Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hoá và lễ hội truyền thống ở làng quỳ chữ (hoằng hoá thanh hoá)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.55 KB, 92 trang )

Tr-ờng Đại học Vinh
khoa lịch sử
----------------------

Lê thị thanh

Tóm tắt khoá luận tốt nghiệp

tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hoá và
lễ hội truyền thống ở làng quỳ chữ
(hoằng hoá - thanh hoá

)

chuyên ngành: lịch sử văn hoá

Khoá 42 Lớp E3

Giáo viên h-ớng dẫn:
GVC. ThS.

Hoàng Quốc Tuấn

VInh - 2006

1


lời cảm ơn
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này, bản thân tôi luôn nhận đ-ợc sự
h-ớng dẫn tận tình của thầy giáo h-ớng dẫn GVC.Ths Hoàng Quốc Tuấn cùng


các thầy cô giáo trong Khoa Lịch sử Tr-ờng Đại học Vinh. Với sự cố gắng nổ
lực của bản thân, sự động viên khích lệ của bạn bè đà giúp tôi hoàn thành bài
tập tiểu luận của mình.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo h-ớng dẫn
GVC. Ths Hoàng Quốc Tuấn cùng các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử và xin
gửi đến các thầy, cô giáo lời cảm ơn chân thành nhất.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn UBND xà Hoằng Quỳ, cán bộ và nhân
dân làng Quỳ Chữ đà tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình điền dà và s-u
tầm tài liệu tại làng.
Vì thời gian và nguồn tài liệu có hạn, chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu
sót, kính mong nhận đ-ợc các ý kiến đóng góp của các quý thầy, cô giáo và các
bạn sinh viên.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh tháng 5 năm 2006
Tác giả

2


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Tìm hiểu về lịch sử văn hoá làng vốn từ lâu đà đ-ợc nhiều ng-ời quan
tâm nghiên cứu, trong mỗi làng th-ờng có những nét độc đáo và mang trong
mình tính đa dạng nh-ng cũng hết sức phức tạp, làng là một sản phẩm của lịch
sử, là tế bào của đất n-ớc, ở đó luôn thu nhận những thay đổi của lịch sử.
Từ x-a, ng-ời nông dân nông thôn đà gắn bó mình với cộng đồng làng
xóm, tình yêu quê h-ơng đà làm nên sức mạnh để xây dựng và bảo vệ xóm làng
và đất n-ớc. Truyền thống văn hoá làng có ảnh h-ởng sâu sắc đến phẩm chất tốt
đẹp của những con ng-ời sống trong thôn mạc. Có thể nói, văn hoá làng chính
là cái gốc nhân cách của con ng-ời Việt Nam.

Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
nh- chủ tr-ơng hiện nay của Đảng, thiết nghĩ chúng ta nên đi từ b-ớc đầu tiên
là bảo l-u, gìn giữ phát huy văn hoá làng trong hoàn cảnh mà tác động của kinh
tế thị tr-ờng đang làm biến đổi nhiều yếu tố văn hoá truyền thống thì việc làm
này càng có ý nghĩa.
Làng Quỳ Chữ - xà Hoằng Quỳ - huyện Hoằng Hoá là một trong những
làng đang còn bảo tồn đ-ợc những giá trị văn hoá truyền thống từ xa x-a. Quỳ
Chữ mảnh đất có bề dày lịch sử hàng ngàn năm, cộng đồng c- dân Quỳ Chữ
trong quá trình lao động và đấu tranh lâu dài, khai thác đất đai, xây dựng và bảo
vệ quê h-ơng đất n-ớc, đà tạo nên những giá trị văn hoá tốt đẹp trong nền văn
hoá thống nhất của dân tộc, đó là hệ thống các di tích lịch sử văn hoá và lễ hội
truyền thống của làng.
Quỳ Chữ có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời, phong phú độc đáo vừa
giàu tính dân tộc, vừa thể hiện sắc thái văn hoá riêng của làng. Quỳ Chữ, còn là
mảnh đất hiếu học, khoa bảng nổi tiếng từ xa x-a.
Để khôi phục và phát huy những di tích lịch sử văn hoá và lễ hội truyền
thống của làng, trong những năm vừa qua cán bộ và nhân dân làng Quỳ Chữ
đặc biệt chú trọng đến việc chăm lo phát triển và gìn giữ những giá trị văn hoá
cổ truyền của cha ông cả về văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần mà cụ thể là
khôi phục, bảo tồn những di tích lịch sử văn hoá của làng cũng nh- những lễ
hội truyền thống của làng nhằm gìn giữ những giá trị văn hoá cho quê h-¬ng,

3


cho muôn đời sau. Việc đi vào tìm hiểu các di tích lịch sử văn hoá và lễ hội
truyền thống của làng Quỳ Chữ - xà Hoằng Quỳ - huyện Hoằng Hoá - tỉnh
Thanh Hoá không chỉ đ-a lại những đóng góp về mặt lý luận khoa học mà còn
có ý nghÜa thùc tiƠn to lín. Tõ ®ã gióp chóng ta có cái nhìn toàn diện đầy đủ
hơn về làng Quỳ Chữ ,với quá trình hình thành và phát triển cũng nh- các di

tích lịch sử văn hoá vàlễ hội truyền thống đà đ-ợc c- dân nơi đây tạo dựng nên
từ xa x-a. Đồng thời thấy đ-ợc ý nghĩa của các giá trị văn hoá này đối với đời
sống c- dân trong làng và thực trạng của nó hiện nay.
Là một sinh viên học chuyên ngành Lịch sử văn hoá, nghiên cứu về vấn
đề này là rất phù hợp có thể phát huy đ-ợc những vốn kiến thức đà đ-ợc học, để
vận dụng vào phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài có kết quả tốt hơn .
Bởi những lý do trên mà tôi quyết định chọn đề tài: "Tìm hiểu một số di
tích lịch sử văn hoá và lễ hội truyền thống ở làng Quỳ Chữ" làm khoá luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay với số l-ợng sách báo, tạp chí, tuyển tập các chuyên đề nghiên
cứu khoa học tìm hiểu về làng Việt Nam cho ta thấy đ-ợc rằng: việc nghiên cứu
điều tra, tìm hiểu về làng Việt Nam đà thực sự trở thành một đề tài thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của những nhà sử học, dân tộc học, xà hội học, văn hoá học trong
và ngoài n-ớc. Với chuyên đề nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau trên tất cả
mọi lĩnh vực trong đời sống cộng đồng làng Việt.
Đặc biệt giai đoạn nửa đầu thập kỷ trở lại đây, việc nghiên cứu về văn
hoá làng đ-ợc nở rộ lên. Bằng chứng là có rất nhiều công trình đà từng đi sâu
nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể của làng, thậm chí từng làng cụ thể. Một công
trình thực sự sâu sắc của nhóm tác giả "Nông thôn Việt Nam trong lịch sử" (2
tập). Trong đó tổng hợp các bài viết trên cơ sở đánh giá vai trò của làng, của
nông thôn trong lịch sử. Công trình của tác giả Toan ánh "Nếp cũ, làng xóm
Việt Nam" cũng đà đi sâu tìm hiểu các tập tục lễ nghĩa của làng và rất nhiều
các công trình khác.
Trên đây là những công trình nghiên cứu mang tính chất chung, mà tác
giả đề cập về văn hoá làng Việt Nam. Còn đi vào đối t-ợng nghiên cứu chủ yếu
của đề tài "Tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hoá và lễ hội truyền thóng ở làng
Quỳ Chữ" thì đây là một đề tài đ-ợc xem là mới. Bởi vì ch-a có mét bµi viÕt

4



nào, một công trình nào đi sâu tìm hiểu một cách chi tiết cụ thể về các di tích
lịch sử văn hoá ở làng Quỳ Chữ. Có chăng chỉ là những bài viết chung chung
hoặc đề cập đến một khía cạnh nào đó của văn hoá làng Quỳ Chữ. Cụ thể nh-:
Năm 1986 tác giả Trọng Miễn đà tiến hành khảo sát văn hoá truyền
thống Quỳ Chữ và cho ra đời cuốn "Văn hoá làng Quỳ Chữ". Thế nh-ng trong
công trình này tác giả chỉ tập trung khai thác, đánh giá về văn hoá làng Quỳ
Chữ ở lĩnh vực văn học, văn hoá dân gian.
Rồi trong "Địa chí văn hoá Hoằng Hoá" của Ninh Viết Giao cũng đÃ
giành một số tranh đề cập đến địa điểm khảo cổ học Quỳ Chữ và đ-a ra những
căn cứ xác định nguồn gốc ra đời của làng Quỳ Chữ.
Ngoài ra còn có một số bài viết về văn hoá làng Quỳ Chữ nh- trong cuốn
"Những làng văn hoá tiêu biểu tỉnh Thanh" tác giả chỉ đề cập đến làng Quỳ
Chữ với t- cách là một làng văn hoá tiêu biểu - điểm sáng trong văn hoá làng xứ
Thanh.
Hay trong cuốn "Xây dựng làng văn hoá Thanh Hoá" của Sở văn hoá
thông tin Thanh Hoá có bài của tác giả Đăng Hùng viết về làng Quỳ Chữ, với
việc gìn giữ và phát huy những trò diễn truyền thống.
Nh- thế, việc nghiên cứu về văn hoá làng Quỳ Chữ từ tr-ớc cho tới nay
thật đang qu¸ Ýt ái, do vËy chóng ta ch-a biÕt nhiỊu về làng Quỳ Chữ. Mặc dù
vậy, những bài viết đó, những công trình nghiên cứu đó sẽ là cơ sở ban đầu để
giúp chúng tôi thuận lợi hơn trong quá trình tìm hiểu về văn hoá làng Quỳ Chữ
mà cụ thể là "Tìm hiểu một số di tích lịch sử văn hoá và lễ hội truyền thống ở
làng Quỳ Chữ".
Với công trình này, tác giả hy vọng giới thiệu về một làng quê tiêu biểu
với quá trình hình thành phát triển của làng, và đặc biệt là các di tích lịch sử văn
hoá nh- đình - đền - từ đ-ờng và lễ hội truyền thống để qua đó nhận diện về
một làng quê tiêu biểu ở tỉnh Thanh, vốn là một làng quê có bề dày truyền
thống lịch sử văn hoá.

