Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chứng minh và chứng cứ là yếu tố xương sống của pháp luật tố tụng nói
chung trong đó có pháp luật tố tụng dân sự. Mọi hoạt động tố tụng đều tập
trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng việc thu thập và đánh giá
chứng cứ, trong hoạt động tố tụng dân sự đây là khâu quan trọng được cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cần phải đặc
biệt chú ý để hoàn thành tốt nhiệm vụ, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên
trong các vụ việc dân sự. BLTTDS 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa BLTTDS
2004 sửa đổi bổ sung 2011, đồng thời quy định thêm một số điểm mới giúp
tháo gỡ những hạn chế bất cập. Với nội dung phong phú quy định khá cụ thể
về những vấn đề liên quan đến hoạt động tư pháp của nước ta hiện nay, vấn đề
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là vấn đề được quan tâm sửa đổi
khá nhiều, trong đó có nhiều điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử
dụng, đánh giá chứng cứ được cụ thể rõ ràng. Trên cơ sở hoàn thiện BLTTDS
2004 sửa đổi bổ sung 2011 giúp Thẩm phán cũng như những người tiến hành
tố tụng khác thực hiện việc xác định sự thật khách quan của vụ án được dễ
dàng, đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế giúp cho việc giải quyết vụ án được
đúng đắn, khách quan và triệt để những vụ việc dân sự trên thực tế, đáp ứng
lòng tin của nhân dân đối vào pháp chế XHCN. Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 đã có những quy định về chứng cứ và chứng minh phù hợp với thực tế,
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng dân.
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là một vấn đề rất quan
trọng trong hoạt động tố tụng. BLTTDS 2015 có hiệu luật ngày 1/1/2017 tuy
nhiên khi đi vào thực tiễn trong quá trình thực hiện cũng phát sinh những vấn
đề bất cập và cùng với sự phát triển của xã hội, kinh tế... sẽ phát sinh những
vấn đề mới đòi hỏi pháp luật về tố tụng cần thay đổi cho phù hợp .Từ những
thực tế trên với mong muốn làm sáng tỏ đầy đủ về vấn đề chứng cứ và chứng
GVHD: Trần Văn Quán
1
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
minh trong tố tụng dân sự, qua đó thấy được mặt tiến bộ của Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 về vấn đề này, tạo điều kiện hồn thiện góp phần giúp cho công
tác xét xử được tốt hơn nên tác giả chọn đề tài “Chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng dân sự 2015” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Như đã nói trên, vấn đề chứng cứ và chứng minh là một vấn đề phức tạp và
được xem là linh hồn của hoạt động tố tụng dân sự. Chính vì vậy vấn đề này đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến, tuy nhiên những nghiên cứu trước đây
trên cơ sở của BLTTDS 2004. Chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS 2015 vẫn
còn là một vấn đề mới, có rất ít nghiên cứu và bài viết tìm hiểu sâu về nó. Vấn đề
này cịn đang mang tính thời sự nên việc nghiên cứu nó có ý nghĩa vừa mang tính
lý luận vừa mang tính thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của chứng cứ và
hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, thấy được mối liên quan chặt chẽ giữa
chứng cứ và chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án. Phân tích tìm ra những
hạn chế bất cập trong việc áp dụng vào thực tiễn từ đó tìm ra những giải pháp góp
phần nâng cao kết quả của hoạt động xét xử, tạo công bằng cho mọi tổ chức cá
nhân trong xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa MacLênin, dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và một số quan điểm của Đảng và Nhà
nước. Bên cạnh đó cịn sử dụng các phương pháp phân tích, chứng minh, so sánh,
tổng hợp…để đi sâu làm rõ vấn đề.
5. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về vấn đề chứng cứ và chứng
minh, chủ yếu là phân tích quan điểm về các vấn đề mới được bổ sung sửa đổi
GVHD: Trần Văn Quán
2
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
trong BLTTDS 2015, xem xét thực tiễn vấn đề một cách khách quan trong quá
trình hoạt động.
6. Kết cấu tiểu luận
Bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung gồm
2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
Chương 2: Thực tiễn xét xử và một số nội dung hoàn thiện pháp luật về chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự
GVHD: Trần Văn Quán
3
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. CHỨNG CỨ
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong tố tụng dân sự cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu
tập trung vào vấn đề chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng dân sự thì kết quả đều
phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Dựa vào chứng cứ mà các đương sự có cơ sở để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cơ quan tiến hành tố tụng cũng dựa
vào chứng cứ làm cơ sở xác định đúng đắn tình tiết của vụ án để bảo vệ lợi ích của
cơng dân, thực thi pháp luật một cách cơng bằng, chính xác. Tòa án khi quyết định
hướng giải quyết vụ việc dân sự cũng phải căn cứ vào chứng cứ để làm cơ sở chấp
nhận hay không chấp nhận yêu cầu của các đương sự. Vì vậy việc nhận định
chứng cứ có vai trị rất quan trọng từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc vụ án.
Chứng cứ có nhiều hình thức tồn tại, có thể chứng cứ được lưu trong trí
nhớ con người, có thể được lưu lại trên những tài liệu, giấy tờ hoặc được lưu
giữ dưới dạng dữ liệu điện tử. Quá trình xác định chứng cứ là một q trình lâu
dài và phức tạp, Tịa án phải thực hiện cơng tác nghiệp vụ của mình để xác
định đâu là chứng cứ thật, chứng cứ cần thiết để sử dụng giải quyết vụ án. Do
đó trước hết đương sự cần chủ động giao nộp chứng cứ liên quan cho Tịa án
để góp phần làm sáng tỏ tình tiết của vụ án.
