ng-ời, năm 1994 là 21760
USD/ ng-ời, v-ợt qua các c-ờng quốc kinh tế nh- Anh, Canađa, Italia,
Australia...
Học thuyết "mặc cho họ làm" (laissez- faire) đà biến hồng kông từ hòn
đảo hoang vắng, điêu tàn trở thành một trung tâm kinh tế, tài chính, mậu
dịch, du lịch... quan trọng nhất thế giới. trong 50 năm khôi phục và phát
triển nền kinh tế đó, có thể chia thành bốn giai đoạn nh- sau:
1.2.1.1. Giai đoạn khôi phục kinh tế sau Chiến tranh thÕ giíi lÇn thø
hai (1946 - 1952).
8
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đà tàn phá nền kinh tế hồng kông
hết sức nặng nề, mậu dịch đối ngoại bị ngừng trệ, sản xuất công nghiệp bị
đình đốn, suy thoái nghiêm trọng. Nh-ng chỉ vài năm sau nền kinh tế hồng
kông, đặc bịêt là trong lĩnh vực mậu dịch, chuyển khẩu, đà dần khôi phục và
từng b-ớc phát triển, "từ năm 1947- 1952 bình quân mỗi năm tăng khoảng
3,5%"[5-37].
Sở dĩ nền kinh tế hồng kông có đ-ợc sự phục hồi nhanh chóng nh- thế,
một phần quan trọng là nhờ vào sự gia tăng mạnh mẽ của mậu dịch đối ngoại
giữa trung quốc đại lục và hồng kông. Năm 1949 n-ớc CHDCND Trung
Hoa đà rất coi trọng ®Õn kinh tÕ ®èi ngo¹i, chÝnh phđ trung qc coi hồng
kông là cửa ngõ giao l-u với thế giới bên ngoài, nhờ vậy, kim ngạch buôn
bán giữa hồng kông và trung quốc đà tăng rất nhanh, năm 1949 là 66%
năm 1952 tăng lên 74% so với tr-ớc chiến tranh.
1.2.1.2. Giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá (1952 - 1970).
Từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, làn sóng di c- từ trung quốc đại
lục sang hồng kông tạo nên mét søc Ðp d©n sè rÊt lín, cïng víi nã là cuộc
chiến tranh Triều Tiên (1950- 1953) và chính sách cấm vận của LHQ đối với
Trung Quốc đà làm cho nền kinh tế mậu dịch của Hồng Kông suy giảm
nghiêm trọng, vai trò trung gian của Hồng Kông không còn nh- tr-ớc, tình
hình đó đà buộc Hồng Kông phải đổi cơ cấu kinh tế.
Cũng vào thời điểm này, các n-ớc TBCN bắt đầu phát triển nền kinh tế
đòi hỏi kỹ tht cao, tõ bá nỊn c«ng nghiƯp trun thèng nh- dệt, may
Nh- một sự tình cờ của lịch sử, Hồng Kông lại là nơi có nguồn nhân
công rất trẻ với giá rẻ, bên cạnh đó trong lực l-ợng ng-ời di c- từ Trung
Quốc Đại Lục sang có cả những chủ x-ởng ở th-ợng hải, quảng châu... Họ
mang theo máy móc, thiết bị, trí tuệ, tài năng và kinh nghiệm kinh doanh tíi.
9
hồng kông trở thành nơi lý t-ởng để "lấp chỗ trống về công nghiệp truyền
thống do các n-ớc t- bản phát triển để lại. Ngành dệt ở hồng kông hình
thành và phát triển nh- diều gặp gió, năm 1948 cả hồng kông chỉ có 8000
khung cửi thì đến 1951 đà có tới 210.000 khung cửi" [5-39].
Sự phát triển của ngành dệt tạo ra một nguồn nhân lực phong phú, là tiền
đề thúc đẩy ngành may mặc phát triển. Quần áo may sẵn trở thành mặt hàng
xuất khẩu quan trọng của Hồng Kông sang thị tr-ờng Âu - Mỹ. Hồng Kông
trở thành một trong những trung tâm thế giới về quần áo may sẵn và là nơi
xuất khẩu lớn nhất thế giới về quần áo nói chung.
Theo thống kê đến cuối những năm 50 của thế kỷ XX, sản phẩm công
nghiệp chế tạo đà chiếm 70% tổng giá trị xuất khẩu của Hồng Kông "năm
1960 kim ngạch ngoại th-ơng của Hồng Kông đạt 9 tỉ HKD trong đó giá trị
xuất khẩu chiếm 72%"[5-39]. Hồng Kông trở thành một thành phố công
nghiệp phát triển.
1.2.1.3. Giai đoạn đa nguyên hoá về kinh tế (1971 - 1984).
Cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 đà làm cho thị tr-ờng xuất khẩu
của Hồng Kông gặp nhiều trở ngại, năm 1974, kim ngạch xuất khẩu của
Hồng Kông giảm 7% so với tr-ớc, công nghiệp đình đốn thị tr-ờng chứng
khoán chao đảo, cổ phiếu sụt giá đến chóng mặt. Trong khi đó nền kinh tế
các n-ớc phát triển có dấu hiệu suy thoái, buộc các n-ớc này phải tăng c-ờng
các biện pháp bảo vệ mậu dịch, do đó hàng hoá xuất khẩu của Hồng Kông
gặp nhiều khó khăn. Mặt khác các n-ớc Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Thái
Lan... bắt đầu phát triển công nghiệp nhẹ và h-ớng vào xuất khẩu, Hồng
Kông đứng vào tình trạng "tiến thoái l-ỡng nan".
Tr-ớc tình hình đó, sự lựa chọn duy nhất để tiếp tục phát triển của Hồng
Kông là phải chuyển nền kinh tế theo h-ớng đa nguyên hoá và quốc tế hoá.