3. Đối t-ợng và ph-ơng pháp nghiên cứu
Đối t-ợng nghiên cứu của đề tài là "Tìm hiểu một số di tích lịch sử văn
hoá và lễ hội truyền thống ở làng Quỳ Chữ".
Về ph-ơng pháp nghiên cứu:

5


Để hoàn thành khoá luận này, chúng tôi đà vận dụng ph-ơng pháp duy
vật lịch sử, duy vật biện chứng để nghiên cứu về quá trình hình thành phát triển
của làng, cũng nh- đặc điểm dân c-. Để từ đó xác định đ-ợc những yếu tố
thuận lợi tác động đến việc hình thành các di tích lịch sử văn hoá và sự ra đời lễ
hội truyền thống ở đây.

Vận dụng ph-ơng pháp tổng hợp liên ngành của các bộ môn khảo cổ
học, lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc để tìm hiểu về các di tích lịch sử văn hoá làm rõ các vấn đề về nguồn gốc lịch sử và đặc điểm kiến trúc điêu khắc của mỗi
di tích.
Sử dụng ph-ơng pháp điền giÃ, ghi chép, chụp ảnh, phân tích, miêu tả
các giá trị nghệ thuật, lịch sử, văn hoá của các di tích .
4. Đóng góp của bài tập tiểu luận
Với đề tài này chúng tôi tập trung giới thiệu về các vấn đề sau:
+ Khái quát về làng Quỳ Chữ cổ truyền.
+ Giới thiệu một cách chi tiết cụ thể về các di tích lịch sử văn hoá ở Quỳ
Chữ, từ nguồn gốc lịch sử đến đặc điểm đối t-ợng thờ tự, đặc điểm quy mô kiến
trúc và ý nghĩa của nó đối với đời sống tâm linh c- dân địa ph-ơng.
+ Xác định loại hình lễ hội truyền thống ở Quỳ Chữ sau đó đi vào nội
dung của lễ hội Kỳ Phúc tháng hai, và nhận xét về lễ hội ở Quỳ Chữ.
Với những vấn đề đó, chúng tôi cố gắng làm sáng tỏ các giá trị lịch sử,
văn hoá, kiến trúc điêu khắc và ý nghĩa- vai trò của các di tích, lễ hội của làng
Quỳ Chữ.

5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của đề tài đ-ợc trình bày qua 3 ch-ơng.
Ch-ơng 1. Làng Quỳ Chữ cổ truyền
Ch-ơng 2. Các di tích lịch sử văn hoá ở làng Quỳ Chữ.
Ch-ơng 3. Lễ hội truyền thống ở làng Quỳ Chữ.

6


phần nội dung
Ch-ơng 1.
Làng Quỳ Chữ cổ truyền
1.1. Đặc điểm địa lý - dân c- làng Quỳ Chữ:
1.1.1. Đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên.
Làng Quỳ Chữ thuộc x· Ho»ng Q - hun Ho»ng Ho¸ - tØnh Thanh Hoá,
cách Thành phố Thanh Hoá 10km về phía Bắc . Quỳ Chữ nằm về tả ngạn sông
MÃ, phía Bắc giáp Hoằng Phú, Hoằng Quý, phía Nam giáp với làng ích Hạ, phía
Đông giáp với làng Đông Khê, phía Tây giáp với làng An Phú - xà Hoằng Hợp.
Đến đầu thế kỷ XIX Quỳ Chữ có 3 thôn: Thôn Đông, thôn Trung và thôn
Thịnh Mỹ. Từ năm 1862 - 1936 có thêm thôn Quỳ Thanh và giáp Thuận Đức.
Nh-ng đến năm 1953 Quỳ Thanh tách khỏi Quỳ Chữ nhập vào xà Hoằng Hợp.
Năm 1947 Quỳ Chữ thuộc xà Mỹ Lý sau đổi thành xà Hoằng Lý. Hiện nay Quỳ
Chữ thuộc xà Hoằng Quỳ - huyện Hoằng Hoá. Nh- vậy cho đến thời điểm này
Quỳ Chữ chỉ có 3 thôn là: Thôn Đông, thôn Trung và thôn Thịnh Mỹ.
Quỳ Chữ nằm ở vị trí trung tâm xà Hoằng Quỳ, có đ-ờng Quốc lộ 1A và
đ-ờng sắt Bắc - Nam đi qua. Một vị trí giao thông rất thuận lợi cho giao l-u và
phát triển kinh tế.
Về địa hình của làng: Từ trên cao nhìn bao quát xuống thì ta thấy làng
Quỳ Chữ có hình dáng giống một con rùa đang bơi trên mặt hồ, chính vì vậy

mà gọi là Kim Quy.
"Trở về gò đất quê ta
Kim Quy chữ đặt kể đà từ lâu
Nổi lên giữa cánh đồng sâu
Tứ bề thấp trũng giữa cao tuyệt trần"
(Ca dao Quỳ Chữ)
Đề phòng tránh thú giữ và nhất là để chống trộm c-ớp nên bao bọc xung
quanh làng có hàng rào tre dày đặc, (đây không chỉ là nét đặc tr-ng của làng
Quỳ Chữ mà còn là của làng quê Việt Nam. Nói đến làng quê Việt Nam ngoài
hình ảnh cây đa - giếng n-ớc - sân đình thì còn có hình ảnh luỹ tre làng - một
yếu tố không thể thiếu đ-ợc của mỗi làng quê. Luỹ tre làng đà trở thành biểu

7


t-ợng của nông thôn Việt Nam. Luỹ tre không chỉ dừng lại là hàng rào bảo vệ
làng, mà nó còn có nhiều ý nghĩa khác trong đời sống sinh hoạt xóm làng).
"Phong cảnh làng Tổ quê ta
Nhìn gần cũng đẹp nhìn xa tuyệt trần
Bốn bề tre phủ nơi nơi
Tựa nh- áo giáp của ng-ời chiến binh"
(Ca dao)
Điều 19 trong h-ơng -ớc của làng Quỳ Chữ ghi "Xung quanh làng ta tõ
x-a ®· cã l tre xanh bao bäc ®Ĩ chèng gió bÃo và trộm c-ớp. Vì sự thay đổi
này thuộc về t- nhân, nhà ai ở gần luỹ tre phải bảo vệ cho kín đáo, nếu lấy
dùng thì phải trồng tiếp, không đ-ợc phá "
Quỳ Chữ là một làng cổ cã gèc tÝch, cã cø liƯu râ rµng, tõ bi hồng
hoang cho tới ngày nay. Theo các cụ trong làng và tài liệu s-u tầm của làng cho
biết một mảnh đất mênh mang kéo dài từ Tây Bắc đến Đông Nam -ớc chừng
khoảng 2,5km, từ Tây Nam đến Đông Bắc khoảng 2km với gần 40 cồn gò tạo

thành những vùng đất cao nằm giữa những cánh đồng ô trũng đ-ợc phù sa lấp
đầy, những cánh đồng chính trồng lúa n-ớc, những cồn gò này thành những dải
nằm hai bên sông Dọc. Phần lớn cồn gò tập trung ở bờ Bắc sông Dọc.
Về sông ngòi :Nh- trên đà nói Quỳ Chữ là nơi có sông Dọc chảy qua,
sông Dọc là nhánh của sông MÃ, chảy qua men theo rìa làng về phía Nam Đông Nam xuyên qua đ-ờng Quốc lộ 1A hiện nay nối với sông NGu Giang
(tức sông Tuần, sông Bút hiện nay) chỗ địa phận Hoằng Cát rồi đổ ra biển.
Huyền thoại và truyền thuyết ở Quỳ Chữ nói về sông Dọc khá nhiều, các
gia phả, thần phả của làng đều ghi. ''Hai bên bờ sông Dọc là địa điểm thuận lợi
để con ng-ời sinh c- lập nghiệp". Đặc biệt sông Dọc còn l-u lại một số vết tích
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Tây Bến, Tây Năng. Và theo truyền thuyết, Lê
Lợi - lÃnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng đà về đây. Chính ông đà đổi
tên cho làng từ "Tổ Cá Ph-ờng" thành làng Quỳ Chữ (tức bến rau Quỳ). Tuy
nhiên qua quá trình biến đổi của tự nhiên sông Dọc đà bị lấp chìm, ngày nay
chỉ còn lại tên gọi trong các câu chuyện và dấu tích trong lòng đất.
Ngoài ra Quỳ Chữ còn là nơi có rất nhiều ao chuôm. Theo truyền thuyết,
ca dao thì làng có 99 cái ao.
"Quanh làng ao n-ớc trong xanh