Chứng cứ có thể hiểu là những phản ánh của sự thật khách quan, được
đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tịa án
thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Trong một vụ việc
dân sự thường có rất nhiều tình tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật liên quan đến
mối quan hệ giữa các bên đương sự. Những tình tiết, sự kiện đó bao gồm các tin
GVHD: Trần Văn Quán
4
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
tức, dấu vết được thể hiện dưới những hình thức nhất định do Tòa án sử dụng làm
cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự được gọi là chứng cứ. Theo Điều 93 Bộ Luật tố
tụng dân sự 2015 thì “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được
đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án trong
q trình tố tụng hoặc do Tịa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách
quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có
căn cứ và hợp pháp.”
Điều 81 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định, chứng
cứ được đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tịa án theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Điều 93 BLTTDS năm 2015 quy định, chứng
cứ do đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tịa án
trong q trình tố tụng.
Về quy định trong q trình tố tụng của BLTTDS 2015 đã giải quyết được
vấn về lý luận và thực tiễn. Về thực tiễn, quá trình giải quyết vụ việc dân sự, tránh
trường hợp đương sự tưởng rằng với nguyên tắc hai cấp xét xử nên tài liệu, chứng
cứ mà họ cung cấp cho Tòa án chỉ có ý nghĩa ở giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm.
Về lý luận trong quá trình tố tụng, điều đó có nghĩa là đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án mỗi giai đoạn của
q trình tố tụng dân sự, hay nói một cách cụ thể hơn đương sự, cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong các giai đoạn
tố tụng về sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, miễn sao bảo đảm đúng
điều kiện quy định tại Điều 96 BLTTDS năm 2015.1
Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã xác định rõ về thời điểm đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp tài liệu, chứng cứ. Việc xác định được thời
điểm đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án là quan trọng, là khâu trung
1
ThS. Đinh Tuấn Anh, Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về chứng cứ và chứng minh,
09/5/2017, />
GVHD: Trần Văn Quán
5
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
tâm có ý nghĩa quyết định để đánh giá chứng cứ và chứng minh trong vụ việc dân
sự được khách quan, toàn diện.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
Để xác định thông tin, tài liệu, sự kiện là chứng cứ phải có những dấu hiệu
nhất định, có tính khoa học, bao hàm những yếu tố thể hiện tính riêng biệt và phân
biệt được với những khái niệm khác hoặc những vấn đề khác trong hoạt động tố
tụng.
Cơ sở để xác định sự vật, hiện tượng là chứng cứ trước hết phải dựa trên
các đặc điểm của chứng cứ, đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp
của chứng cứ.
Tính khách quan
Chứng cứ là những gì có thật tồn tại khách quan, độc lập khơng phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người. Tính có thật của chứng cứ gắn liền với tính
khách quan của chứng cứ. Nếu chứng cứ là những gì khơng có thật thì bản thân nó
khơng tồn tại dưới những dạng vật chất nhất định và cũng khơng thể xác định
được tính khách quan của nó. Con người khơng thể tạo ra chứng cứ, thơng tin
tài liệu theo hướng có lợi cho mình mà phải tự tìm kiếm thu thập chứng cứ
theo trình tự nhất định. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng khơng được tự
tạo ra chứng cứ vì khi mất đi tính khách quan sẽ khơng được coi là chứng cứ.
Trong những sự kiện, tình tiết mà các chủ thể chứng minh thu thập được có
tình tiết, sự kiện là của vụ việc nhưng cũng có tình tiết, sự kiện do con người
tạo ra nhằm tạo ra sự nhầm lẫn trong việc sử dụng, đánh giá chứng cứ của Tồ
án. Chính vì vậy, khi giải quyết vụ việc, Thẩm phán phải nghiên cứu một cách
cẩn thận để tránh sự nhầm lẫn giữa chứng cứ do con người tạo ra và chứng cứ
trong vụ việc dân sự. Muốn tránh sự nhầm lẫn này, Thẩm phán cần phải đặt
chúng trong mối liên hệ nhân quả với nhau và cùng với sự việc đã xảy ra bằng
các phương pháp cách thức khác nhau, khơng được bỏ sót một tình tiết nào dù
đó là tình tiết nhỏ nhất.
GVHD: Trần Văn Quán
6
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
Tính liên quan
Tính liên quan trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tịa án đang giải quyết.
Tính liên quan của chứng cứ gắn liền với sự kiện cần chứng minh trong vụ việc
dân sự.
Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi xem xét
vụ việc dân sự, chúng ta cần thiết xem xét chứng cứ một cách tồn diện ở
nhiều góc độ, nhiều phương diện, có sự liên kết giữa các tình tiết, sự kiện với
nhau để tạo ra sự tổng hợp xâu chuỗi, khái qt các sự kiện, tình tiết đó. Khi
đặt chúng vào trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau, các tình tiết, sự kiện trong
vụ việc dân sự phải có sự ràng buộc, liên quan với nhau. Những tình tiết mang
tính chất trực tiếp là tình tiết mà dựa vào đó có thể xác định được ngay, tình
tiết này được xem là tình tiết, sự kiện khơng cần phải chứng minh. Cịn tình
tiết gián tiếp khơng cho phép chúng ta xác định ngay mà là tình tiết phải chứng
minh trong vụ việc dân sự, muốn xác định được tình tiết này phải qua khâu
trung gian. Dù là chứng cứ trực tiếp hay gián tiếp thì chúng cũng phải có mối
liên quan với nhau, đó là mối quan hệ nhân quả. Khi xác định được những gì
khơng liên quan đến q trình của vụ án Tịa án có thể loại bỏ những tình tiết
này, tập trung nghiên cứu các chứng cứ quan trọng tránh trường hợp thừa hoặc
thiếu chứng cứ.
Tính hợp pháp
Chứng cứ chỉ được cơng nhận khi các chứng cứ đó được thu thập, bảo
quản, đánh giá, sử dụng đúng theo quy định trình tự thủ tục của luật định. Thủ tục,
trình tự này có tính bắt buộc và thực hiện theo những nguyên tắc nhất định. Tùy
thuộc vào bản chất, hình thức, loại chứng cứ, pháp luật tố tụng quy định thủ tục
thu thập, kiểm tra, đánh giá khác nhau. Tính hợp pháp của chứng cứ gắn liền với
giá trị chứng minh của chứng cứ 2. Cần phải tuân thủ theo quy định này để đảm
2
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB. Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam, 2012.
GVHD: Trần Văn Quán
7
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
bảo được giá trị thật của chứng cứ, muốn như vậy Tòa án phải thực hiện việc xem
xét đánh giá chứng cứ một cách cụ thể, minh bạch, quá trình thực hiện cần có tính
chặt chẽ, bên cạnh đó cần phải bảo quản, giữ gìn, bảo vệ chứng cứ để đảm bảo giá
trị chứng minh của nó. Những tình tiết khơng phải là nguồn của chứng cứ theo luật
định thì không được xem là chứng cứ và không được sử dụng trong suốt quá trình
giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng dân nước ta đã quy định chặt chẽ về nguồn
chứng cứ, do vậy những chứng cứ không được rút ra từ nguồn chứng cứ thì khơng
được coi là chứng cứ, hay nói cách khác nó khơng có giá trị chứng minh.
1.1.3. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động chứng minh.
Nguồn chứng cứ là hình thức tồn tại, chứa đựng chứng cứ.
Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục của Bộ
luật tố tụng dân sự, nhưng nguồn của chứng cứ được xác định giới hạn nhất định
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 thì nguồn chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây : “Tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai
của người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi
pháp lý do người có chức năng lập; văn bản cơng chứng, chứng thực; các nguồn
khác mà pháp luật có quy định”. Các chứng cứ thu thập được đều phải thuộc một
loại nguồn chứng cứ nhất định, ngược lại không phải các nguồn chứng cứ thu thập
nào cũng chứa đựng chứng cứ mà còn phụ thuộc vào tính chất của mỗi loại chứng
cứ.
Pháp luật Việt Nam quy định cơ sở để xác định chứng cứ ( Điều 95 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015) như sau:
Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản
sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng
GVHD: Trần Văn Quán
8
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
làm cơ sở để lập ra các bản sao.
Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình
kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu
họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho
người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan
tới việc thu âm, thu hình đó.
Thơng điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu
điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức
tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Giao dịch dân
sự bằng dữ liệu điện tử được các bên thực hiện truyền thơng tin từ máy tính
đến máy tính nhằm góp phần giản tiện về thời gian, chi phí... nhưng vẫn bảo
đảm được hiệu quả của công việc. Đây là phương tiện hiện nay trong các mối
quan hệ về dân sự, kinh doanh, thương mại được sử dụng khá phố biến và phù
hợp. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuât đã đem đến tính đa dạng
và phong phú của các hình thức chứa đựng chứng cứ. Do đó, việc bổ sung
nguồn chứng cứ này là cần thiết nhằm đáp ứng được những yêu cầu thực tế đặt
ra. Đây là một trong những điểm mới về nguồn chứng cứ của Bộ luật tố tụng
dân sự 2015.
Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc. Vật
chứng là những vật khác nhau tồn tại dưới dạng vật chất, vật chứng phải có
đặc điểm liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý chứng minh
cho các đương sự. Các vật chứng là những vật khác nhau thể hiện bằng những
hình dáng, kích thước, tính năng, cơng dụng nhất định. Các vật chứng cụ thể
gắn liền với nội dung cần chứng minh. Vật ảo không thể là nguồn chứng cứ.
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu
được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết
bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai
bằng lời tại phiên tòa. Lời khai của đương sự sẽ không được chấp nhận nếu không
GVHD: Trần Văn Quán
9
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
đảm bảo sự tự nguyện. Người làm chứng có nghĩa vụ khai báo những gì họ biết và
chịu trách nhiệm về nội dung của mình đã khai. Tuy nhiên, lời khai của người làm
chứng có thể khơng đúng sự thật hoặc khơng phản ánh tồn diện về sự thật khách
quan.
