Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
A MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lược lượng vũ trang nhân dân là các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của
nhân dân Viêt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, có nhiệm vụ “chiến đáu giành và giữ độc
lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế xã hội chủ nghĩa
và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là lực
lượng xung kích trong khởi nghĩa tồn dân giành chính quyền,là lực lượng nịng
cốt của quốc phịng tồn dân và chiến tranh nhân dân”
Để đạt đợc những thành công như ngày hôm nay, đất nước chúng ta đã
trải qua biết bao cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc, viết nên trang sử hào hùng
của dân tộc. Tiêu biểu với hai cuộc kháng chiến thần thánh chiến thắng thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ giữ vững non sông Việt Nam. Hơn 30 năm kể từ thời khắc
lịch sử đó, thời khắc thống nhất hai miền Nam – Bắc với chiến dịch mùa xuân
năm 1975 đến hôm nay Việt Nam chúng ta đã đạt đợc những thành tựu to lớn
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Để có những thắng lợi vẻ vang đó
Đảng và nhà nước đã xây dựng được một lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh
Ngày nay , tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có nhiều diễn
biến phức tạp. Trên thế giới, các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết liệt, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi
nhưng những cuộc xung đột vũ trang và nội chiến vẫn xảy ra và kéo dài ở nhiều
nơi, những mâu thuẫn gay gắt về dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ đang tiếp diễn. xu
thế hội nhập và tồn cầu hóa mở ra cho đất nước ta nhiều vân hội lớn đi lên
cùng những thách thức khôn lường. Càng nhiều cam go, thử thách, càng đòi hỏi
chúng ta phải thấm nhuần sâu sắc hơn nữa những chỉ dẫn của chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lương vũ trang , xứng đáng là “lực lượng trụ cột” của
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
1
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
cách mạng Việt nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN ngày một phồn vinh. Và càng phải đối phó với những âm mưu, thủ đoạn
mới của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, và các thế lực phản động
thù địch, quân đội ta phải luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Trên tinh thần đó,
phải tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia về cả tiềm lực và thế trận quốc
phịng tồn dân, với lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, đủ sức đánh thắng mọi hành động
xâm lược, chống phá của kẻ thù.
Trong bối cảnh đó, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục phấn đấu
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm từng nước.
Việt Nam đã và đang nằm trong tầm ngắm của các thế lực phản động và
đế quốc, chúng lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để
can thiệp vào công việc nội bộ của ta , tình hình biển đảo của ta có nhiều biến
động ,các thế lực bên ngồi đang thực hiện “ diễn biến hịa bình’’, “ bạo loạn lật
đổ”, gây bạo loạn chính trị ,đe dọa lãnh thổ Việt Nam
Với tình hình trên Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng
lược vũ trang nhân dân Việt Nam ngày càng vững mạnh để chống lại các thế lực
phản động và bảo vệ chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ . Là một thanh
niên , sinh viên . Tôi nhận thấy việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trong thời kì mới là một nhiệm vụ quan trọng .Chính vì vậy tơi chọn đề tài này
với mong muốn được nâng cao hiểu biết thêm về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam.Từ đó đưa ra những quan điểm , những giải pháp để xây
dựng một lực lượng vũ trang hùng mạnh
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm bồi dưỡng cho sinh viên nắm được những đặc điểm, quan điểm,
nguyên tắc phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Giư vững được lập trường tư tưởng, phân biệt được đúng sai, nhận biết do
những âm mưu phá hoại của kẻ thù.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
2
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Kiên quyết đấu tranh với những tư tượng sai trái trong xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân việt nam. Có những thái độ nghiêm túc trong học tập
mơn Giáo dục quốc phịng- an ninh.
Trên cơ sở nhận thức, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực góp phần
vào xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh phát triển toàn diện.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Quan điểm của Đảng về xây dưng lực lượng vũ trang nhân
dân trong mấy chục năm qua.