Đa nguyên hoá kinh tế bao gồm đa nguyên hoá công nghiệp và cơ cấu kinh
tế. Đa nguyên hoá trong công nghiệp đà tạo ra các sản phẩm có lÃi cao ®Ĩ ®èi
10
phó với chính sách bảo hộ thị tr-ờng của các n-ớc Âu- Mỹ. Đa nguyên hoá
về thị tr-ờng để tăng c-ờng sức cạnh tranh; đa nguyên hoá về kinh tế đà tạo
ra các ngành trụ cột cho nền kinh tế Hồng Kông đó là việc từ bỏ vai trò trụ
cột của ngành công nghiệp dệt - may mà tập trung vào các ngành công
nghiệp có hàm l-ợng kỹ thuật cao nh- điện tử, chất dẻo, hoá chất, đồ gia
dụng, cơ khí... và xuất khẩu ra khắp thế giới, áp dụng khoa học - kỹ thuật vào
các ngành công nghiệp truyền thống.
Sau khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, ngành mậu dịch chuyển
khẩu của Hồng Kông phát triển rất nhanh. Cùng với nó là việc chú trọng phát
triển hàng hải và ngân hàng, chính quyền Hồng Kông đà cho thành lập một
mạng l-ới ngân hàng và rất nhiều chi nhánh ở n-ớc ngoài, thậm chí ngân
hàng n-ớc ngoài cũng đ-ợc cấp giấy phép thành lập ở Hồng Kông. Hệ thống
ngân hàng đà giúp cho quá trình thanh toán quốc tế đ-ợc thuận lợi, góp phần
thúc đẩy hoạt động th-ơng mại quốc tế và các giao dịch ngoại hồi ở Hồng
Kông. Ng-ợc lại chính sự gia tăng của các hoạt động th-ơng mại đà tạo điều
kiện cho ngân hàng có thể phát triển mở rộng và hiện đại hoá các hoạt động
dịch vụ nhờ vào lệ phí thu đ-ợc từ các hoạt động th-ơng mại. Hệ thống tài
chính thực sự phát triển đà phần nào bù đắp những thiếu hụt th-ơng mại do
xu h-ớng bảo vệ mậu dịch đang phát triển, nhờ vậy mà mậu dịch đối ngoại
vẫn không ngừng tăng lên. Bên cạnh đó hoạt động dịch vụ du lịch cũng đ-ợc
chú trọng phát triển, năm 1980 Hồng Kông đón 2,4 triệu khách tham quan,
đến năm 1995 con số đó là 9,8 triệu ng-ời, Hồng Kông đà thành công trong
viƯc thiÕt lËp mét nỊn kinh tÕ theo h-íng ®a nguyên hoá.
1.2.1.4. Từ "đa nguyên hoá" kinh tế sang "thay đổi cơ cấu" kinh tế
(1984 - 1997).
Giai đoạn này, kinh tế Hồng Kông gặp khá nhiều thăng trầm: đầu thập kỷ
80 kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái. Những đối thủ th-ơng mại
của Hồng Kông liên tiếp thắt chặt các biện pháp th-ơng mại để bảo vệ thÞ
11
tr-ờng. Hồng Kông lại gặp khó khăn lớn về xuất khẩu, nhất là các mặt hàng
của ngành công nghiệp chế tạo.
Song rất may mắn, năm 1984 hai n-ớc Trung- Anh đà tiến hành đàm
phán và ký kết tuyên bố chung về vấn đề trao trả Hồng Kông. Ng-ời Hồng
Kông và các th-ơng gia n-ớc ngoài đà nhìn thấy h-ớng phát triển của Hồng
Kông trong t-ơng lai, vì thế đà tiến hành đầu t- kinh doanh mạnh hơn, nền
kinh tế Hồng Kông lại đ-ợc phục hồi và phát triển.
Tuy nhiên, giai đoạn phát triển của kinh tế Hồng Kông kéo dài không lâu
Năm 1989 nền kinh tế Hồng Kông lại rơi vào tình trạng chao đảo do đồng đô
la Hồng Kông tăng mạnh so với đồng đô la Mỹ làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng hoá Hồng Kông trên thị tr-ờng. Bên cạnh đó hàng loạt các
trung tâm xuất khẩu khu vực nổi lên nh- Singapo, Th-ợng Hải,
Kualalămpơ... Hồng Kông buộc phải tìm cho mình một lối thoát, mở ra
h-ớng đi mới cho nền kinh tế thông qua các hoạt động th-ơng mại và đầu tra bên ngoài mà chủ yếu là Trung Quốc lục địa, sau đó là Inđônêxia, Đài
Loan, Singapo, Thái Lan, Việt Nam... Phía Hồng Kông cung cấp máy móc,
thiết bị, vốn, công nghệ kỹ thuật còn phía các đối tác cung cấp nhà x-ởng và
lao động. Với cách làm này Hồng Kông đà khai thác triệt để giá nhân công
rẻ và các chi phí khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dịch vụ
phát triển.
Từ một nơi mà hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua hoạt động mậu dịch,
chuyển khẩu, các ngành công nghiệp nhẹ... giờ đây Hồng Kông đà h-ớng
đầu t- ra bên ngoài tận dụng những -u thế về nguyên vật liệu, lực l-ợng lao
động, thuế quan... Sự chuyển dịch này đà làm cho kinh tế Hồng Kông thoát
khỏi tình trạng trì trệ kéo dài, tính cạnh tranh đ-ợc nâng cao. Đồng thời việc
chuyển đổi từ cơ cấu kinh tế tổng thể từ công nghiệp chế tạo sang dịch vụ đÃ
làm cho nền kinh tế Hồng Kông phát triển rất mạnh mÏ.