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
nếu cần có sự xác nhận của cơ quan chun mơn về một tình tiết nào đó, các bên
đương sự có quyền yêu cầu giám định. Kết quả giám định chính xác có ý nghĩa rất
quan trọng, đơi khi có thể là tính chất quyết định tồn bộ kết quả vụ án. Kết luận
giám định có vai trị quan trọng trong hoạt động chứng minh khi các chủ thể
chứng minh cần sử dụng các kiến thức chuyên môn hoặc kinh nghiệm cần thiết để
giải quyết vụ việc dân sự.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm
định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Biên bản ghi kết quả
thẩm định tại chỗ là do chủ thể tiến hành tố tụng lập với sự chứng kiến của những
chủ thể liên quan theo quy định của pháp luật.
Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu
việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy
định. Các vụ việc dân sự nhất là liên quan đến tài sản đất đai thì việc định giá tài
sản, thẩm định tài sản là một giai đoạn quan trọng. Tòa án và các cơ quan có thẩm
quyền tham gia định giá, thẩm định tài sản phù hợp với loại tài sản và thời điểm
định giá để đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ
được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được
tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Không phải mọi văn bản ghi
nhận sự kiện, hành vi pháp lý đều được xem là nguồn của chứng cứ, mà văn bản
đó chỉ có hiệu lực pháp lý khi được thực hiện bởi người có chức năng lập. Theo
quy định của pháp luật thì việc ghi nhận lại sự kiện, hành vi pháp lý do những
GVHD: Trần Văn Quán
10
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
người khác nhau thực hiện. Việc bổ sung nguồn chứng cứ này là một điểm tiến bộ
để đảm bảo tốt hơn nữa quyền lợi của đương sự.
Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng,
chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Không phải
mọi văn bản công chứng, chứng thực đều là nguồn của chứng cứ mà văn bản cơng
chứng, chứng thực đó phải được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật về cơng
chứng, chứng thực quy định. Trong đời sống xã hội nói chung, giao dịch dân sự
nói riêng, do nhu cầu nên văn bản cơng chứng, chứng thực được thực hiện phổ
biến. Vì vậy, việc bổ sung nguồn văn bản công chứng, chứng thực là cần thiết.
Việc thực hiện công chứng, chứng thực do người của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thực hiện nên tính xác thực cao, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm quyền lợi
trong đời sống xã hội nói chung, trong giao dịch dân sự nói riêng, là cơ sở quan
trọng để Tịa án có được quyết định chính xác trong bản án, quyết định.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, những thông tin, tài liệu là phong
phú và đa dạng. Tuy vậy, không phải mọi thông tin, tài liệu thu thập được đều xác
định là chứng cứ. Chỉ những thơng tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc dân sự và
có nguồn là chứng cứ mới được xác định là chứng cứ. Việc bổ sung nguồn của
chứng cứ để xác định là chứng cứ đã tạo điều kiện để đương sự, người đại diện
của đương sự lựa chọn các hình thức, phương thức thu thập tài liệu, chứng cứ khác
nhau trên cơ sở các bên đương sự đã giao dịch trên thực tế. Điều 95 BLTTDS 2015
đã bổ sung một số trường hợp được xác định là chứng cứ. Việc bổ sung những
thông tin, tài liệu xác định chứng cứ trong BLTTDS 2015 là quan trọng, qua đó
giúp chủ thể đánh giá chứng cứ có nhiều thông tin khác nhau liên quan đến vụ việc
dân sự so sánh, đánh giá một cách tồn diện để tìm đến sự thật khách quan. Tuy
vậy, tài liệu, chứng cứ được thu thập là khách quan, nhưng việc đánh giá nó là chủ
quan nên khơng thể tránh khỏi được những thiếu sót nhất định. Do vậy, việc xác
định chứng cứ để xác định “làm chứng cứ” là quan trọng, quyết định bản chất của
vụ việc dân sự.
GVHD: Trần Văn Quán
11
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
1.1.4. Phân loại chứng cứ
Có nhiều cách phân loại khác nhau, với mỗi cách phân loại thì chứng cứ
có tên gọi khác nhau. Phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng
minh, giúp cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá chính xác các tình tiết của vụ
án. Có thể thấy có một số cách phân loại phổ biến như sau:
Căn cứ vào tính chất hình thành chứng cứ có: chứng cứ gốc và chứng cứ sao
chép, thuật lại
Chứng cứ gốc: được rút ra từ nơi sản xuất đầu tiên không qua khâu trung
gian. Chứng cứ gốc gắn liền với sự tiếp cận trực tiếp, thơng tin có tính xác
thực, khẳng định. Chứng cứ gốc có giá trị chứng minh cao hơn, mức độ chính
xác về thơng tin của chứng cứ càng cao càng giúp cơ quan có thẩm quyền dễ
dàng tiếp cận sự thật khách quan về vụ án. Chứng cứ gốc có thể làm cơ sở để
rút ra những thông tin, kết luận của sự kiện nhằm làm sáng tỏ, giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự.