8


Chín m-ơi chín cái rành rành không sai''
Chính vì vậy mà c- dân ngoài Bắc, mà cụ thể là vùng Nam Hà đà di cvào đây làm ăn sinh sống và phát triển nghề nuôi cá giống. Với hệ thống ao
chuôm dày đặc nh- vậy đà tạo điều kiện cho nghề nuôi cá giống phát triển, trở
thành nghề truyền thống của làng. Trong h-ơng -ớc của làng ghi rất rõ ràng
"Quỳ Chữ là nơi có rất nhiều ao chuôm kể cả công và t- nhân. . ."
Về đất đai : Quỳ Chữ có diện tích đất tự nhiên là 405 mẫu: đất canh tác
325, 60 mẫu. Trong đó đất cấy hai vụ lúa là: 217,70 mẫu, đất màu (ruộng 5%)
17,90 mẫu. Đất ở, ao hồ, hộc dấu là 89,55 mẫu.
Về vấn đề ruộng công thì theo h-ơng -ớc làng Quỳ Chữ ghi rằng. "Cả

làng có 40 mẫu ruộng công điền ở Đồng Quan.Trừ số ruộng cấp cho lính còn
lại chia cho nam giíi ti tõ 18 - 55". §iỊu 14 trong h-ơng -ớc có ghi ".. ngoài
lễ phật đản, các lễ th-ờng là giao cho thầy chùa trích hoa lợi, chi h-ơng đăng
hoa qủa cúng phật". Điều 4 ghi "Quỳ Chữ có cánh đồng Tến: Tến là do đọc từ
chữ Tiến mà ra, tiến là cúng tiến, nghĩa là cánh đồng do dân tiến cúng dùng
hoa lợi cho vào việc cúng tế Lê Phụng Hiểu, cũng vì vậy mà ng-ời Quỳ Chữ
còn gọi ngài Lê Phụng Hiểu là Ngài Tến. Nh- vậy ruộng công Quỳ Chữ gồm có
ruộng công của làng 40 mẫu, ruộng cúng nhà chùa, ruộng cúng đền, ruộng
công của phe giáp xóm ngõ '' . Ngoài những ruộng công này, ruộng công Quỳ
Chữ còn có ruộng họ dùng vào việc h-ơng hoả, giỗ kỵ. Không có số liệu nào
cho biết chính xác tổng số ruộng công này là bao nhiêu. Trừ 40 mẫu ở Đồng
Quan , việc phân chia ruộng công nh- h-ơng hoả đà ghi tức là -u tiên binh lính
sau đó bình quân cho nam d-íi tõ 18 ti (chÝnh st) ®Õn 55 ti thêi hạn chia
cũng không nhất thiết giống nhau, có khi là 3 năm, có khi là 5 năm, có khi lại
chỉ một năm chia một lần.
Về khí hậu: Quỳ Chữ nằm trong khu vực nhiệt đới nh-ng lại gần biển
nên hàng năm nhận đ-ợc 3 luồng gió là gió mùa Đông Bắc, gió Tây Nam và gió
Đông Nam mát mẻ. Cũng nh- Hoằng Hoá thời tiết, khí hậu Quỳ Chữ chia làm
hai mùa rõ rệt là mùa nóng và mùa lạnh. Quỳ Chữ nằm trong tiểu vùng khí hậu
đồng bằng của Hoằng Hoá, có nhiệt độ cao, mùa đông không lạnh lắm, mùa hè
t-ơng đối nóng, m-a ở mức trung bình, định h-ớng của nắng hạn và gió Tây
khô nóng th-ờng xuyên xẩy ra. Nh-ng cũng không đáng lo ngại lắm bởi thuỷ
lợi hoá rất tốt. Thiên tai nguy hiểm th-ờng là rét đậm kéo dài, x-ơng muối, bÃo
lụt . Cũng nh- c- dân Hoằng Hoá nói chung, c- dân Quỳ Chữ đà vất vả trong

9


việc chịu đựng và chế ngự khí hậu thời tiết khá khắc nghiệt để sinh sống. Song
so với nhiều địa ph-ơng khác thì c- dân Quỳ Chữ vẫn còn đang đ-ợc thiên

nhiên -u đÃi và tạo điều kiện thuận lợi cho làm ăn sinh sống.
Nh- vậy có thể nói rằng Quỳ Chữ nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng phì
nhiêu của sông MÃ, sông Dọc, thuận lợi cho việc tiếp thu văn hoá, văn minh
sớm. Là nơi có vị trí giao thông rất thuận lợi đó là điều kiện khách quan , thiên
thời địa lợi tạo dựng nên một Quỳ Chữ trù phú với bề dày văn vật, là mảnh đất
của hội hè đình đám do nhiều dòng họ vun đắp qua nhiều thế hệ. Quỳ Chữ còn
là điểm sáng về học hành đỗ đạt cao trong lịch sử giáo dục qua nhiều thế kỷ của
Nhà n-ớc phong kiến Việt Nam.
1.1.2. Tình hình dân c-:
Theo các nhà khảo cổ học, Quỳ Chữ là nơi xa x-a nhất của Hoằng Hoá.
Ng-ời Việt cổ đà đến đây sinh cơ lập nghiệp (từ nửa cuối thiên niên kỷ II tr-ớc
Công nguyên tức cánh ngày nay khoảng 3.500 năm). Không những thế các di
chỉ khảo cổ học Quỳ Chữ đà cho thấy là c- dân Việt Cổ liên tục sinh sống và
phát triển qua các giai đoạn lịch sử, từ hậu kỳ thời đại đồ đồng thau qua thời kỳ
đồ sắt đến Bắc thuộc, đến thời phong kiến và tồn tại cho đến tận ngày nay. Điều
đó đ-ợc biểu hiện qua các tầng văn hoá rất dày( từ 1m - 1,6m) phát triển liên
tiếp không có sự cắt đoạn nh- nhiều nơi khác. Các nhà khảo cổ học đà khai
quật 3 di chỉ ở làng Quỳ Chữ gồm:
- Khu mộ táng bÃi chùa. Đây là khu mộ táng bằng đất của c- dân Việt
Cổ, có niên đại từ tr-ớc thiên niên kỷ II TCN. Tầng văn hoá dày từ 1 - 1,3m tại
đây đợt khai quật tháng 3 năm 1978 đà phát hiện đ-ợc 32 ngôi mộ trong 140m2
hố khai quật. [7 tr 170].
- Khu mộ táng Đồng Cáo (Cồn Cáo) là khu mộ có quan tài bằng gốm hay
mộ vò.
- Khi di chỉ c- trú bÃi chùa.
Với di vật tìm đ-ợc ở các di chỉ khảo cổ này cho thấy buổi ban đầu cdân Việt cổ sinh sống ở đây ngoài kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi, chế tác đồ
gốm và đồ đồng, ng-ời Việt Cổ đà biết thành thạo nghề đan lát và dệt vải. Phần
đáy đồ đựng đều in dấu những tấm đan bằng tre, nứa với kỹ thuật đan lóng mốt,
lóng đôi rất đều, rất đẹp. Trên một mảnh ®å ®ång cã kÝch th-íc 8,5cm x 8cm


10


phía trong còn dính x-ơng mặt ngoài bám chặt một lớp vải thô, sợi rất săn và to
bằng sợi chỉ.
Ng-ời ViƯt cỉ ë Q Ch÷ cã sù më rng quan hệ giao l-u kinh tế với
các nơi khác. Bằng chứng các nhà khoa học đà tìm thấy một tỷ lệ đồ gốm mang
đặc tr-ng Quỳ Chữ khá cao, có mặt ở chợ Gành (Ninh Bình), Nam Chính (úng
Hoà - Hà Tây). Đồ đồng Quỳ Chữ với những di vật độc đáo nh- rìu xoè cân
đ-ợc tìm thấy ở rú Trăn (Nghệ An). Ng-ợc lại với những hiện vật đặc tr-ng của
văn hoá gò Mun (Vĩnh Phú) cũng gặp khá nhiều ở Quỳ Chữ nh- mũi tên đồng
hình cánh én, dao khắc gốm. [7 tr 177]
Từ những căn cứ trên ta có thể khẳng định rằng c- dân Quỳ Chữ chủ yếu là
dân bản địa đà tụ c- từ rất lâu trên mảnh đất này. Về sau có cả c- dân từ nơi khác
đến làm ăn sinh sống thì cũng chỉ ở chen vào những nơi sinh sống của c- dân bản
địa còn th-a thớt mà thôi. Điều đó cho thấy tình hình dân c- ở làng Quỳ Chữ qua
quá trình tồn tại và phát triển t-ơng đối ổn định, ít có sự biển đổi, ít có sự hỗn cpha trộn từ vùng khác đến mà chủ yếu là dân thổ c-.
Nơi c- trú đầu tiên của ng-ời Việt cổ trên đất Quỳ Chữ là đồng Cáo.
Đồng Cáo là gò đất cao nổi lên giữa cánh đồng chiêm trũng rộng lớn.
"Lần theo đồng ruộng quê mình
Lên thăm đồng Cáo nơi sinh thôn mình
Một vùng cây cối xanh xanh
Tầng xây bao mộ xung quanh um tùm"
(Ca dao)
Đồng Cáo còn là nơi c- trú của ng-ời sống, vừa là nơi chôn cất ng-ời
chết. Nh-ng về sau do dân c- của làng tăng lên, Đồng Cáo không còn đủ chỗ
cho họ c- trú nữa. Dân c- dần dần phải chuyển về phía Nam đồng Cáo và c- trú
hẳn ở đó - tức làng hiện nay.
Ph-ơng tiện c- trú - tức nhà ở của c- dân Quỳ Chữ thời cổ nh- thế nào đến
nay ch-a tìm thấy đ-ợc dấu tích gì để lại. Chỉ biết trong di chỉ khảo cổ đồng Cáo

có một số lỗ, các nhà khảo cổ nghi rằng đó có thể là lỗ chôn cột nhà.
Ngày nay trong điều kiện kinh tế xà hội phát triển, nhà ở đà đ-ợc xây
dựng rất phong phú đa dạng với rất nhiều kiểu kiến trúc. Tuy nhiên ở Quỳ Chữ
hiện vẫn còn tồn tại nhiều ngôi nhà theo kiểu kiến trúc cổ x-a. Có nhà thấp trệt,
có nhà tre, nhà gỗ, nhà luồng nh-ng trong đó phổ biến nhất là nhà gỗ chôn cột

11


và th-ng gỗ xung quanh, nhà có chái để làm buồng hoặc là nơi để đựng dụng cụ
lao động, đựng l-ơng thực thực phẩm.
Đời sống kinh tế của ng-ời dân Quỳ Chữ chủ yếu là nông nghiệp trồng
lúa, thâm canh hoa màu, ngô, khoai, lạc và nhiều cây trồng khác. Nh-ng bên
cạnh đó do có nhiều ao hồ cho nên nghề nuôi và đánh bắt cá phát triển. Ngoài
ra chăn nuôi gia súc và trồng bông dệt vải cũng là những nghề truyền thồng của
làng. Nh- vậy bên cạnh kinh tế nông nghiệp là chính thì vào những lúc nông
nhàn họ đà làm thêm nhiều nghề thủ công. Chính sự kết hợp giữa nông nghiệp
và làm thủ công này đà tạo điều kiện cho đời sống kinh tế c- dân trong làng
đ-ợc ổn định hơn. Ban đầu họ làm ra những sản phẩm thủ công chỉ nhằm phụ
vụ cho gia đình, sau đó cho làng xóm. Và dần dần do sản phẩm có chất l-ợng,
mẫu mà đẹp đ-ợc nhiều ng-ời -a thích nên sản phẩm đó đ-ợc đem đi trao ®ỉi ë
nhiỊu n¬i. Trong ®ã nỉi tiÕng cã nghỊ trång bông dệt vải, đến tr-ớc cách mạng
tháng 8, trồng bông dệt vải đang là nghề chính của c- dân trong làng. Trong
văn học dân gian Quỳ Chữ phản ánh nghề trồng bông dệt vải khá nhiều:
"Cò kè cút kít cút xa
Thừa ăn thừa mặc thừa ra nuôi chồng
Còn thừa mua chiếc thuyền rồng
Đem ra cửa biển cho chồng rong chơi
Chị em làng xóm ta ơi
Chồng tôi sang trọng nhờ tôi cò kè "