12
Nh- vậy, nhìn vào chặng đ-ờng phát triển kinh tế Hồng Kông 50 năm
qua, ta thực sự cảm thấy đáng khâm phục vì những gì mà Hồng Kông đà đạt
đ-ợc. Hồng Kông ngày nay đà có một vị trí quan träng trong ®êi sèng kinh tÕ
thÕ giíi. Trong st 48 năm (1947- 1994) GDP Hồng Kông tăng từ 1.535 tỉ
HKD lên 1019.228 tỉ HKD tức là 664 lần. Trong 30 năm (1966 - 1996) mức
tăng tr-ởng kinh tế của Hồng Kông bình quân hàng năm là 7,5%, thu nhập
bình quân tính theo đầu ng-ời tăng từ 668 USD lên 23.019 USD tăng 34 lần.
Hồng Kông là một trung tâm th-ơng mại lớn của khu vực và thế giới.
Tổng kim ngạch mậu dịch năm 1989 tăng 410 lần so với năm 1947, năm
1994 tổng khối l-ợng xuất khẩu của Hồng Kông đạt 314 tỉ USD đứng thứ 7
thế giới. Năm 1995, với tổng kim ngạch là 362 tỉ USD và năm 1996 là 380 tỉ
USD. Hiện Hồng Kông có khối l-ợng mậu dịch đứng thứ 5 thế giới sau EU,
Mỹ, Nhật, Canađa.
Hồng Kông còn là một trung tâm tài chính quốc tế quan trọng. Nhờ có
chính sách tài chính cởi mở với bên ngoài hệ thống pháp luật hoàn thiện,
thông tin phát triển, môi tr-ờng kinh doanh thuận lợi... nên Hồng Kông đÃ
mau chóng nổi tiếng là một trung tâm tài chính quan trọng trên thế giới. Nếu
nh- cuối năm 1994, Hồng Kông mới có 573 ngân hàng và tổ chức tài chính
đặt văn phòng, thì đến năm 1996 đà có tới 8.456 công ty n-ớc ngoài đặt trụ
sở, văn phòng đại diện ở Hồng Kông, hơn 800 công ty đa quốc gia mở văn
phòng đại diện chính thức hoặc văn phòng khu vực tại đây. Vì vậy Hồng
Kông đà trở thành một trong năm trung tâm tài chính thế giới (New York,
London, Pari, Tokyo, và Hồng Kông), trở thành một trong bốn con rồng của
châu á với một nền kinh tế đ-ợc đánh giá là năng động nhất thế giới.
1.2.2. thực trạng về chính trị.
Thuyết "để mặc họ làm" (Laissez-faire) mà chính quyền Anh đà áp dụng
đối với nền kinh tế Hồng Kông đà biến Hồng Kông trở thành một n¬i cã nỊn
kinh tÕ tù do nhÊt thÕ giíi. Tuy nhiên đối với chính trị thì chính phủ Anh
13
không thể làm nh- thế mà thực hiện chính sách "thuộc địa tự trị" (crown
colonies) đối với Hồng Kông. Với chế độ này, ng-ời đứng đầu Hồng Kông là
một quan toàn quyền (hay tổng đốc), là ng-ời thay mặt Nữ hoàng Anh nắm
toàn bộ quyền cai trị Hồng Kông, có quyền lực rất lớn chỉ "đứng sau th-ợng
đế". D-ới dinh toàn quyền có năm cơ quan:
1. Cơ quan t- vấn: gồm có cục hành chính và cục lập pháp Quan toàn
quyền là chủ tịch cục hành chính, đồng thời là chủ tịch cục lập pháp.
2. Cơ quan hành chính: gồm ti bố chánh và bộ máy hành chính trực thuộc
(hơn 10 vạn viên chức).
3. Cơ quan t- pháp: gồm ti án sát và toà án các cấp.
4. Cơ quan giám sát: gồm sở liêm chính.
5. Cơ quan quân sự: chủ yếu gồm bộ t- lệnh quân đội Anh đóng tại Hồng
Kông.
Trong các cơ quan trên thì cơ quan t- pháp có tính độc lập t-ơng đối
(chịu trách nhiệm tr-ớc pháp luật, toàn quyền không đ-ợc can thiệp); cơ
quan quân sự đặt d-ới sự chỉ huy của Bộ Quốc Phòng Anh. Còn các cơ quan
t- vấn, hành chính và giám sát đều đặt d-ới quyền cai quản trực tiếp của
quan toàn quyền. Do địa bàn hẹp và do muốn quyền lực tập trung ở cấp cao,
nên ở Hồng Kông không thiết lập các cấp chính quyền địa ph-ơng. Chỉ có
"cục thị chính", "cục thị chính khu vực" và "hội đồng khu" nh-ng cả ba tổ
chức đó đều không phải là các cấp chính quyền, "cục thị chính" là tổ chức
dịch vụ văn hoá, y tế... cho c- dân thành phố, "cục thị chính khu vực" là tổ
chức dịch vụ văn hoá y tế cho c- dân ở khu Tân Giới, còn "hội đồng khu" là
cơ quan có tính chất t- vấn để c- dân tham gia ý kiến vào công việc trong
khu của mình. Thành viên của ba tổ chức này đều không phải do dân bầu ra
mà do cấp trên chỉ định.
Trung tâm quyền lực hành chính là: "Hội nghị giữa quan toàn quyền và
cục hành chính". Cục hành chính th-ờng họp mỗi tuần một lần, do quan toàn
14
quyền triệu tập, các thành viên do quan toàn quyền chỉ định. Trong cuộc họp
các "nghị viên" có thể tự do phát biểu ý kiến của mình, nh-ng không có biểu
quyết, mà quyết định cuối cùng do quan toàn quyền đ-a ra, "nghị viên" nào
không nhất trí với quyết định của quan toàn quyền thì chỉ có thể yêu cầu ghi
ý kiến của mình vào biên bản. Biên bản cuộc họp sẽ đ-ợc gửi về London.