Chứng cứ sao chép, thuật lại: liên quan đến nơi xuất xứ đầu tiên của nó qua
khâu trung gian. Nếu chứng cứ sao chép thuật lại và càng qua nhiều khâu trung
gian thì độ chính xác của chứng cứ càng giảm, khả năng thông qua những chứng
cứ này tiếp cận với sự thật về các tình tiết của vụ án càng dễ bị sai lệch. Giá trị
chứng minh của chứng cứ càng giảm khi qua nhiều khâu trung gian. Tuy nhiên,
chứng cứ sao chép cũng có giá trị chứng minh quan trọng. Trong nhiều trường
hợp, chứng cứ sao chép có giá trị khẳng định mức độ tin cậy của chứng cứ gốc
thông qua việc so sánh đối chiếu với chứng cứ gốc. Khi mà nhiều chứng cứ sao
chép giống nhau và mâu thuẫn với chứng cứ gốc thì có thể xác định chứng cứ gốc
mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được là chứng cứ đã bị hủy hoại, sửa đổi
hoặc làm sai lệch. Việc sử dụng chứng cứ sao chép kết hợp với chứng cứ gốc giúp
cho việc làm sáng tỏ vụ án được nhanh chóng và khách quan.
Dựa hình thức liên hệ giữa thơng tin thực tế với những tình tiết sự kiện cần
phải chứng minh: chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
GVHD: Trần Văn Quán
12
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
Chứng cứ trực tiếp: giúp chúng ta thấy ngay các yếu tố của đối tượng chứng
minh. Bằng cách này cơ quan tiến hành tố tụng xác định được ngay nội dung cần
chứng minh. Chứng cứ trực tiếp có ý nghĩa chứng minh cao, không phải thông qua
sự đối chiếu, so sánh, kiểm tra cùng các chứng cứ khác.
Chứng cứ gián tiếp: không thể xác định ngay sự kiện cần chứng minh mà cần
phải kết hợp với các sự kiện khác mới có thể xác định được giá trị chứng minh
đối với tình tiết, sự kiện trong vụ kiện. Chứng cứ gián tiếp không khẳng định
trực tiếp về một nội dung nhất định mà cần phải được kiểm tra thông qua
những hoạt động nhất định mới có thể kết luận. Chứng cứ gián tiếp thường
phản ánh sự việc không cụ thể, rõ ràng, đưa ra nhiều giả thiết về sự kiện cần
chứng minh.
Việc phân loại chứng cứ trực tiếp và gián tiếp chỉ có ý nghĩa tương đối,
vì chứng cứ có thể là chứng cứ trực tiếp trong nội dung cần chứng minh này
nhưng lại là chứng cứ gián tiếp trong nội dung khác cần chứng minh.
Dựa vào nguồn gốc thu nhận chứng cứ có: chứng cứ theo người và chứng cứ theo
vật
Chứng cứ theo người được phản ánh chủ yếu qua lời khai của đương sự, người
làm chứng, kết quả giám định của cơ quan chuyên môn, biên bản và các loại tài
liệu khác do cơ quan Nhà nước cung cấp. Chứng cứ theo người là loại chứng cứ
được sử dụng phổ biến trong hoạt động tố tụng gắn liền với việc chứng minh về
điều kiện, nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh các vụ việc dân sự, căn cứ để khởi
kiện.
Chứng cứ theo vật là chứng cứ được rút ra từ những vật chứng, tài liệu,
giấy tờ… có nguồn gốc từ các vật khác nhau của thế giới vật chất. Chứng cứ từ
vật cũng là hình thức phổ biến trong hoạt động tố tụng. Trong quá trình vận
động của mình, con người để lại nhiều dấu vết của mình trên các vật khác nhau
của thế giới vật chất, những dấu vết này phản ánh hoạt động giao tiếp của con
GVHD: Trần Văn Quán
13
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
người gắn liền với nhu cầu của họ, đó là nguồn gốc hình thành chứng cứ trong
các vật.
Hoạt động phân loại chứng cứ nói chung cũng chỉ mang tính tương đối.
Một chứng cứ có thể vừa là chứng cứ trực tiếp vừa là chứng cứ gốc, một chứng cứ
có thể vừa là chứng cứ gián tiếp vừa là chứng cứ sao chép lại, vừa là chứng cứ
theo vật….Việc phân lọai chứng cứ giúp cho việc thu thập, kiểm tra đánh giá, bảo
quản sử dụng và xử lý chứng cứ đạt hiệu quả trong quá trình tố tụng.
1.2. CHỨNG MINH
1.2.1. Định nghĩa chứng minh
Chứng minh là bước rất quan trọng trong thủ tục tố tụng, là hoạt động
trọng tâm trong tố tụng dân sự. Chứng minh giúp cơ quan điều tra, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Chứng
minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án nên có
nội hàm rất rộng. Bản chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể TTDS
khơng chỉ thể hiện ở chỗ xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà
còn thể hiện ở chỗ phải làm cho mọi người thấy rõ nó là có thật, là đúng với
thực tế. Nhưng để thực hiện được mục đích, nhiệm vụ của chứng minh các chủ
thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra được tất cả các căn cứ pháp lý và thực
tiễn liên quan đến vụ việc dân sự. Chứng minh là một hoạt động tố tụng dân sự
cơ bản của các chủ thể tố tụng là quá trình xuyên suốt từ khi bắt đầu giải quyết
vụ việc dân sự đến khi kết thúc vụ việc dân sự.3
Nhiệm vụ của Tòa án trong tố tụng dân sự là làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ việc dân sự: có hay khơng có, tồn tại hay khơng tồn tại các tình
tiết, sự kiện mà các bên nêu ra làm cơ sở cho u cầu của mình trước Tịa án.