(Ca dao)
Đặc biệt Quỳ Chữ còn có một hệ thống câu đối xung quanh nghề kéo sợi,
dệt vải bà tổ của nghề trồng bông dệt vải của Quỳ Chữ là bà Quánh. Bà Quánh
là nhân vật truyền thuyết song cùng với các t- liệu dân gian đà khẳng định rằng
nghề trồng bông dệt vải ở Quỳ Chữ đà có từ rất lâu đời, giá trị kinh tế của nó
khá cao. Nghề này cùng với nông nghiệp trồng lúa, chăn nuôi gia súc, nuôi
đánh bắt cá là những nghề chính của Quỳ Chữ. Sự kết hợp giữa những ngành
nghề kinh tế đà dần dần thoát khỏi nền kinh tế tự cấp tự túc tiến tới giành một
phần sản phẩm d- thừa đem trao đổi với nhiều địa ph-ơng khác. Trung tâm trao
đổi của làng là chợ Tổ, chợ Tổ là một trong những chợ lớn trong vùng. H-ơng
-ớc làng có ghi rằng " Tiền nhân đà mở cái gọi là chợ Tổ cho tiện việc mua
bán, chợ mỗi tháng có 12 phiên, chợ có 4 cổng ra vào. Việc thu thuế bán hàng
thì phụ thuộc vào giá hàng khinh trọng mà thu thuế nộp quốc khố. Còn bao

12


nhiêu sẽ trích ra một phần để trả thù lao cho ng-ời thu thuế còn lại nhập vào
quỹ để tu bổ chợ''. Chợ Tổ là một điển hình về chợ nông thôn Thanh Hoá tr-ớc
đây. Hầu nh- tất cả các sản phẩm của ng-ời nông dân và thợ thủ công trong
làng làm ra đều có mặt ở chợ Tổ. Bông vải là đặc sản của làng Tổ và cũng là
mặt hàng đ-ợc nhiều nơi -a thích. Ngoài ra trong thành phần dân c- Quỳ Chữ
còn có một bộ phận những ng-ời thợ, đây là lực l-ợng t-ơng đối đông. Vào vụ
chính thì họ ở nhà làm nông nh- khi mọi việc xong xuôi thì họ tản đi khắp nơi
làm nhiều nghề khác nhau nh- : Làm mộc, thợ xây đồng thời còn có một lực
l-ợng những ng-ời buôn bán và chính lực l-ợng này đà tản đi nhiều nơi và tiếp
thu nhiều giá trị văn hoá từ nhiều địa ph-ờng trên đất n-ớc mang về góp thêm
vào truyền thông văn hoá của làng.
Nh-ng đáng kể nhất vẫn phải nói đến tầng lớp ,hay là một bộ phận trí
thức trong làng. Họ là những ng-ời đ-ợc học hành, đ-ợc đào tạo không chỉ bởi

cái nôi, cái truyền thống giáo dục của làng. Mà còn đ-ợc đào tạo chung trong
nền giáo dục khoa cử Việt Nam qua các thời đại. Chính những ng-ời này không
chỉ đà có vai trò rất lớn trong việc xây dựng xóm làng, xây dựng nên cái truyền
thống văn hoá với bề dày văn vật cho làng Quỳ Chữ. Mà họ còn có nhiều đóng
góp cho sự nghiệp dựng n-ớc và giữ n-ớc trong mọi thời kỳ lịch sử.
Về dân số của làng, theo số liệu mới nhất của Ban dân số tỉnh Thanh Hoá
thì đến đầu năm 2004 làng Quỳ Chữ có 2.900 nhân khẩu với 680 hộ gia đình.
Từ khi khai sơn lập địa cho đến tận ngày nay đà có nhiều các dòng họ quy tụ tại
đây làm ăn sinh sống. Họ cùng nhau đoàn kết chống thiên tai, bÃo lụt, chống lại
sự áp bức của bọn c-ờng hào, chống lại những thói h- , tất xấu, chống lại kẻ thù
xâm l-ợc. Họ đà cùng nhau góp sức, chung lòng xây dựng quê h-ơng làng xóm
mình ngày càng đông vui trù mật
- Tiêu biểu nh- dòng họ Nguyễn Đình, Lê Đình, Lê Sỹ là những dòng
họ lớn có lịch sử lâu đời ở làng, con cháu của các dòng họ này chiếm đa số dân
c- trong làng. Là những dòng họ có truyền thống yêu n-ớc , truyền thống hiếu
học từ rất lâu đời, thế hệ con cháu của các dòng họ đà đỗ đạt cao, có đức, có tài,
công tác trong nhiều lĩnh vực, nhiều ng-ời đ-ợc bổ nhiệm vào bộ máy Nhà
n-ớc.
Nh- vậy Quỳ Chữ là nơi có tình hình dân c- t-ơng đối ổn định, có số l-ợng
dân c- đông đúc. Nhiều dòng họ cùng quần c- sinh sống trong cùng xóm làng, có
các ngành nghề phong phú đa dạng. C- dân Quỳ Chữ đà có đ-ợc sự ổn định về

13


mặt xà hội, sự phát triển về mặt kinh tế. Đó chính là điều kiện thuận lợi, là yếu tố
nhân hoà để xây dựng lên làng Quỳ Chữ có truyền thống văn hoá lâu đời.
1.2. Truyền thống lịch sử.
1.2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của làng Quỳ Chữ:
Quỳ Chữ là một làng cổ nằm ở vùng ven Bắc sông MÃ. Nơi đây tại Đồng

Cáo, các nhà khảo cổ học đà phát hiện và khai quật một di chỉ văn hoá điển
hình thuộc thời đại đồng và sắt sớm, cách ngày nay trên 3.000 năm (và gần đây
năm 2003 di chỉ Đồng Cáo đà đ-ợc Bộ văn hoá xếp hạng là di tích cấp quốc
gia). Nhờ đó mà chúng ta đà có đủ bằng chứng và cơ sở để khẳng định rằng. Từ
thời các vua Hùng dựng n-ớc đến tr-ớc nghìn năm Bắc thuộc. ĐÃ có một bộ
phận c- dân ng-ời việt đà đến đây khai phá, mở mang vùng đất hoang sơ ven
sông MÃ một cách bền bỉ, kiên trì để tạo lập ra một địa bàn c- trú ổn định lâu
dài cho đến tận sau này.
Quá trình hình thành và phát triển của làng trong một không gian văn
hoá đặc biệt với sự thay đổi tên gọi qua hàng ngàn năm của huyện Hoằng Hoá.
Qua tham khảo, tra cứu các loại sách "d- địa chí" x-a và nay chúng ta có thể
biết rõ địa bàn làng Quỳ Chữ thời Văn Lang - Âu Lạc thuộc đất bộ Cửu Chân,
thời thuộc Hán huyện T- Phố , thời Năm Bắc triều thuộc huyện Kiến Sơ rồi Cao
An, thêi thc T thc hun Long An, thêi thc §-êng thuộc huyện Sùng
An rồi Sùng Bình, thời Ngô - Đinh - Lê (thế kỷ X) thuộc giáp Cổ Đằng. Thời
Trần thuộc huyện Cổ Đằng, từ năm 1397 thuộc huyện Cổ Linh, thời thuộc
Minh lại thuộc huyện cổ Đằng. Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469) huyện Cổ
Đằng đ-ợc đổi là huyện Hoằng Hoá thuộc phủ Hà Trung thì từ đó trở đi Quỳ
Chữ đều thuộc huyện Hoằng Hoá.
''Thời Nguyễn vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) trở về tr-ớc làng Quỳ
Chữ (hay gọi xà Quỳ Chữ gồm 3 thôn. Đông - Trung và Thịnh Mỹ) tổng Lỗ Đô
huyện Hoằng Hoá (theo sách tên làng xà Việt Nam đầu thế kỷ XIX của viện
nghiên cứu Hán Nôm: NXB năm 1981). Nh-ng từ năm Minh Mệnh thứ 19
(1383) huyện Mỹ Hoá thành lập (do tách tổng Đại Lý của huyện Hậu Lộc, Hai
tổng Lỗ H-ơng và H-ơng Sơn của huyện Hoằng Hoá và 3 xà Bái Xuyên, Hà
Thuỷ, Trung Tiết của Tổng Bút Sơn huyện Hoằng Hoá). Và từ 1838 đến năm
Thành Thái thứ nhất (1889) thì làng (xÃ) Quỳ Chữ lại thuộc về tổng D-ơng Thuỷ huyện Mỹ Hoá (sách Đồng Khánh d- địa chí) ''[24 tr 2].