Quyền lập pháp ở Hồng Kông cũng nằm trong tay quan toàn quyền. "Cục
lập pháp" cũng chỉ là cơ quan t- vấn về lập pháp của quan toàn quyền "cục
lập pháp" tranh luận thông qua các đạo luật, nh-ng cuối cùng phải đ-ợc quan
toàn quyền phê chuẩn và ban bố. Nữ Hoàng Anh có quyền bác bỏ các đạo
luật đà d-ợc quan toàn quyền phê chuẩn. " Cục lập pháp" còn có chức năng
thảo luận, giám sát việc chi ngân sách, chất vấn các chính sách của chính
quyền và các vấn đề công chúng quan tâm. Tr-ớc năm 1985 toàn bộ thành
viên của "cục lập pháp" đều do chỉ định, từ sau năm 1985 mới bắt đầu có một
số thành viên do dân cử. Trong số 60 thành viên của "cục lập pháp" khoá
1991-1995 có 39 thành viên do dân cử, 3 thành viên đ-ơng nhiệm và 18
thành viên do quan toàn quyền chỉ định.
Nếu đối chiếu với nguyên tắc "tam quyền phân lập" trong hệ thống nhà
n-ớc TBCN, thì ta thấy quyền hành pháp và quyền lập pháp không "phân
lập" mà đều thống nhất tập trung trong tay quan toàn quyền. Đó là do chính
phủ Anh muốn thông qua một chính quyền độc tài do quan toàn quyền đứng
đầu để nắm chắc và giữ vững sự ổn định của Hồng Kông và những mục tiêu
ngoại giao, th-ơng mại và quân sự.
Nền chính trị của Hồng Kông còn có một hệ thống tổ chức t- vấn chính
trị rất rộng rÃi. Quan toàn quyền độc tài quyết định mọi vấn đề, nh-ng tr-ớc
khi đ-a ra quyết ®Þnh ®Ịu tranh thđ sù ®ãng gãp ý kiÕn réng rÃi của các quan
t- vấn. Một số học giả Hồng Kông cho rằng đặc điểm của nền chính trị Hồng
Kông là độc tài của toàn quyền cộng với dân chủ của cơ quan t- vấn. Về
khách quan, chế độ chính trị đó đà bảo đảm sự ổn định chính trị và sự phát
15
triển kinh tế của Hồng Kông trong hơn một nửa thế kỷ qua. Trong thời kỳ
quá độ tr-ớc khi Trung Quốc tiến hành khôi phục chủ quyền, tình hình chính
trị Hồng Kông xuất hiện những vấn đề mới. Toàn quyền cuối cùng của Hồng
Kông là Christopher Patten đà "cải cách dân chủ" để thay đổi một số thể chế
chính trị ở Hồng Kông tr-ớc ngày Trung Quốc khôi phục chủ quyền nh-ng
đà thất bại tr-ớc sự phản đối của chính phủ Trung Quốc.
Ngày 19-12-1984 tại Bắc Kinh (Trung Quốc) Thủ t-ớng Trung Quốc
Triệu Tử D-ơng và Thủ t-ớng Anh M. Thatcher đà chính thức ký "tuyên bố
chung Trung - Anh". Đây là kết quả trong suốt cả hai bên Trung - Anh tÝch
cùc xóc tiÕn c¸c cc tiÕp xóc, trao đổi hết sức căng thẳng và phức tạp.
Tuyên bố chung Trung - Anh cùng với "Luật cơ bản khu hành chính đặc biệt
Hồng Kông" đà cam kết rằng sẽ để Hồng Kông để h-ởng quyền tự trị cao độ,
duy trì chế độ chính trị, pháp luật hiện hành và vốn sống vốn có trong"50
năm không thay đổi". Việc thực hiện chủ quyền của chính phủ Trung Quốc
đối với Hồng kông chủ yếu là vấn đề quốc phòng và ngoại giao.
"50 năm không thay đổi" là một cách nói. Sự vật luôn thay đổi, không có
gì là bất biến, mà vấn ®Ị lµ thay ®ỉi nh- thÕ nµo" {19-52}. ChÝnh phđ Trung
Hoa cam kết duy trì thể chế chính trị và lối sống của Hồng Kông "50 năm
không thay đổi" có nghĩa là cam kết để Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông
đ-ợc h-ởng một qui chế tự trị và lâu dài. Chính phủ trung -ơng không áp đặt
thể chế và lối sống mới, để Hồng Kông tiếp tục ổn định và phồn vinh. Điều
đó không những phù hợp với nguyện vọng của riêng Hồng Kông mà còn rất
quan trọng với lợi ích của cả Trung Quốc. Nh-ng nh- vậy không có nghĩa là
nền chính trị và lối sống của Hồng Kông "sẽ đ-ợc -ớp lạnh trong 50 năm"
{19-52}. XÃ hội Hồng Kông sẽ luôn thay đổi: "50 năm chỉ là cách nói về sự
lâu dài chứ không phải là một định l-ợng thời gian cụ thể".
1.2.3. tình hình văn hoá x· héi.
16
Víi chÝnh s¸ch tù do réng r·i vỊ kinh tÕ, văn hoá xà hội, Hồng Kông trở
thành nơi hội tụ rất nhiều các yếu tố về văn hoá, xà hội của rất nhiều quốc
gia và khu vực trên thế giới. Chính sách đó đà biến Hồng Kông trở thành một
"đô thị quốc tế lớn" về văn hoá, xà hội.
1.2.3.1. tình hình xà hội.