Chỉ trên cơ sở các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự đã được làm rõ, Tịa án
mới có thể áp dụng pháp luật phù hợp để giải quyết vụ việc, chấp nhận hay bác
bỏ yêu cầu của các bên. Tòa án làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc dân
3
Lê Thị Giang Yên, Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, 2007.
GVHD: Trần Văn Quán
14
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
sự bằng các chứng cứ do các bên thu thập, đề xuất và được kiểm tra đánh giá
theo trình tự do luật định.
Hoạt động thu thập, đề xuất, kiểm tra và đánh giá chứng cứ nhằm làm
sáng tỏ các tình tiết sự kiện cụ thể để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân
sự của Tòa án và những người tham gia tố tụng khác gọi là hoạt động chứng
minh trong tố tụng dân sự.
Hoạt động chứng minh của các chủ thể bao gồm nhiều hoat động khác
nhau, các hoạt động này liên kết với nhau làm nền tảng cho hoạt động chứng minh
đạt hiệu quả. Chứng minh bao gồm các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên toà của các chủ thể. Các đương sự ngoài
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cịn phải tích cực tham gia vào q trình chứng minh
để bảo vệ lợi ích cho chính mình. Nếu đương sự không chứng minh được những
chứng cứ họ đưa ra có giá trị pháp lý thì Tịa án khơng thể bảo vệ được quyền và
lợi ích của họ. Chứng minh vừa có ý nghĩa trong việc giải quyết đứng đắn vụ việc
dân sự vừa đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Chứng minh là hoạt động do Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng tiến
hành, làm sang tỏ sự thật khách quan của vụ án và yêu cầu, phản bác yêu cầu của
các bên tham gia tố tụng. Ngồi ra hoạt động chứng minh cịn có các đặc điểm cơ
bản sau:4
Họat động chứng minh trong tố tụng dân sự một dạng của họat động nhận thức
thế giới khách quan. Họat động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình
nhận thức đi từ thấp đến cao, là sự thống nhất biện chứng của nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính.
Họat động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động tư duy và họat
động tố tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham gia tố
tụng khác đại diện hợp pháp của họ. Họat động chứng minh là một quá trình bao
gồm các giai đọan: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ.
4
Trường Đại học Luật TP.HCM, Đề cương môn hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, 2010
GVHD: Trần Văn Quán
15
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
Họat động chứng minh bắt đầu từ khi khởi kiện cho đến khi vụ án được giải
quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Khởi đầu là việc chứng minh
của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt
động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu
có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện
kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tịa án chứng minh cho phán quyết của mình
thơng qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.
Họat động chứng minh phải tuân thủ quy định của pháp luật.
Họat động chứng minh là hoạt động sử dụng chứng cứ. Quá trình chứng minh
khơng có gì khác ngồi việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về
tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác
nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có
mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai
đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải
có hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ
phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách
quan và tồn diện hay khơng hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập
chứng cứ có đầy đủ và đúng hay khơng.
Như vậy, chứng minh là hoạt động của các chủ thể chứng minh trong việc
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc dân sự thông qua các hoạt động thu
thập, cung cấp, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
1.2.2. Đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh là tổng hợp các sự kiện pháp lý mà Tòa án cần phải làm
sáng tỏ để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Những tình tiết,
sự kiện này cần phải làm sáng tỏ trong quá trình tố tụng dân sự.5
55
Trường Đại học Luật TP.HCM, Đề cương môn hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, 2010
GVHD: Trần Văn Quán
16
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
Để xác định được đối tượng chứng minh có thể căn cứ vào hai nguồn: theo
yêu cầu của của đương sự và xác định theo pháp luật nội dung. Việc xác định đúng
đối tượng chứng minh là vấn đề rất quan trọng để giải quyết đúng yêu cầu của
pháp luật đối với từng loại vụ việc, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các
đương sự. Đối tượng chứng minh rất đa dạng và phong phú muốn xác định
chính xác đối tượng chứng minh cần căn cứ vào yêu cầu của đương sự. Bên
cạnh đó cần xác định để loại bỏ các tình tiết khơng cần phải chứng minh, vì
các tình tiết này khơng thuộc đối tượng chứng minh. Điều 92 BLTTDS quy
định những tình tiết, sự kiện khơng cần phải chứng minh:
“1. Những tình tiết, sự kiện sau đây khơng phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tòa án thừa
nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được cơng chứng,
chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của
những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản cơng chứng,
chứng thực thì Thẩm phán có thể u cầu đương sự, cơ quan, tổ chức công
chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc khơng phản đối những tình tiết, sự kiện,
tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa
ra thì bên đương sự đó khơng phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người
đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá phạm vi
đại diện.”
Thực tiễn giải quyết vụ việc dân sự nếu có nghi ngờ về những tình tiết, sự
kiện hoặc là tính khách quan của văn bản cơng chứng, chứng thực nhưng khơng có
GVHD: Trần Văn Quán
17
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
biện pháp cần thiết để xác định về tính xác thực đó thì quyết định của Tịa án sẽ
khơng khách quan, chính xác. Do đó, BLTTDS 2015 đã tạo cơ chế pháp lý để giải
quyết vấn đề này khi điểm c khoản 1 Điều 92 quy định: Trường hợp có dấu hiệu
nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan
của văn bản cơng chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể u cầu đương sự, cơ
quan, tổ chức công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính. Với quy định
mới này đã tháo gỡ cho Thẩm phán giải quyết được dứt điểm vụ án dân sự, đặc
biệt là bảo vệ kịp thời quyền lợi của đương sự. 6 Quy định này giúp vụ án được giải
quyết nhanh chóng, chính xác, giảm bớt rắc rối trong quá trình giải quyết vụ án.