Và những quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trong thời kì mới
IV. NHIỆM VỤ
Xác định được trách nhiệm, thái độ đúng đắn trong học tập môn
GDQP . Nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục, xây dựng và phát
triển khoa học quân sự Việt Nam . Từng bước giải quyết yêu cầu về
vũ khí, trang bị kĩ thuật của lực lượng vũ trang nhân dân
Xung kich bảo vệ tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và
tê nạn xã hội trong thời kì đất nước dang phát triện
Tích cực tham gia các hoat động giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang nhân dân có phẩm
chất, năng lực tốt.Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các chính sách của
Đảng, nhà nước đối với lực lượng vũ trang nhân dân
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp lơ gic lịch sử
Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết, thơng qua việc thu
thập tài liệu, các thơng tin quân đội.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
3
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Phương pháp tiếp cận hệ thống
VI. BỐ CỤC ĐỀ TÀI GỒM BỐN PHẦN
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương I: cơ sơ lí luận
Chương II: quan điểm của Đảng về xây dưng lực lượng vũ trang
nhân dân trong thời kì mới.
Chương III: Những biện pháp chủ yếu về xây dưng lực lượng vũ
trang nhan dân trong thời kì mới
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
4
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Truyền thống, kinh nghiêm trong lịch sử dưng nước và giữ nước
của dân tộc ta.
Từ truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta. Tư tượng của chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
và thực tiến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong mấy chục
năm qua.
Lực lượng vũ trang nhân dân từ khi ra đời trong mỗi giai đoạn lịch sử của
đất nước đều thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong cuộc đấu tranh vũ
trang giải phóng dân tộc xây dựng lực lượng vũ trang trong tổng khởi nghĩa
Nghị quyết Hội nghị T.Ư 8 (5-1941) xác định: "... Cuộc cách mạng Đông
Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang...". Khi vấn đề khởi
nghĩa giành chính quyền đã đặt ra thì việc tổ chức một đạo quân cách mạng và
xây dựng căn cứ địa cách mạng là điều kiện quyết định không thể thiếu.
Từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dự báo: Để cách mạng thắng
lợi, sẽ có "một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đơng Dương" ... "cuộc khởi nghĩa đó
có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng..." . Việc cần phải tổ chức ra quân
đội công nông để "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến" được
khẳng định từ Chính cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo và đã được
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thông qua.
Hội nghị T.Ư 8 (5-1941) quán triệt tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí
Minh, xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, cũng là mốc lịch
sử đánh dấu bước phát triển, hoàn thiện những quan điểm của Đảng về vũ trang
khởi nghĩa ở Việt Nam. Đây là quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang theo
đường lối, chủ trương sáng suốt của Đảng: Đó là cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
độc lập do tồn thể dân tộc tiến hành. Hình thái của cuộc khởi nghĩa là tiến lên
từ khởi nghĩa từng phần, ở từng địa phương tới khởi nghĩa toàn quốc - Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
5
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
dân, mở rộng và xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên tiên phong để làm nòng cốt tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang.
Lực lượng quân sự của cách mạng được xây dựng từ thấp đến cao, từ nhỏ đến
lớn, từ tự vệ cứu quốc đến tiểu tổ du kích rồi phát triển thành đội du kích chính
thức.
Dưới chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc , trong những năm 1941 - 1944, các đội du kích, đội tự vệ được xây dựng
ở nhiều xã, nhiều huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Đội du kích Bắc Sơn được củng
cố và phát triển thành các Trung đội Cứu quốc quân.
Tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và tác chiến của đội quân cách mạng đã
được Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân (tháng 12-1944): "... Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng
chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi
tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ
trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương
diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa
phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được làm cho các đội
này trưởng thành mãi lên...".
Tuy quy mơ cịn nhỏ, qn số khơng đơng, vũ khí cịn thô sơ khi mới
thành lập nhưng tiền đồ của lực lượng vũ trang cách mạng vẻ vang. Đội quân
này có thể đi suốt từ nam chí bắc, khắp đất nước Việt Nam.
Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có thể coi là
cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận về xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Chiến tranh du kích và căn cứ địa là hai yếu tố cơ bản của cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trước kẻ địch đang chiếm ưu thế về sức mạnh quân sự. Sau Hội
nghị T.Ư 8, ở những nơi phong trào Việt Minh phát triển có các đội tự vệ, đội du
kích vững mạnh, các căn cứ địa cách mạng cũng manh nha hình thành.
Mức độ thấp của các khu căn cứ địa cách mạng trong cuộc Cách mạng Tháng
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
6
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Tám là các khu an tồn. Trong các khu an tồn có cơ sở cách mạng vững, có tổ
chức vũ trang tự vệ mạnh và những điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và liên
lạc. Nhiều tỉnh đã xây dựng được các khu an tồn của tỉnh mình. Thậm chí các
khu an toàn của cơ quan Trung ương Đảng được xây dựng tại vùng ven Hà Nội,
chỉ cách trung tâm thành phố từ 15 đến 20 km như Vạn Phúc (Hà Đông); Đình
Bảng (Bắc Ninh)...
Các khu an tồn dần phát triển thành các khu du kích trong cao trào kháng
Nhật cứu nước trước Tổng khởi nghĩa. Hai khu du kích đầu tiên được xây dựng
là khu căn cứ Cao Bằng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, với hoạt
động của đội vũ trang Cao Bằng và khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai do Trung
ương Đảng trực tiếp tổ chức xây dựng. Tới cuối năm 1943, hai khu căn cứ địa
nối liền với nhau, tạo nên thế liên hoàn, vững chắc làm tiền đề cho sự ra đời Khu
giải phóng Việt Bắc (6-4-1945), gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và vùng ngoại vi.
Các khu du kích ở các địa phương khác cũng phát triển mạnh. Với vũ khí
thơ sơ, tự tạo và cướp được của giặc, các đội du kích vừa chiến đấu vừa xây
dựng lực lượng.
Tại các chiến khu, lực lượng vũ trang cách mạng hoạt động mạnh: Tiến
công đồn lính, phục kích, cướp vũ khí, chống càn quét khủng bố... Các căn cứ
kháng Nhật trên các địa bàn quan trọng như chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
7
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Triều), chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh); chiến khu Vần - Hiền
Lương (Phú Thọ - Yên Bái), khu du kích Ba Tơ... đã có những tác động to lớn
trực tiếp thúc đẩy phong trào cách mạng tại chỗ phát triển đồng thời chi viện lực
lượng, hỗ trợ đấu tranh cho các địa phương khác đặc biệt là trong những ngày
Tổng khởi nghĩa.
Hệ thống căn cứ địa cách mạng rộng lớn được Đảng dày cơng xây dựng
đã góp phần quan trọng vào thắng lợi nhanh chóng của Cách mạng Tháng Tám.
Ở Nam Bộ, sau khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào cách mạng bị địch khủng bố
trắng. Trong điều kiện khó khăn, Xứ ủy Nam Kỳ và các Đảng bộ tỉnh đã phấn
đấu xây dựng, phát triển lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Sau ngày 9-3-1945, Xứ ủy Nam Kỳ đã kịp thời lập ra Thanh niên Tiền phong để
tập hợp thanh niên cùng nhiều tầng lớp xã hội khác vào những hoạt động yêu
nước. Hầu hết các đơn vị Thanh niên Tiền phong đều do cán bộ đảng lãnh đạo.
Lãnh đạo tổ chức này là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một đảng viên cộng sản. Lực
lượng vũ trang của cách mạng cũng được tuyển chọn xây dựng từ đội ngũ Thanh
niên Tiền phong, đến tháng 8-1945, quân số đã đạt khoảng 20 nghìn người.