ở Hồng Kông, c- dân Trung Quốc đại lục (mà chủ yếu là ng-ời Quảng
Đông, Th-ợng Hải ) chiếm số đông với với 96% tổng số dân Hồng Kông,
ngoài ra còn ng-ời Anh, Philippin, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Mỹ, Canađa,
Pakittan, Bănglađét, Xrilanca, Thái Lan, Việt Nam... Trong số ng-ời Hoa ở
Hồng Kông thì một nửa đ-ợc sinh ra và lớn lên ở Hồng Kông, số còn lại là
sinh ra ở Đại Lục di c- sang. Phần lớn ng-ời Hoa có quốc tịch Anh, số còn
lại mang cả hai quốc tịch.
Về phân bố dân c-: Hồng Kông đ-ợc coi là nơi có mật độ dân c- cao vào
loại hàng đầu thế giới, năm 1991 mật độ dân c- trên 1km là 5.385 ng-ời. Sở
dĩ Hồng Kông có mật độ dân số cao nh- vậy là do ng-ời ở các nơi khác di ctới rất đông. Mật độ dân c- phân bố đông nhất là ở bán đảo Tân Giới (41,9%)
và Cửu Long (35,8%) còn lại là ở Hồng Kông (22%) và các đảo nhỏ khác.
Về tháp tuổi dân c- ở Hồng Kông, ngày càng có hiện t-ợng trẻ hoá dân
số. Năm 1941, dân số Hồng Kông mới chỉ có 1.639.337 ng-ời, tỉ lệ tăng
tr-ởng bình quân mỗi năm là 6,65%; đến năm 1991 dân số Hồng Kông đÃ
tăng lên 5.647.114 ng-ời, song tỉ lệ tăng tr-ởng lại giảm xuống 0,6%. Vì vậy
tỉ lệ độ tuổi từ 0 đến 14 tuổi có chiều h-ớng giảm dần. Trong khi đó tØ lƯ sè
ng-êi ë ®é ti lao ®éng tõ 15 - 64 tuổi lại ngày càng tăng: "năm 1961 là
56,4%; năm 1981 chiếm 68,6%; năm 1991 là 70,4%"{5 - 49}. Nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới hiện t-ợng trẻ hoá dân số ở Hồng Kông là do một lực l-ợng
lớn thanh niên ở độ tuổi lao động từ các nơi khác đến Hồng Kông tìm việc
làm đặc biệt là từ Trung Quốc Đại Lục; nguyên nhân thứ hai là do tỉ lệ sinh
từ cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 t-ơng đối cao, song cuối thập niên 60 tỉ
17
lệ lại giảm dần. Hồng Kông từ tr-ớc tới nay đà trở thành miền đất hứa cho
lực l-ợng lao động từ các nơi khác đến tìm việc làm và hiện t-ợng trẻ hoá
dân số. Tuy là gánh nặng về việc làm song lại là lợi thế to lớn cho Hồng
Kông trên con đ-ờng phát triển kinh tế.
Về tín ng-ỡng và tôn giáo: Hồng Kông vốn dĩ là một "đô thị quốc tế",
chính vì thế đây là nơi dung hợp rất nhiều tôn giáo và tín ng-ỡng trên thế
giới, hiện nay Hồng Kông có khoảng hơn 10 loại tôn giáo khác nhau nhphật giáo, thiên chúa giáo, cơ đốc giáo, hồi giáo, ấn độ giáo, đạo do
thái, đạo chính thống Nga... Với số l-ợng tín đồ lên tới hàng triệu ng-ời,
trong đó phật giáo có hơn 600 tín đồ, đạo giáo 10.000 tín đồ, thiên chúa
giáo và cơ đốc giáo mặc dù du nhập muộn hơn nh-ng đà có số l-ợng rất
đông đảo: thiên chúa giáo có 260.000 tín đồ, cơ đốc giáo là 240.000 tín
đồ. Hồi giáo có số l-ợng tín đồ là 50.000 và rất nhiều các tôn giáo khác
nh-ng có số l-ợng rất hạn chế. Điều đặc biệt là, tất cả các tôn giáo kể trên
đều không có quê h-ơng ở Hồng Kông, mà là sự du nhập qua quá trình mở
cửa tự do và giao l-u kinh tế. Các tín đồ đến Hồng Kông với chỉ một mục
đích là kinh doanh, buôn bán chứ không có mục đích chính trị. Từ chính sách
mở cửa tự do, phóng khoáng về kinh tế của chính quyền Hồng Kông đà làm
cho các tín đồ của các tôn giáo sống với nhau khá hữu hảo, không có mâu
thuẫn tôn giáo. Các tín đồ và Hồng Kông sống bính đẳng và tự do vì thế nó
đà lôi cuốn rất nhiều các tín đồ thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi... Điều đó chứng
tỏ rằng tôn giáo ở Hồng Kông có một sức sống rất mÃnh liệt trong quảng đại
quần chúng nhân dân.
1.2.3.2. Đời sống văn hoá ở Hồng Kông.
Hồng Kông là mảnh đất hứa của sự hội tụ, giao thoa văn hoá thế giới.
Khó có mảnh đất nào trên thế giới lại có những đặc tr-ng tiêu biểu của sự kết
hợp hài hoà giữa văn hoá Đông - Tây. Nhìn lại lịch sử ta thÊy r»ng Hång
18
Kông tr-ớc đây vốn chịu ảnh h-ởng của văn hoá Quảng Đông và văn hoá
Trung Nguyên, những nền văn hoá đậm chất á đông, đến thời kì cận - hiện
đại, cùng với quá trình xâm l-ợc của thực dân Anh thì văn hoá ph-ơng Tây
bắt đầu xâm nhập và thẩm thấu trong lòng xà hội Hồng Kông. Chính vì thế
mà khó có thể khái quát đ-ợc bản sắc văn hoá Hồng Kông bởi vì nó rất
"ph-ơng Tây" và cũng rất "ph-ơng Đông", rất hiện đại và cũng rất truyền
thống.