1.2.3. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chủ thể chứng minh trong TTDS gồm đương sự (nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), người đại diện cho đương sự, người bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp cho đương sự, Tòa án, Viện Kiểm sát, cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác. Nghĩa vụ chứng minh của mỗi chủ thể được quy định tại Điều 91
BLTTDS 2015.
Đương sự có yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
đương sự đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác phải chứng minh
được u cầu của mình là có căn cứ. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác
đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho
Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. Đương sự có nghĩa
vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc khơng
đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc
chứng minh không đầy đủ. BLTTDS đề cao vai trò chứng minh của đương sự.
Nguyên đơn là bên phải có nghĩa vụ chứng minh trước để làm sáng tỏ các tình tiết
của vụ việc chính là đang bảo vệ quyền lợi ích cho chính nguyên đơn. Bị đơn có
6
ThS. Đinh Tuấn Anh, Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về chứng cứ và chứng minh,
15/5/2017, />
GVHD: Trần Văn Quán
18
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
quyền đưa ra các chứng cứ, bằng chứng pháp lý phản tố lại yêu cầu của nguyên
đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa
vụ của nguyên đơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng có quyền đưa ra
yêu cầu hoặc phản đối trong quá trình xét xử nhưng phải có căn cứ pháp lý cho
yêu cầu đó. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền và nghĩa vụ như
nguyên đơn, bị đơn thể hiện sự bình đẳng giữa các đương sự.
Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật
và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân
theo quy định của Bộ luật dân sự. 7 Người đại diện theo pháp luật của đương sự
được thực quyền, nghĩa vụ tố tụng của dân sự trong phạm vi mình đại diện, có
nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của đương sự do mình đại
diện. Vì vậy nghĩa vụ chứng minh của người đại diện ra sao còn phải phụ thuộc
vào phạm vi đại diện của mình, nhưng cơ bản người đại diện có nghĩa vụ chứng
minh được thực hiện trên quyền và nghĩa vụ của đương sự. Người đại diện theo ủy
quyền thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn
bản ủy quyền. Theo quy định này thì người đại diện chỉ được thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh trong phạm vi ủy quyền.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Như vậy họ cũng có
quyền và nghĩa vụ chứng minh cho đương sự của mình. Quy định tại khoản 2 Điều
76 BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có quyền “Thu thập
và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi
chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này”. Điều này chứng tỏ người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự phải tổng hợp các chứng cứ, lý lẽ thuyết phục giàu tính
pháp lý của mình để chứng minh đảm bảo quyền lợi cho đương sự của mình. Tại
7
Điều 85, Bộ luật tố tụng dân sự 2015
GVHD: Trần Văn Quán
19
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
phiên tịa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước hoặc yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
việc khởi kiện, u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Các cơ quan, tổ chức,
cá nhân này có quyền khởi kiện nhằm bảo vệ lợi ích chung, lợi ích cơng cộng, lợi
ích của Nhà nước hoặc bảo vệ quyền lợi ích của cơng dân trong một số trường hợp
cần thiết. Như vậy các cơ quan, tổ chức, cá nhân này cũng có nghĩa vụ chứng
minh để bảo vệ yêu cầu khởi kiện của mình bằng những bằng chứng pháp lý
thuyết phục.
Theo quy định của BLTTDS, trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự.
Tuy nhiên pháp luật cũng quy định một số trường hợp người tiến hành tố tụng
cũng có trách nhiệm chứng minh. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để
chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì
Tịa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong
hồ sơ vụ việc. Trong một số trường hợp Tòa án cũng có thể thực hiện thu thập tài
liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 97 BLTTDS 2015):
“Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các đương sự với
nhau, giữa đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám định; định giá tài sản;
xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc
hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; xác minh sự có mặt
hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú; các biện pháp khác theo quy định của
Bộ luật này”. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ
và khẳng định tính hợp pháp, tính liên quan, giá trị chứng minh của từng chứng
cứ. Các hoạt động của Tịa án đều nhằm mục đích hỗ trợ việc chứng minh cho
GVHD: Trần Văn Quán
20
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
đương sự. Để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự, trong một số trường hợp Tòa án
cũng phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh để làm rõ các vấn đề.
Viện kiểm sát tham gia vào hoạt động chứng minh với tư cách là chủ thể
chứng minh, chủ yếu trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ liên quan
đến khiếu nại và kháng nghị. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc
thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm.
1.3. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG VIỆC CUNG
CẤP CHỨNG CỨ
Khi đương sự nộp đơn khởi kiện đến Tịa án thì theo quy định của pháp
luật việc cung cấp chứng cứ vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự. Điều
đó có nghĩa là, khi một cá nhân, cơ quan, tổ chức xét thấy quyền lợi của mình
bị vi phạm, họ có quyền làm đơn khởi kiện đến Tịa án, song cùng với đó là có
nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án. Với quy định đó của Bộ luật
thì đương sự muốn chứng minh yêu cầu của mình có cơ sở, có căn cứ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì đương sự phải đưa ra được chứng cứ
để chứng minh yêu cầu của họ. Người bị kiện có quyền phản đối yêu cầu của
người khởi kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
có quyền đưa ra yêu cầu, nhưng đồng thời có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng
cứ để chứng minh cho phản tố, yêu cầu đó là có căn cứ và cần được bảo vệ.
Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu
thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có
nghĩa vụ thơng báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp, trình bày, đối
đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng
để bảo vệ u cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của
người khác theo quy định của Bộ luật này.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 BLTTDS 2015:
GVHD: Trần Văn Quán
21
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
“1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho
Tòa án và chứng minh cho u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh
như đương sự.
2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến
hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy
định.”
Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy
định đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình. Tuy vậy, Bộ luật này khơng quy định cụ thể tính chủ động của
đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Khi Tịa án thụ lý vụ việc dân sự và yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu,
chứng cứ nhưng đương sự đã không cung cấp được đầy đủ, do vậy đã ảnh hưởng
đến phán quyết của Tịa án về tính chính xác của vụ việc. Để tháo gỡ, giải quyết
hạn chế nêu trên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định, trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, đương sự chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tịa
án và đương sự có quyền u cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ 8. Cụ thể “Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu, chứng cứ. Khi yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ, đương sự phải làm văn bản yêu cầu ghi rõ tài liệu, chứng cứ cần cung
cấp; lý do cung cấp; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ
chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp”(Khoản 1, Điều 106
BLTTDS 2015). Quy định này đã tạo ra một cơ chế bảo đảm cho đương sự có điều
kiện thực hiện quyền một cách thực sự để thu thập tài liệu, chứng cứ giao nộp cho
Tòa án.
8
ThS. Đinh Tuấn Anh, Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về chứng cứ và chứng minh,
11/5/2017, />
GVHD: Trần Văn Quán
22
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc giao nộp tài liệu chứng cứ cũng
được quy định tại Điều 96 BLTTDS 2015 như sau:
“Trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và
nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã
được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu
cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp
hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tịa án u cầu mà khơng có lý
do chính đáng thì Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp
và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ
việc dân sự.”(Khoản 1 Điều 96)
Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên
bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài
liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc
điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản
phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho
đương sự nộp chứng cứ.( Khoản 2 Điều 96). Trách nhiệm của Tòa án khi tiếp nhận
chứng cứ, khi đương sự giao nộp chứng cứ phải làm theo quy định này là nhằm
tránh bị đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc có hành vi thủ tiêu chứng cứ…
Đồng thời đảm bảo được giá trị pháp lý của chứng cứ trong quá trình sử dụng.
Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu
số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng,
chứng thực hợp pháp.( Khoản 3 Điều 96)
Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo
thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ
luật này.
Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm,
quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp
GVHD: Trần Văn Quán
23
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự khơng giao
nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc
chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tịa
án khơng u cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không
thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự
có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân
sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.(Khoản
4 Điều 96)
“Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tịa án thì họ phải sao gửi
tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương
sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này
hoặc tài liệu, chứng cứ khơng thể sao gửi được thì phải thơng báo bằng văn bản
cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác.”(Khoản 5
Điều 96). Trong một số trường hợp đặc biệt ví dụ nhự liên quan đến bí mật Nhà
nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư…mà pháp luật quy định đương sự khơng
có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ khơng giao nộp không được coi là căn
cứ để xét xử bất lợi cho họ.
Như vậy, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định bổ sung các điều kiện,
thời điểm về giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự cho Tịa án, đồng thời thơng
báo tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác, người đại diện của đương sự khác đã
tạo những điều kiện có thể để bảo đảm quyền lợi của đương sự, góp phần cho Tịa
án có được phán quyết khách quan, chính xác.
Đương sự cũng có thể cung cấp chứng cứ tại phiên tồ, quyền này được
thể hiện qua việc phát biểu tranh luận và đối đáp giữa các bên tại phiên tòa
“Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả việc hỏi tại
phiên tòa. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người
GVHD: Trần Văn Quán
24
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 2015
khác.”(Điều 261 BLTTDS).Việc tranh tụng tại phiên tòa cũng giúp cho các bên
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đương sự có trách nhiệm cung cấp chứng cứ bổ sung nộp kèm đơn kháng
cáo “Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi tài liệu, chứng cứ bổ
sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp
pháp.”(Khoản 8 Điều 272 BLTTDS 2015). Việc cung cấp chứng cứ của đương sự
được thực hiện trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào trong q trình Tịa án giải quyết
vụ việc dân sự.
Cung cấp tài liệu chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
(Điều 287 BLTTDS 2015)
“1. Đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm:
a) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương
sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng;
b) Tài liệu, chứng cứ mà Tịa án cấp sơ thẩm khơng u cầu đương sự giao nộp
hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục
sơ thẩm.
2. Thủ tục giao nộp tài liệu, chứng cứ được thực hiện theo quy định tại Điều 96
của Bộ luật này.”
Ngồi ra đương sự cịn được bổ sung, xác minh tài liệu, chứng cứ trong thủ
tục giám đốc thẩm (Điều 330 BLTTDS 2015):
“1. Đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tịa
án cấp sơ thẩm, Tịa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu
cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc
tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ
án.
GVHD: Trần Văn Quán
25
SVTH: Trịnh Nguyễn Phương Trúc