14



Khi bỏ huyện Mỹ Hoá vào 1889 trả tổng Đại Lý về Hậu Lộc thì địa giới
Hoằng Hoá ổn định cho đến sau này, từ năm 1889 đến tháng 8 năm 1945 làng
(xÃ)Quỳ Chữ đều thuộc về tổng D-ơng Thuỷ, huyện Hoằng Hoá. Từ sau năm
1954 trở đi cái tên xà Hoằng Quỳ mới ra đời và từ đó cho đến nay làng Quỳ
Chữ luôn trực thuộc đơn vị mới xà Hoằng Quỳ này.
Đó là những bằng chứng xác thực lý giải cho sự ra đời của các dòng họ
lớn, nhỏ. Tại đây đà sản sinh vun đắp nên nhiều nhân tài, nơi tr-ờng ốc học giỏi
đỗ cao, nơi chiến tr-ờng làm t-ớng đánh giặc lập nhiều công lớn.
Theo truyền thuyết làng Quỳ Chữ có từ tr-ớc thời Bắc thuộc lúc đầu chỉ
là một ph-ờng cá từ ngoài Nam (vùng Nam Hà) vào nuôi và bán cá giống có
tên là (Tổ cá ph-ờng) dần dần con cháu của họ đồng dân lên, ngoài nghề nuôi
cá và bán cá họ còn khai khÈn ®Êt hoang trång lóa cïng víi nhiỊu hoa màu
khác. Vì thế cũng dần dần bỏ hai từ " Cá ph-ờng" chỉ để lại "Tổ". Tổ là tên
Nôm, đứng tr-ớc từ Tổ là từ "Kẻ" thành ''Kẻ tổ". Từ kẻ đ-ợc đặt tr-ớc tên Nôm
để gọi một đơn vị c- trú t-ơng đ-ơng với xà thôn hiện nay (tr-ớc đây th-ờng
gọi là Kẻ Chiềng, Kẻ Chạ). Quỳ Chữ có câu ph-ơng ngôn:"ăn chịu đ-ợc với Kẻ
Tổ nổ x-ơng hom" (ca dao Quỳ Chữ)
Từ kẻ là một bộ phận của tên Nôm nh-ng không phải là một bộ phận cố
định, tên Nôm có thể gọi kèm với từ kẻ (Nh- kẻ Tổ) hoặc không có từ kẻ nh- :
"Vải tổ đà ấm lại bền
Tuy rằng thô bố giữ nền nếp x-a"
(Ca dao Quỳ Chữ)
Thông th-ờng làng nào vừa có tên Nôm, vừa có tên chữ thì làng ấy là
làng cổ, tên Nôm có tr-ớc, tên chữ có sau. Tên Nôm dùng để gọi, tên chữ dùng
để viết.
D-ới thời kỳ Bắc thuộc ng-ời dân trong làng sinh hoạt theo các dòng họ,
làng xóm. Vì vậy mỗi họ đều có một ông tr-ởng tộc để duy trì kỷ c-ơng, gia
phong của dòng họ.
D-ới triều đại phong kiến đà hình thành một bộ máy cai trị ở làng gồm:

Hội đồng tộc biểu, hội ®ång Lý H-¬ng gåm cã: Lý tr-ëng, Phã lý, H-¬ng bạ,
H-ơng kiểm, H-ơng mục, H-ơng bản, H-ơng dịch. Trên nữa là Chánh tổng, Tri
phủ.
Về tên gọi của làng theo truyền thuyết đến thế kỷ( XV) Lê Lợi đổi tên
cho làng từ (Tổ cá ph-ờng) thành làng Quỳ Chữ. Nhân dân lµng cã sù tÝch vỊ

15


tên làng của mình gắn liền với công đức của Lê Lợi. Chuyện kể rằng "Một lần
bị giặc Minh đuổi theo, Lê Lợi cùng với quân sĩ chạy đến sông Dọc thì trời vừa
tối. Bên kia sông thấy ánh đèn le lói, ông vội bơi qua và đ-ợc bà lÃo chủ nhân
ngôi nhà chỉ cho chỗ ẩn náu. Giặc Minh đuổi tới nh-ng không thấy tăm hơi gì
liền kéo nhau đi. Bà lÃo vội nhóm bếp thổi cơm tiếp đÃi Lê Lợi. Bữa cơm đạm
bạc, vài cọng rau hái trên sông dọc và một đĩa tép đồng nh-ng vị chủ t-ớng ăn
rất ngon lành. Lê Lợi vừa ăn, vừa hỏi chuyện bà lÃo đ-ợc biết làng bà có tên là
Tổ cá ph-ờng (ph-ờng nuôi cá). Thiên hạ đại định lên ngôi Hoàng đế nhớ lại
chuyện trong những ngày khốn đốn nên cho đặt lại tên làng từ Tổ Cá Ph-ờng
thành làng Quỳ Chữ (tức bến rau quỳ) làng bắt đầu có tên mới từ ngày ấy. [18 tr
197].
Nh- vậy đến thế kỷ XV tên ''Làng Quỳ Chữ" mới xuất hiện, nó tồn tại
cho đến tận ngày nay và trong quá trình tồn tại phát triển của làng Quỳ Chữ
luôn có đ-ợc sự ổn định, ít biến động.
Từ buổi ban đầu khai khẩn lập quê ng-ời dân Quỳ Chữ lấy nghề lúa
n-ớc làm chính ngoài ra còn có nghề trồng bông dệt vải, l-ới chài nuôi cá nổi
tiếng một thời. Qua lao động sản xuất đà tạo ra phong cảnh đồng đất quê h-ơng
rất trù phú, giá trị vật chất và tinh thần trở thành những di sản văn hoá, là quê
h-ơng của những hội hè, đình đám với những đình chùa, lễ tục phong phú đ-ợc
chọn lọc bổ sung xây dựng. Chính vì vậy mà Nhà n-ớc đà công nhận di tích
Đồng Cáo, di tích đền thờ Lê Phụng Hiểu và từ đ-ờng họ Nguyễn Đình là di

tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh và cấp quốc gia. Ngoài ra mới vừa đây năm 2005
Sở văn hoá thông tin tỉnh Thanh Hoá cũng đà lập hồ sơ công nhận thêm hai di
tích nữa tại làng Quỳ Chữ là di tích Đình Trung và đề Mẫu (Phủ Nhà Bà ) là di
tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử và xâm thực của thời gian. Nhân
dân Quỳ Chữ đà đấu tranh giữ gìn, sáng tạo và xây dựng nên nền văn hoá đặc
tr-ng của làng, trở thành những tác phẩm dân gian, v-ợt qua khuôn khổ của
làng để l-u truyền rộng rÃi trong nhân dân. Chính quyền và nhân dân làng Quỳ
Chữ luôn luôn cố gắng, nỗ lực nhằm phát huy giữ gìn vốn văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc và hoà đồng tinh hoa văn hoá mới, để nâng cao đời sống văn hoá
trên cơ sở phát triển kinh tế theo đ-ờng lối đổi mới của Đảng ta, Nhà n-ớc ta,
h-ớng tới xây dựng cộng đồng làng xà giàu mạnh, sống lao động, học tập theo
pháp luật và thực hiện "Phép n-ớc lƯ lµng" tiÕn bé.

16


Phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của làng. Truyền thống xÃ
Hoằng Quỳ - Đơn vị anh hùng lực l-ợng vũ trang nhân dân, thực hiện đ-ờng lối
đổi mới của Đảng và Nhà n-ớc. Trong những năm qua cán bộ và nhân dân làng
Quỳ Chữ đà không ngừng phấn đấu v-ơn lên thực hiện 5 tiêu chí xây dựng làng
văn hoá. Thực hiện có kết quả mục tiêu kinh tế xà hội hàng năm, đoàn kết giúp
đỡ nhau xoá đói giảm nghèo, đ-a ph-ơng tiện khoa học kỹ thuật vào sản xuất
phát triển ngành nghề, thu hút và đào tạo công ăn việc làm cho ng-ời lao động.
Hiện nay tỷ lệ hộ nghèo trong làng d-ới 4%. Đ-ờng làng ngõ xóm đà bê tông
hoá 100%, ban đêm có hệ thống đèn chiếu sáng. Có nhà trẻ, tr-ờng mần non
khang trang, có đủ điều kiện để các lớp học tập, vui chơi, công tác vệ sinh môi
tr-ờng đ-ợc duy trì th-ờng xuyên và trở thành ý thức chung của nhân dân trong
làng. Nếp sống văn minh trong việc c-ới, việc tang đ-ợc thực hiện tốt. Để thực
hiện xây dựng làng văn hoá trong sạch, lành mạnh, đà tổ chức cho nhân dân ký

cam kết gia đình không có ng-ời vi phạm tệ nạn xà hội, không vi phạm pháp
luật, không làm cỗ đám c-ới và không đi ăn đám c-ới. Hàng năm làng duy trì
bình xét, khen th-ởng các gia đình văn hoá, dòng họ văn hoá, số gia đình văn
hoá luôn đạt từ 85 - 90%. Các hoạt động văn hoá t- t-ởng , thể dục thể thao
đ-ợc duy trì và phát triển rộng rÃi, các hình thức sinh hoạt của câu lạc bộ gia
đình văn hoá, câu lạc bộ làm thơ, bình thơ đọc sách báo, giao l-u văn nghệ
quần chúng đều mang lại hiệu quả thiết thực trong đời sống nhân dân. Để nâng
cao chất l-ợng sinh hoạt của hoạt động văn hoá t- t-ởng , thể dục thể thao làng
đà đầu t- xây dựng cơ sở vật chất và ph-ơng tiện kỹ thuật phục vụ cho các hoạt
động của dân làng.
Chính nhờ có sự quan tâm đầu t- nh- thế mà truyền thống văn hoá của
làng Quỳ Chữ đ-ợc giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp cho đến tận ngày
nay. Làng văn hoá Quỳ Chữ thực sự là một điểm sáng trong phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Xứng đáng là một làng văn hoá cấp
tỉnh tiêu biểu cho xứ Thanh.
Tóm lại nhìn một cách khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của
làng Quỳ Chữ ta có thể thấy rằng. Quỳ Chữ là một làng cổ, có bề dày truyền
thống lịch sử văn hoá, là một làng có quá trình lịch sử t-ơng đối ổn định, ít
biến động thay đổi không nhiều. Phải chăng đây chính là điều kiện tốt, là mảnh
đất thiêng mà các cụ gọi là địa linh để hình thành nên các di tích lịch sử văn
hoá nh- (đình, chùa, đền, miếu). Quỳ Chữ còn xây dựng đ-ợc cho mình đời
sống tinh thần phong phú đa dạng, đây là vùng quê có nhiều hội hè đình đám ,
những lễ hội truyền thống nổi tiếng cả vùng.
1.2.2. Truyền thống đấu tranh dựng n-ớc và giữ n-ớc.