Có thể nói văn hoá Hồng Kông là nền văn hoá "mở cửa tự do", là nơi
giao thoa giữa hai nền văn hoá Đông - Tây. Nói cách khác, văn hoá Hồng
Kông là nền văn hoá đa nguyên đ-ợc hình thành từ sự hoà trộn với nền văn
hoá khác. Đặc tr-ng đó càng đ-ợc phát huy bởi một chính sách không can
thiệp khá cởi mở và tự do của chính quyền Hồng Kông. ở Hồng Kông, ng-ời
dân có quyền tự do về ngôn luận, văn hoá, sáng tác, tín ng-ỡng...văn hoá bên
ngoài cũng đ-ợc tự do du nhập vào Hồng Kông. Một mảnh đất Hồng Kông
nhỏ bé mà có tới 70 tờ báo hàng ngày với hơn 600 loại tạp chí, 200 NXB,
nhiều đài phát thanh và truyền hình của chính quyền và t- nhân. Ngoài ra
còn có tới hơn 100 quốc gia trên thế giới đặt cơ quan thông tấn.
Mặc dù có một vài sự quản lý nhất định từ chính quyền nh-ng tự do báo
chí và các ph-ơng tiện thông tin khác ở Hồng Kông đ-ợc đánh giá là cao
nhất thế giới. Hàng ngày ng-ời ta có thể nhận đ-ợc từ Hồng Kông mọi nguồn
tin và mọi sự bình luận về các sự kiện trong n-ớc và quốc tế. Hồng Kông
thực sự trở thành một trong những nền văn hoá më cưa tù do nhÊt thÕ giíi
hiƯn nay.
1.3. chÝnh s¸ch của n-ớc chnd trung hoa đối với hồng
kông
1.3.1. Lập tr-ờng cơ bản của chính phủ CHND Trung Hoa
đối với Hồng K«ng.
19
Để tìm hiểu vấn đề này chúng ta cần ng-ợc thời gian trở về lịch sử để
thấy đ-ợc quá trình thực dân Anh xâm l-ợc Hồng Kông.
Năm 1840, Đế Quốc Anh đà mở cuộc chiến tranh nha phiến chống lại
triều đình MÃn Thanh. Ngày 29/2/1842 chính phủ Anh và triều đình nhà
Thanh ký "hiệp -ớc Nam Kinh "về việc chấm dứt cuộc chiến tranh nha phiến.
Theo hiệp -ớc này, hòn đảo H-ơng Cảng thuộc về v-ơng quốc Anh vĩnh
viễn.
Năm 1856, trong lúc phong trào "Thái Bình Thiên Quốc" đang ở đỉnh
cao, nhà Thanh không thể chống đỡ nổi, lợi dụng tình hình đế quốc Anh tiến
hành cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ 2 và buộc nhà Thanh phải ký "Điều
-ớc Bắc Kinh"vào ngày 24-10-1860. Điều -ớc này lúc đầu gọi là "Nghị định
th-" bổ sung cho Hiệp -ớc Nam Kinh.Theo điều -ớc này nhà Thanh phải
nh-ờng vĩnh viễn cho V-ơng Quốc Anh phần phía Nam bán đảo Cửu Long
(Kowloon).
Năm 1894 - 1895, Trung Quèc thÊt b¹i trong cuéc chiÕn tranh TrungNhật. Lợi dụng cơ hội đó, chính phủ Anh buộc nhà Thanh ký thêm "Công
-ớc về việc mở rộng chỉ giới Hồng Kông" vào ngày 9-6-1898 theo đó phía
Trung Quốc phải cho V-ơng quốc Anh thuê phần đất phía Bắc bán đảo Cửu
Long trong vòng 99 năm kéo dài đến tận sông Shum - Chun và những hòn
đảo kế cận gọi là vùng Tân Giới.
Nh- vậy từ năm 1840 đến năm 1898 đế quốc Anh lợi dụng sự đớn hèn
của Triều đình nhà Thanh đà chiếm đ-ợc toàn bộ Hồng Kông gồm bán đảo
H-ơng Cảng, bán đảo Cửu Long và vùng Tân Giới. Về danh nghĩa thì bán
đảo Cửu Long và hòn đảo H-ơng Cảng thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của
V-ơng quốc Anh. Song sau năm 1949 cách mạng Trung Quốc thành công,
n-ớc CHND Trung Hoa ra đời, đà lên tiếng phản đối không thừa nhận tính
pháp lý của các hiệp định mà triều đình nhà Thanh đà ký với n-ớc đế quốc.
Chính vì thế mà chính phủ Trung Hoa đà kiên quyết sẽ khôi phục lại chủ
20
quyền của Hồng Kông vào một thời điểm thích hợp nhất. Quan điểm này đÃ
đ-ợc sự hoan nghênh cuả d- luận quốc tế và trong n-ớc. Với quyết tâm đó,
tháng 9 năm 1982 hai n-ớc Trung - Anh đà chính thức ngồi vào đàm phán về
vấn đề Hồng Kông.