17


Ngay tụ khi ra đời ,truyền thống Thương nước, thương nh, thương
mình, thương người đ có trong con người Quự chử, v chính ci truyền thống

này đà đ-ợc ng-ời dân Quỳ Chữ thể hiện qua quá trình đấu tranh dựng n-ớc và
giữ n-ớc.Truyền thống tốt đẹp này ngày càng đ-ợc củng cố và phát huy. Bởi
vậy không chỉ thể hiện ở những giai đoạn sau này nh- trong phong trào Cần
V-ơng, cách mạng tháng 8 hay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp-Mỹ.
Mà nó đà thể hiện ngay trong thời kì đầu dựng n-ớc và giữ n-ớc.
Ngay từ thời xa x-a tuy đây khong phải là vùng căn cứ địa của công cuộc
ssấu tranh giải phóng dân tộc mh-ng các tầng lớp nhân dan Quỳ Chữ đà có
nhiều gắn bó với phong trào chống ngoại xâm. Tại đây đà nhiều phong trào ủng
hộ nghĩa quân chống giặc.
Trong suốt hơn 1000 năm Bắc thộc nhân dân Quỳ Chữ đà không ngừng
v-n lên cùng với nhân dân Thanh Hoá kiên trì đấu tranh chống âm m-u đồng
hoá của kẻ thù ph-ơng Bắc, tạo nên một sắc thái riêng biệt cho địa ph-ơng
mình.
Và cũng trong suốt thời kỳ chống Bắc thuộc, Quỳ Chữ không chỉ tỏ rõ
vai trò và vị trí quan trọng của một hậu ph-ơng trong xây dựng, mà cả trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Những dấu tích ấy mặc dù không còn l-u
lại qua sách vở, tài liệu cụ thể nh-ng nó còn l-u lại rất rõ nét qua các câu
truyện, các sự tích dân gian.
Theo các câu truyện dân gian thì vùng đất Kẻ Tổ Quỳ Chữ còn là địa
bàn có nhiều gắn bó, kỷ niệm với nữ t-ớng Triệu Thị Trinh(tức Bà Triệu ) trong
nhửng ngy chống Ngô(năm 248). Sch Văn ho lng Quự Chử (của tác giả
Trọng Miễn) đ chép truyện Đôi đủa ng một cch sinh động lòng người như
sau. Lần ấy trên đường hnh quân tụ nũi Nưa ra Bồ Điền đnh Lúc Dận , b
Triệu dừng chân ở Quỳ Chữ cho quân sĩ nghỉ nghơi và ăn cơm, Khi quân sĩ ăn
cơm xong thì trời đà tối mịt theo lệnh bà quân sĩ lặng lẽ hành quân ra Bồ Điền.
Ví xuất nên những ng-ời hầu bà bỏ quên đôi đũa ngà của bà ở lại Quỳ Chữ, họ
liền vội vàng quay lại Quỳ Chữ lấy đôi đũa ngà. Đi đ-ợc nửa đ-ờng thì họ gặp
một toán ng-ời Quỳ Chữ, đem đôi đũa ngà dâng lên bà Toán quân sĩ và toán
ng-ời Quỳ Chữ đều quý mến, cảm kích nhau tr-ớc sự tôn kính, ng-ỡng mộ
ng-ời nữ t-ớng họ Tiệu .Toán quân sĩ lại toàn là ng-ời Bồ Điền cho nên họ đÃ

giâo hiếu kết chạ với nhau.
Sau này dân Bồ Điền còn chở đá làng mình vào xây cầu ao ở thôn Trung
làng Quỳ Chữ. Cho đến tận bây giờ, lành Quỳ Chữ vẫn còn l-u truyền bài ca
dao.
Hòn đá là hòn đá đen
Rửa chân cho sạch lên đền r-ớc vua

18


R-ớc vua về ngự đình Trung
Ba thôn bốn giáp tế chung một đình.
Mỗi lần hội làng tổ chức ăn mừng đ-ợc mùa, ăn mừng đ-ợc nhà vua
phong sắc, Quỳ Chữ đều mời làng Bồ Điền vào dự. Khi đi lang Bồ Điền r-ớc
bt hương ở đền b Triệu vo chỗ “Vua’’ trong b¯i ca dao n¯y chØ b¯ TriÖu …’’
Sau khi chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc đất n-ớc b-ớc vào thời kỳ độ lập tự
chủ , d-ới thời kỳ phong kiến đất n-ớc ta cũng phải chống lại nhiều thế lực
ngoại xâm hùng mạnh . Để đánh đuổi đ-ợc mọi kẻ thù ngọi xâm c-ớp n-ớc,
nhân dân cả n-ớc phải đồng lòng hợp sức để bảo vệ tổ quốc. Mà tiêu biểu nhất
là một số các anh hùng hoà kiệt vì dân vì n-ớc đà đ-ợc sử sách nghi tên, nhân
dân ng-ỡng mộ và đ-ợc các triều đại phong kiến cho lập đền thờ, dựng bia đá,
có ng-ời đ-ợc phong là thành hoàng làng
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trải suốt 10 năm nếm mật nằm ngai đến
ngày toàn thắng . Lê Lợi cùng nghĩa quân luôn đ-ợc nhân dân hết lòng ủng hộ ,
không ít ng-ỡng chiến sĩ vô danh của Hoằng Hoá nói chung và Quỳ Chữ nói
riêng đà có mặt trong đoàn quân cứu n-ớc ấy nh-ng sử sách không có điều kiện
nghi lại. Song nhiều giai thoại, truyện kể , truyền thuyết trong làng đà phản ánh
sinh động lòng ng-ời Quỳ Chữ đối với nghĩa quân Lam Sơn, nh- câu truyện
B lo Quự Chử.
Trong những năm Lê-Mạc phân tranh, Hoằng Hoá có nhiều ng-ời phò

Lê diệt Mạc, họ là con cháu của các cựu thần nhà Lê, họ ra sức tôn phù nhà Lê
dù phải chịu bao hy sinh mất mát. Hoằng Hoá là đất tiền đồn phải trực tiếp
đ-ơng đầu trong những trận đàu tiên khi lực l-ợng đối ph-ơng còn mạnh.Trong
hoàn cảnh lịch sử ng- vậy, đà tôi luyện nên nhiều danh t-ớng, sâu này đ-ợc tôn
làm nhữnh bậc khai quốc công thần nhà Lê Trung H-ng. Tên tuổi các danh
t-ớng th-òi ấy còn l-u lại trong bia ký, gia phả các dòng họ ,đền thờ sắc phong
. Nh- Lê Tuấn Kiệt ở Trung Hoà(Hoàng Tân). Lê Ngọc Tân ở Hạ Vũ (Hằng
Đạt). Lê Hữu Khanh ở Hội Triều (Hăng Phong )và Nguyễn Đình Hội ở Quỳ
Chữ (Hằn Quỳ ). CụNguyễn Đình Hội tên chữ là Pháp Chính hiệu là Vào, là
chúa nội của cụ Nguyễn Đình Khuynh. Ngài có công lớn trong cộc chiến tranh
đnh bi nh Mc lập nên triều Lê Trung Hưng Bậc tôn thần cao quý, thượng
th-ợng đẳng, trubg trật khắc tỉnh giúp rập bảo vệ sự nghiệp dấy h-ng đất n-ớc,
phong thêm danh hiệu đẹp Lng thắng sơn (ngi trên bi vị )v được sắc
phong Đặc tiến kim từ vinh lộc đi phu thương tướng quân cẩm y vệ đô chỉ
huy sứ phù nghĩa hầu.
tổ quốc nghiệp truyền gia văn chiếm bảng
cẩm y phù quốc võ phong hầu
Nghĩa là :

19


Nghiệp sẵn lối nhà văn chiêm bảng
T-ớng công giúp n-ớc võ phong hầu
Đến cuói thế kỉ XIX khi n-ớc ta đà bị thực dân Pháp xâm l-ợc triều đình
nhà Nguyển đà bất lực .Tr-ớc tình hình đó các sĩ phu phong kiến yêu n-ớc đÃ
cùng với nhân dân cả n-ớc đứng lên chống lại sự xâm l-ơc của thực dân Pháp
.Rất nhiều các phong trào đáu tranh đà nổ ra trên một địa bàn khá rộng và
Thanh Hoá cũng là một địa bàn chính của phong trào .Cùng với nhân dân
Thanh Hoá thì nhân dân Quỳ Chữ cũng đóng góp một phần sứcng-òi sức của