Về phía Anh, đ-ơng nhiên không dễ dàng bỏ đi một mảnh đất giàu có,
một nguồn lợi nhuận kếch xù mà V-ơng quốc Anh đang nắm quyền thống
trị. Phía Anh cho rằng: Hồng Kông có tính chất nh- là một đặc khu, nên chủ
quyền và quyền quản trị có thể tách riêng. Điều đó có nghĩa là phía Anh
muốn sau khi trao trả chủ quyền, thì quyền quản trị Hồng Kông vẫn do ng-ời
Anh nắm giữ. Thủ t-ớng Anh lúc đó là bà M.Thatcher đà tuyên bố: "sự phồn
vinh của Hồng Kông hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự quản trị của Anh quốc, nếu
bây giờ thực hiện hoặc tuyên bố sự thay đổi lớn về quyền cai trị Hồng Kông
thì chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mất lòng tin và không thể đảm bảo sự
phồn vinh của Hồng Kông". Bà Thatcher cßn nãi: "NÕu hai chÝnh phđ Trung
- Anh cã thĨ đi đến một thoả thuận về quyền quản trị t-ơng lai của Hồng
Kông mà quốc hội Anh có thể chấp nhận và ng-ời dân Hồng Kông có thể tin
cậy thì chÝnh phđ Anh qc cã thĨ xem xÐt vÊn ®Ị chđ qun". Thùc chÊt
phÝa Anh ®ang mn ®ỉi chđ qun lấy quyền quản trị Hồng Kông.
Về phía Trung Quốc, rõ ràng không thể chấp nhận đề nghị từ phía chính
phủ Anh. Tr-ớc sau chính phủ Trung Quốc luôn giữ vững lập tr-ờng của
mình. Trong bài nói chuyện tại buổi tiếp Thủ t-ớng Anh M.Thatcher vào
tháng 9-1982, thủ t-ớng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đà khẳng định: "Lập
tr-ờng cơ bản của chúng tôi đối với vấn đề Hồng Kông rõ ràng, trong đó chủ
yếu có ba vấn đề: Một là, vấn đề chủ quyền; Hai là, sau năm 1997, Trung
Quốc dùng ph-ơng thức gì để quản lý Hồng Kông; Ba là, chính phủ hai n-ớc
Trung Quốc và Anh phải th-ơng l-ợng ổn thoả làm sao để Hồng Kông trong
15 năm, từ nay đến 1997 không có xáo động lớn" {25-19}.
21
Về vấn đề chủ quyền, Đặng Tiểu Bình khẳng định: "Thẳng thắn mà nói
chủ quyền không phải là vấn đề có thể thoả thuận đ-ợc. Hiện nay thời cơ đÃ
chín muồi, cần phải khẳng định rõ : Năm 1997 Trung Quốc sẽ thu hồi Hồng
Kông. tức là Trung Quốc sẽ thu hồi không chỉ có Tân Giới mà cả đảo Hồng
Kông, Cửu Long" {25-19}.
Đặng Tiểu Bình đà khẳng định chắc chắn về lập tr-ờng của phía Trung
Quốc, rằng việc khôi phục chủ quyền của Hồng Kông là điều chắc chắn
không thể bàn cÃi, ông Đặng còn khẳng định việc khôi phục sẽ tiến hành vào
năm 1997.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sẽ thu hồi Hồng Kông bằng ph-ơng thức nào
và sau khi thu hồi sẽ áp dụng chính sách gì đối với Hồng Kông. Phía Trung
Quốc khẳng định: "Chỉ có hai ph-ơng thức: Một là ph-ơng thức hoà bình, hai
là ph-ơng thức không hoà bình. áp dụng ph-ơng thức hoà bình để giải quyết
vấn đề Hồng Kông phải nghĩ tới tình hình thực tế của Hồng Kông, của Trung
Quốc và của Anh quốc". {12-51}. Đ-ơng nhiên sau khi thu hồi không thể áp
dụng một chính sách XHCN đối với Hồng Kông, mà phải có một chính sách
đều đ-ợc cả ba bên chấp nhận (Trung Quốc, Anh, Hồng Kông). Chính sách
đó chỉ có thể là: "một n-ớc hai chế độ" cho phép Hồng Kông tiếp tục thực
hiện chế độ TBCN giữ nguyên vị trí cảng tự do và trung tâm tài chính quốc
tế.
Với chủ tr-ơng và quyết tâm sắt đá của phía Trung Quốc. Cuộc đàm
phán Trung - Anh đ-ợc bắt đầu từ ngày 23-9-1982 đến ngày 19-12-1984 trải
qua hàng chục vòng đàm phán gay go và quyết liệt, cuối cùng cả hai bên đều
thống nhất đi đến ký kết tuyên bố chung Trung - Anh. Với những nội dung
cụ thể nh- sau:
- Công việc ngoại giao, quốc phòng do chính phủ trung -ơng quản lý,
khu hành chính đặc biệt Hồng Kông đ-ơc h-ởng quyền tự trị cao độ, gồm
22
quyền quản lý hành chính, quyền lập pháp, quyền t- pháp và quyền chung
thẩm.
- Luật pháp hiện hành về cơ bản không thay đổi.
- Chính quyền khu hành chính đặc biệt Hồng Kông gồm những ng-ời
bản địa.
- Tr-ởng quan hành chính do địa ph-ơng bầu hoặc hiệp th-ơng cử ra, do
chính phủ trung -ơng bổ nhiệm.
- Chế độ xà hội, kinh tế Hồng Kông không thay đổi, lối sống không thay
đổi.
- Hồng Kông vẫn duy trì vị trí là một c¶ng tù do mét khu thuÕ quan tù do,
mét trung tâm tài chính quốc tế, có nền tài chính độc lập.
- Khu hành chính đặc biệt Hồng Kông có thể duy trì phát triển quan hệ
riêng về kinh tế, văn ho¸ víi c¸c n-íc, c¸c khu vùc c¸c tỉ chøc quốc tế
"Hồng Kông - Trung Quốc".
- Quyền lợi kinh tế của n-ớc Anh và các n-ớc khác tại Hồng Kông sẽ
đựơc chiếu cố.
- Về duy trì trị an xà hội ở Hồng Kông sẽ do chính quyền đặc khu Hồng
Kông đảm nhiệm.
- Những ph-ơng châm chính sách trên của Trung Quốc "50 năm không
thay đổi".