cho phong trào Cân V-ơng chông Pháp .Nổi bật lên những cá nhân tiêu biểu đÃ
đem công sức ,tài sản riêng của mình để góp sức cho phong trào trong đó co rất
nhiêu những tâm g-ơng vì dân vì n-ớc đó là bà Lê Thị Nhu đà mua súng đạn
,cung cấp l-ơng thực nuôi nghĩ quân Ba Đình .Theo gia phả viết bằng ch- quốc
ngử ca dòng họ Lê Đình có ghi .Ti lng Quự Chử có b Lê Thị Nhu tữc b
Bá Hộ giàu nhất làng chiêu mộ đ-ợc 50 ng-òi khoe mạnh để luyện tập và cung
cấp cho nghĩa quân Cần V-ơng .
Từ khi có Đảng lÃnh đạo ,những truyền thống yêu n-ớc và ý chí đấu
tranh cách mạng của dân tộc ta đ-ợc nhân lên gấp bội .Sức mạnh đó đà liên tiếp
đánh bại mọi kẻ thù xâm l-ợc để giữ vững nền độc lập của dân tộc .Trong đó có
sự hoà nhập của nhân dân làng Quỳ Chữ đ-ợc ghi nhận trong các thời kì nhthời kì thành lập hội t-ơng tế ái hữu tại làng Quỳ Chữ vào năm 1939<Đây là
hình thức tập hợp quần chúng tiến bộ yêu n-ớc của Đảng cộng sản Đông
D-ơng >hai thanh niên của làng là Lê Văn Hoát và Lê Duy Cân đà sớm tiếp thu
t- t-ởng mới ,t- t-ởng cách mạng vô sản và thành lập hội t-ơng tế Aí Hữu
hội hoạt động từ 1939-1940:Thời kì lựa chọn trung kiên để kết nạp và thành lập
chi bộ từ 1945-1947 tại Quỳ Chữ đặt tên chi bộ là Hồ Chí Minh ,ng-ời bí thchi bộ đầu tiên là ông Lê Duy Cân.Từ đó cơ sở của chi bộ đ-ợc phát triển sâu
rông trong các thôn xóm .Vai trò lÃnh đạo của Đảng đà có uy tín với tất cả các
tầng lớp dân c- thông qua sự của chi bộ và cùng toàn dân làm nên những chiến
tích hào hùng ,vẻ vang đối với xà huyện nói chung và đối với đân làng nói riêng
đẻ b-ớc vào một thời kì mới đầy khó khăn gian khổ nh-ng cũng rất đỗi hào
hùng .
Cao trào chuận bị lực l-ợng cho cuộc tổng khởi nghĩa ngày 19/8/1945
dồn dập bay về các thôn xóm ,đặc biệt là cuộc khởi nghĩa ngày 24/7 của nhân
dân huyện Hoằng Hoá đà trức tiếp tác động đến nhân dân làng Quỳ Chữ .Nhân
dân làng Quỳ Chữ đang trông chờ một tổ chức có đầy đủ quyên lực và uy tín
,đứng ra tập hợp mọi lực l-ợng yêu n-ớc để vùng dậy đập tan bộ máy cai trị của
bọn phong kiến và thực dân ở địa ph-ơng .Đáp ứng yêu cầu chính đáng của
nhân dân Quỳ Chữ ,đ-ợc sự chỉ đạo trực tiếp của tổng uỷ Việt Minh đứng đầulà

20



ông Lê Khắc Song .Đầu tháng 8/1945 ban cán sự Việt Minh ở làng đà đ-ớc
thành lập để chỉ đạo và điều hành công việc chung của cả làng ,ban cán sự này
do ông Lê Duy Cân làm chủ nhiệm
Qua một thời gian ngắn các bộ phận lÃnh đạo đà đựoc xong và khẩn
tr-ơng tổ chức ba cuộc biểu tình lớn để biểu d-ơng lực l-ợng đó là
-Cuộc biểu tình .Chống Nhật khủng bố và ủng hộ Việt Minh
-Mừng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của huyện 24/71945
- Mừng chính quyền Tỉnh ra mắt nhân dân toan Tỉnh.
Sự cống hiến to lớn của nhân dân Quỳ Chữ trên mọi lĩnh vực đà góp một phần
vào công cuộc dựng n-ớc và giữ n-ớc của nhân dân ta trong suốt chiều dài lịch
sử. Lòng yêu n-ớc nồng nàn qua mọi chặng đ-ờng lịch sử đà trở thành tiềm
thức trong mọi tầng lớp nhân dân và ngày càng phát triển rộng lớn trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Quỳ Chữ.
Với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cán bộ và nhân dân Quỳ Chữ luôn
phát huy truyền thống yêu n-ớc th-ơng nhà sẵn sàng hy sinh cả nhân lực và vật
lực cho tiền tuuến , cho cuộc kháng chiến trừng kì của dân tộc. Khong chỉ anh
dũng giết giạc lập công trên chiến tr-ờng mà ở quê nhà chính quyền và nhân
dân Quỳ Chữ luôn cố gắng tăng gia sản xuất xây dựng một hậu ph-ơng vững
chắc , một mặt đẻ các chiến sĩ ngoài mặt trận yên tâm chiến đấu, một mặt để
đảm bảo số l-ợng l-ơng thực để cung cấp cho kháng chiến chống thực dân
Pháp. Thanh niên nô nức lên đ-ờng tòng quân .
Kết quả sau 9 năm kháng chiến thanh niên Quỳ Chữ đà ra nhập lực l-ợng
vũ trang là 18 ng-ời. Trong đó có 14 ng-ời hy sinh và 6 th-ơng binh . Trong lúc
thanh niên sẵn sàng ra nhâp ngũ thì nhiều đợt dân công phục vụ cho các chiến
dịch cũng đ-ợc phát động sôi nổi, hơn 800 l-ợt ng-ời ngánh bộ, xe đạp thồ
ngày đêm chèo đèo lội suối gánh từng cân gạo, từng viên đạn góp phần làm nên
những thắng lợi của các chiến dịch. Ng-ời ít nhất là hai đợt, ng-ời nhiều nhất là
là 12 đợt. Trong lúc đang làm nhiệm vụ đà có 3 ng-ời hy sinh đó là ông Vũ

Duy Thợi, Lê Đắc Vát , Lê Hữ Thịnh .
Qua các đợt dân công , dân công Quỳ Chữ đều hoàn thanh và v-ợt chỉ tiêu đ-ợc
giao, đ-ợc dẫn đầu toàn xà lúc bấy giờ. Vinh giự đ-ợc Chính phủ tặng th-ởng
huân ch-ơng chiến công hạng nhất cho anh Lê Văn Năm, L-u Văn Núi , ng-ời
tiêu biểu cho năng suất lao động ý chí kiên cừơng.
Với sức đóng góp bàng mồ hôi x-ơng máu bàng lòng dũng cảm kiên c-ơngd
của nhân dân Quỳ Chữ .Chính vì vậy luôn đ-ợc Chính phủ khen th-ởng.
Tiếp tục phát huy truyền thống của 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp,
cán bộ nhân dân Quỳ Chữ lại tiếp nối một cuộc hành trình mới cùng với d©n tét

21


đầy gian nan nh-ng cũng đà làm rạng rỡ thêm truyền thống tốt đẹp cho quê
h-ơng. Trong kháng chiến chống Mỹ, bàng những chiến tích vẻ vang , cán bộ
và nhân dân Quỳ Chữ luôn đ-ợc Chính phủ tặng th-ởng.
Năm 1975 đất n-ớc thống nhất giang sơn thu về một mối Bắc Nam sum
họp một nhà tạo thành sức mạnh dời non lấp biển. Cả n-ớc b-ớc vào thời kì
khôi phục xây dựng và phát triển kinh tế văn hoá xà hội hàn gắn vết th-ơng
chiến tranh. Cán bộ và nhân dân Quỳ Chữ b-ớc vào thời kì mới vì mục tiêu dân
giàu n-ớc mạnh xà hội công bằng dân chủ văn minh. Và kể từ ngày giành đ-ợc
độc lập cho đến ngày nay với một khoảng thời gian 30 năm- khong quá ngắn
nh-ng cũng không phải là dài so với tiến trình lịch sử. Song với nhiệm vụ đặt ra
cho nhân dân Quỳ Chữ thì đây là một thời kì thử thách mới.
Tự hào với chiến công hiển hách qua hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân
tộc. Trong đó nhân dân Quỳ Chữ đà góp một phần công sức và x-ơng máu của
con em mình để bảo vệ nền độc lập tự do cho tổ quốc.
Thực hiên nhiệm vụ chiến l-ợc của đảng Chính phủ nhân dân Quỳ Chữ lại
cùng nhau tiếp b-ớc một cuộc hàn trình mới đầy khó khăn thử thách. Song
nhândân Quỳ Chữ vẫn một lòng một dạ đi theo Đảng Bác Hồ quyết tâm thực

hiện mục tiêu đà lựa chọn.
Nói tóm lại víi trun thèng ®Êu tranh anh dịng bÊt kht cđa nhân dân
Quỳ Chữ trong mọi thời kì lịch sử, trong mọi lĩnh vực cả sản xuất và chiến đấu,
cả hậu ph-ơng và tiền tuyến, cả tập thể và cá nhân, cả thế hệ liền tr-ớc và thế hệ
liền sau, cả già lẫn trẻ, cả nam lẫn nữđà tạo nên những chiến công kì diệu có
giá trị lịch sử lâu dài. Có thể nói trong bức tranh chiến tháng hào hùng của dân
tộc. Hoằng Hoá nói chung và Quỳ Chữ nói riêng đà góp những hình ảnh hùng
tráng ởnhững giai đoạn lịch sử mà thử thách thật ác liệt nh-ng chiến thắng cũng
rất đỗi vẻ vang.
1.2.3. Truyền thống khoa bảng.
Do vị trÝ n»m trong mét hun cã trun thèng hiÕu häc khoa bảng nổi
tiêng trong cả n-ớc đó là huyên Hoằng Hoá .Nên Quỳ Chữ cũng năm trong quỹ
đạo chung đó truyền thống hiếu học của ng-ời dân Hoằng Hoá nh- xà Hoằng
Lộc ,Hoằng Quangđ-ợc nhân dân không chỉ trong vùng mà cả n-ớc biết đến.
Quỳ Chữ là mảnh đất của khoa bảng ,mảnh đất này đà sinh ra nhiều ông
cử ,ông trí ,ông đồ d-ới các triều đại phong kiến có nhiều ng-ời ra làm quan là
những quan lại có phẩm chất ,tài năng có nhiều đóng góp lớn lao vào sự nghiệp
phát triển văn hoá dân tộc ,xây dựng và bảo vệ tổ quốc .Tuy nhiên trải qua quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc nói chung lịch sử Quỳ Chữ nói riêng
biết bao thăng trầm biến động trong lịch sử .Nhiều tài liệu văn tự ghi chÐp

22


những thành tích đỗ đạt của những ng-ời con Quỳ Chữ bị mất đi không còn tài
liệu nào nhắc đến .Nh-ng theo lời kể của các cụ trong làng ,qua các câu chuyện
truyền tụng trong dân gian Thanh Hoá thì từ rất xa x-a từ chế độ giáo dục khoa
cử đ-ợc xác lập trên đất n-ớc Việt Namthì Quỳ Chữ đà trở thành một trong
những cái rốn của khoa bảng Xứ Thanh .Nhiều ng-ời con của làng đà đỗ đạt
cao ,nhiều gia đình ,nhiều dòng họ kế tiếp nhau co truyền thống hiếu học và đỗ