Rõ ràng, việc hai n-ớc Trung - Anh ký kết tuyên bố chung đà tạo điều
kiện quan träng cho nỊn kinh tÕ, x· héi cđa Hång Kông phát triển. Nó xoá
tan đi bầu không khí ảm đạm bao trùm lên nền kinh tế Hồng Kông trong
những năm 1980. Đồng thời mở ra một h-ớng mới cho sự phát triển toàn
diện của Hồng Kông.
1.3.2. Thành công của chính sách "Một n-ớc hai chế độ".
"Một n-ớc hai chế độ" là ph-ơng châm chiến l-ợc quan trọng của Đảng
và chính phủ Trung Quốc để giải quyết vấn đề Hồng Kông, Ma Cao và Đài
23
Loan, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất n-ớc. Chính sách "một n-ớc hai
chế độ" là một quá trình lịch sử, đồng thời có nội dung phong phú và ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc. Nó đ-ợc đánh giá là một trong những thành tựu nổi bật
trong 25 năm cải cách - më cưa cđa Trung Qc. ¸p dơng chÝnh s¸ch "một
n-ớc hai chế độ" vào Hồng Kông. Thủ t-ớng Đặng Tiểu Bình đà khẳng định:
"Chính sách của chúng tôi là thùc hiƯn" Mét qc gia hai chÕ ®é". Cơ thĨ là:
Trong một n-ớc CHND Trung Hoa đại lục với hơn 1 tỉ nhân khẩu theo chế
độ XHCN, còn Hồng Kông thực hiện chế độ TBCN"{25-68}. Tức là sau năm
1997 khi Trung Quốc thu hồi Hồng Kông thì chế độ xà hội, kinh tế hiện
hành của Hồng Kông không thay đổi, ph-ơng thức sống không thay đổi, địa
vị cảng tự do và địa vị trung tâm tài chính, mậu dịch quốc tế của Hồng Kông
cũng không thay đổi.
Rõ ràng chính sách "mét n-íc hai chÕ ®é" (one country two systems) cã
néi dung cơ bản là d-ới tiền đề của một Trung Quốc, chủ thể quốc gia kiên
trì chế độ XHCN. Hồng Kông là một bộ phận lÃnh thổ không thể tách rời của
Trung Quốc, duy trì chế độ TBCN trong một thêi gian dµi. N-íc CHND
Trung Hoa lµ chÝnh phđ duy nhất đại diện cho toàn Trung Quốc. "Hai chế
độ" của chính sách "Một n-ớc hai chế độ có thể cùng tồn tại lâu dài và cùng
phát triển ở Trung Quốc do hiến pháp qui định thành lập khu hành chính đặc
biệt" {10-66}.
Chính sách "một n-ớc hai chế độ" là một thành công lớn, một sáng kiến
lịch sử. Trên thực tế, d-ới sự chỉ đạo của chính sách "một n-ớc hai chế độ",
chính phủ Trung Quốc đà lần l-ợt khôi phục chủ quyền cho Hồng Kông, Ma
Cao. Đáng nói là, với chính sách này không chỉ thực hiện đ-ợc nguyện vọng
thống nhất đất n-ớc của nhân dân Trung Quốc, mà quan trọng hơn nó vẫn
duy trì đ-ợc sự ổn định và phát triển về kinh tế, xà hội của Hồng Kông. Ngay
sau khi trở về với Trung Quốc Đại Lục (1-7-1997) Hồng Kông chịu ảnh
h-ởng bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á. Song Hồng Kông vẫn duy trì
24
đ-ợc địa vị trung tâm tiền tệ quốc tế, trung tâm mậu dịch, vận tải, thông tin,
du lịch... Là một trong những khu vực có sức cạnh tranh lớn nhất thế giới.
Chính sách "Một n-ớc hai chế độ" là một nhân tố quan trọng hàng đầu đảm
bảo cho sự ổn định và phát triển của Hồng Kông sau năm 1997.
1.3.3. Luật cơ bản khu hành chính đặc biệt Hồng Kông và
điều kiện phát triển sau năm 1997.
Sau khi Trung Quốc và Anh ký kết tuyên bố chung năm 1984 tại Bắc
Kinh về việc Anh sẽ trao trả chủ quyền Hồng Kông cho Trung Quốc đúng
thời hạn vào tháng7 năm 1997, năm1990 Quốc hội Trung Quốc đà thông qua
bộ "Luật cơ bản về đặc khu hành chính Hồng Kông của CHND Trung Hoa"
(gọi tắt là "Luật cơ bản").
"Luật cơ bản" của Trung Quốc giành nhiều điều khoản quy định về phạm
vi hoạt động đối ngoại của Hồng Kông sau năm 1997 trên cơ sở kết hợp giữa
luật pháp Trung Quốc với luật pháp quốc tế đang thực thi tại Hồng Kông.
Mục đích lập pháp chủ yếu của "Luật cơ bản" là xác định chủ quyền quy
thuộc để quản lý Hồng Kông về chính trị, quốc phòng, đồng thời duy trì sự
phồn vinh, ổn định của Hồng Kông về kinh tế, phục vụ lợi ích kinh tế của
Trung Quốc.
Căn cứ vào nội dung của "Luật cơ bản", hÃy xem Trung Quốc kế thừa và
sửa đổi quyền hạn đối ngoại của Hồng Kông sau năm 1997 nh- thế nào ?
- Quyền lực đặc khu hành chính đặc biệt Hồng Kông trong các điều -ớc
quốc tế.
"Luật cơ bản" quy định rõ đặc khu hành chính Hồng Kông là một khu
vực hành chính địa ph-ơng của Trung Quốc, không có t- cách pháp luật độc
lập trong quan hệ đối ngoại. Các quyền hạn đặc thù về quan hệ đối ngoại của
Hồng Kông sẽ do chính phủ Trung -ơng quy định trên cơ sở chủ quyền quèc
gia.
25