đạt .Thế nh-ng những tài liệu ghi chép về họ hiên nay không còn mà chỉ còn lại
những tài liệu ghi chép về những ng-ời đỗ đạt ở thế kỉ 16 ,tiêu biểu nhất là cụ
L-u Đình Chất là con của lâm quận công L-u Đình Th-ởng ông đậu thi
h-ơng ,đ-ợc cử làm cấp sự trung lại khoa. Đến năm 1607 mặc dù ông đà 42
tuổi nh-ng vân thi tiến sĩ đậu đến đình nguyên .
Năm 1613 đ-ợc phong chức tự khanh, phong t-ớc nhân lĩnh bá rồi đ-ợc
cử làm chánh sứ sang công minh, khi về đ-ợc thăng tả thị lang bộ lại t-ớc hầu .
Năm 1623 ông có công trong việc dẹp loạn Trịnh Xuân, đ-ợc chúa Trịnh
biết tài và mến đức. Do công ấy ông được phong Đô Ngứ Sừ rồi phong t lý
công thần đưa vo ph chũa lm tham tóng <tĨ t­íng> l¯m thiÕu b°o, gia
th-íc phuc qn c«ng. Năm 1627 ông mất, thọ 62 tuổi đ-ợc truy tặng thiếu s[23 trang315].
Đặc biệt là từ thời Lê Trung H-ng đến cuối triều nguyên Quỳ Chữ đà có
tới 49 ng-ời đỗ tú tài, cử nhân, phó bảng, đ-ợc làm quan trong triều, quan phủ
huyện <hiện còn d-ợc l-u gĩ- trong văn bia của làng >. Sau đay trích dẫn tên
tuổi cua những ng-ời đà đỗ cử nhân trung khoa.
Đời hậu Lê < từ 1702-1783 >
+Khoa Nhâm Ngọ niên hiêụ Chính Hoà 23(1702) đời vua Lê Huy Tông
có - Lê H-ng ái.
- Nguyên Quốc Y.
+ Khoa Canh Tý, niên hiệu Bảo Thái 1(1702) đời Lê Dự Tông có
Lê Đình Nh-ợng.
Lê Thuỳ.
Nguyễn Đình Chử.
+ Khoa Bính Ngọ niên hiệu Bảo Thái 7(1726) đời Lê Dụ Tông có.
- Lê Bá Đính.
+ Khoa ất mÃo, niên hiệu Long Đức 4(1735) đời Lê Thần Tông có.
- Nguyễn Tố Giảng.
+ Khoa Mậu Ngọ, niên hiệu Vĩnh Hữu 4(1738) đời Lê ý Tông có.
- Lê Điền Nguyên.
- Nguyễn Huy Tân.

+ Khoa Canh Ngọ niên hiệu Cảnh H-ng 11(1750) đời Lê Hiển Tông.

23


- Nguyễn Đình Trạch.
+Khoa ất MÃo niên hiệu Cảnh H-ng 20 (1759) đời Lê Hiển Tông.
-Nguyễn Quốc Nhuân.
+Khoa Mậu Tý niên hỉệu Cảnh H- ng 31 (1768) đời Lê Hiển Tông.
- L-u Đình Thiện
+ Khoa Tân MÃo niên hiệu Cảnh H-ng 34 (1771) đời Lê Hiển Tông.
- Nguyễn Đình Viên
+ Khoa Canh Tý niên hiệu Cảnh H-ng 41(1780) đời Lê Hiển Tông.
- Nguyễn Tác Lâm.
- Nguyễn Đình Đạm.
- Nguyễn Đình L-ơng.
+ Khoa Quý MÃo niên hiệu Cảnh H-ng 44 (1883) đời Lê HiểnTông.
- Lê H-ng Long.
Đời Nguyễn (1807 - 1918 )
+ Khoa Canh Tuất niên hiệu Tự Đức 3 (1850)
- Lê Văn Tiến.
+ Khoa Đinh Dậu niên hiệu Thành Thái 9 (1897)
- Lê Duy.
Bên cạnh đó thì Quỳ Chữ còn có một lực l-ợmg trí thức đông đảo có học rộng
tài cao, thi đổ trong các ky thi nh-ng lại không tham gia chốn quan tr-ờng lui
về quê mở lớp dạy học, dạy chữ nho. Dạy đạo thánh hiền cho con em trong
làng, nhiều ng-ời lại làm nghề bốc thuốc chữa bệnh.
Để đạt đ-ợc ngững thành tựu rực rở trong khoa cử ở Quỹ Chữ nh- vậy là cũng
nhờ vào những chính sách trọng dụng nhân tài của triều đại, với chủ tr-ơng
khuyến khích việc hoc hành của làng xÃ, cùng với truyền thống hiếu học của

nhân dân và sự nổ lực lớn lao của các thế hệ thầy va trò ở Quỳ Chữ.
Với chính sách trọng dụng hiền tài từ thời Lê Sơ trở đi việc đào tạo, tuyển dụng
nhân tài, của nhà n-ớc phong kiến thực hiện chủ yếu bằng con đ-ờng khoá cử.
Chủ tr-ơng này đ-ợc khảng định qua nội dung bài ký đè danh tiến sĩ khoa
Nhâm Tuất, niên hiệu Đaih Bo thữ 3 (1442). Hiền ti l nguyên khí ca
quốc gia ,nguyên khí mạnh thì thế n-ớc mạnh rồi lên cao ,nguyên khí suy thì
thế n-ớc yếu rồi xuống thấp .Vì vậy các thánh đế Minh V-ơng chăng ai không
lấy việc bồi d-ỡng nhân tài ,kén chọn kẻ sĩ , vun trông nguyên khí làm việc đầu
tiên kẻ sỉ quan hệ với quốc gia nh- thÕ nµo lµ cïng …” [ 32 tr 31-35 ]
Từ quan điểm đó nhà n-ớc phong kiến đà đề ra nhiều chính sách quy định
những quyền lợi của nho sỉ ,sĩ tử nhằm động viên khuyến khích ng-ời học .Việc
chăm lo hỗ trợ của xà hội đ-ợc biểu hiện ở nhiều mặt, đó là sự tồn tại của làng
văn với những quy -ơc riêng để gia nhập , đó là những biện pháp động viên

24


khuyến khích những ng-ời có ý thức học tập và rèn luyện của làng ,của từng
dòng họ ,từng gia đình .Việc giáo dục học hành ở Quỳ Chữ từ xa x-a đà đ-ợc
mọi tầng lớp nhân dân trong cộng đồng làng xà quan tâm .
Quỳ Chữ có một lực l-ợng tri thức nho sĩ đông đảo nên từ x-a ở đêy đà lập
làng văn. Làng văn do ng-ời có học thức cao nhất trong làng đứng đầu và có
một hạp trửơng đứng đầu làm chức năng th- kí. Hạp là chức danh do làng đặt
ra, có nhiệm vụ giữ và ghi sổ sách cho làng, tổ chức việc tế lễ ở văn chỉ, khi hạp
tr-ỏng qua đời thì đ-ợc h-ởng vinh dự ngang với các ông tú tài.
Nhiệm vụ của làng văn là khuyến khích việc học hành của kẻ sĩ, thắp h-ơng
ở văn chỉ nơi thờ Khổng Tử và những vị quan hiển đạt, viết và đọc văn tế ở
đình miếu, tổ chức các đợt bình văn thơ giảng sách. Làng văn có uy tín đối với
dân làng nên quan trên cũng phải kính nể. Đối với thành viên của mình, làng
văn có hình thức giáo dục phải đảm bảo t- cách đạo đức tốt giữ gìn danh dự của

ng-ời có học, những ng-ời không chấp nhận điều lệ của làng văn, có thái độ,
hành động trái với lệ làng phép n-ớc thì sẽ bị xoá tên trong sổ làng văn.
Với vị trí và ý nghĩa của làng văn dẫn đến con em trong làng dù là những gia
đình nghèo khó cũng luôn phấn đấu học hành để có đ-ợc trình độ học vấn, để
đ-ợc vào làng văn và có vị trí trong các hoạt động của làng xÃ.
Về tinh thần giảng dạy học tập của thầy và trò Quy Chữ thì ít ng-ời đ-ợc
theo học ở Quốc Tử Giám, mà phần đông là theo học ở tr-ờng làng, dìu dắt
kèm cặp họ là những ng-ời thầy địa ph-ơng. Tài năng phẩm hạnh của những
ng-ời thầy trong giảng dạy cùng với sự miệt mài chăm chỉ của học trß trong
häc tËp, rÌn lun la hai u tè quan trọng hàng đầu tạo nên nhiều thế hệ thành
đạt. Bên cạnh những ông thầy đà trải qua quan tr-ờng thì ở làng con có một đội
ngũ thầy đồ những ng-ời không có học vị hoặc có học vị nh-ng không ra làm
quan mà dạy học ở tr-ờng làng hoặc ở các địa ph-ơng xa. Thế hệ nho sĩ này
đều đ-ợc dân làng kính trọng bởi t- cách đạo đức, bởi tấm lòng thanh bạch.
Ng-ời Quỳ Chữ thành đạt nhiều tr-ớc tiên là nhờ sự dạy dỗ của lớp ng-ời thầy
này.
Các nho sĩ đà công phu khổ luyện trong học tập, tự trau dồi cho mình những
kiến thức và bản lĩnh. Có nhiều tấm g-ơng điển hình về sự phấn đấu kiên trì
trong học hành và khoa cử, họ là những ng-ời biết v-ợt lên tất cả những khó
khăn trở ngại ®Ĩ nh»m mơc ®Ých x©y dùng mét cc sèng míi tốt đẹp hơn t-ơi
sáng hơn.
Truyền thống hiếu học bắt đầu từ mỗi gia đình, mỗi dòng họ,có nhiều dòng
họ đà kế thừa đăng khoa, tiêu biểu nh- dòng họ Nguyễn Đình, dòng họ Lê
Sĩvới truyền thống cha dạy con, ông dạy cháu, anh dạy em, rất phổ biến trong
làng xÃ.

25



×