Ngày 20-8-1945, ở Sài Gịn, Việt Minh ra công khai. Ngày 22-8-1945, Thanh
niên Tiền phong tuyên bố gia nhập Việt Minh và trở thành một thành viên của
Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Đảng bộ Nam Kỳ đã có một lực lượng vũ trang đủ
mạnh để hỗ trợ nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gịn - Chợ
Lớn và tồn bộ các tỉnh ở Nam Bộ những ngày sau đó.
Trong khí thế sục sôi cách mạng, tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra
"Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa". Tháng 8-1944, Việt Minh lại ra lời kêu gọi:
"Sắm võ khí! Đuổi thù chung". Khắp nơi, nhân dân hăng hái góp tiền mua sắm,
chế tạo vũ khí, củng cố và phát triển các đội tự vệ, tích cực huấn luyện quân sự...
Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (15-5-1945) đã thống nhất Cứu quốc quân
và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Giải phóng qn. Lúc này lực
lượng vũ trang chính quy tập trung của cách mạng đã phát triển thành nhiều chi
đội (tương đương cấp trung đồn) với hàng nghìn chiến sĩ. Giải phóng quân
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
8
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
được nhân dân đùm bọc, càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn hơn.
Q trình lãnh đạo tồn dân chuẩn bị lực lượng và kiên quyết tiến hành khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền
móng cho sự hình thành nền nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Đó là tư
tưởng về cuộc chiến tranh cách mạng mang tính tồn dân, tồn diện, cần phải
động viên toàn dân, vũ trang toàn dân; tư tưởng về tổ chức lực lượng vũ trang
nhân dân... Và cũng từ buổi ban đầu, những phẩm chất đạo đức cao quý của
những chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã được hình thành và ngày càng
được nâng cao.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta là tiếp tục sự nghiệp giải
phóng dân tộc và bảo vệ nền độc lập đã giành được sau chín năm kháng chiến
chống Pháp, vừa nhằm bảo vệ tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông
Nam châu Á, bảo vệ hồ bình, cho nên tính chất chính nghĩa, nhân tố chính trị,
tinh thần của nó ngày càng tỏa sáng, quy tụ toàn dân vào một mặt trận đoàn kết
kháng chiến, lại có sự chỉ đạo chiến lược sáng tạo, có phương pháp cách mạng
đúng, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong nước và Thế giới, nhân dân
ta đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp được sự ủng hộ quốc tế, từng bước đánh
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
9
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
thắng các chiến thuật và kế hoạch chiến lược của Mỹ-ngụy, làm chuyển hố so
sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho cách mạng, đẩy địch vào thế bất lợi,
bị động ngay từ đầu.
Âm mưu của Mỹ trong chiến tranh đặc biệt là tiêu diệt lực lượng vũ trang
ta, triệt phá cơ sở cách mạng, bình định miền Nam trong 18 tháng bằng các kế
hoạch Stalây-Taylo, Mắc Namara-Giônxơn, tiến hành các hoạt động gây rối, phá
hoại làm mất ổn định miền Bắc Việt Nam. Để thực hiện âm mưu này, Mỹ sử
dụng qn đội Sài Gịn có các binh chủng kỹ thuật đang phát triển, liên tục càn
quét, đánh phá ác liệt vùng giải phóng, vùng đang tranh chấp để đẩy dân chúng
phải chạy vào vùng do chúng kiểm soát. Đối với những vùng địch đang kiểm
soát, chúng dùng bộ máy ngụy quyền và lực lượng bảo an, cảnh sát, dân vệ tại
chỗ đàn áp, cưỡng bức, kết hợp với chiến tranh tâm lý mua chuộc để dồn dân
vào các ấp chiến lược. Một cuộc chiến tranh giành dân, giành quyền làm chủ
giữa ta với địch diễn ra trên quy mô lớn, giằng co, quyết liệt. Quán triệt tư tưởng
cách mạng tiến công, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ đảng ở miền Nam,
quân và dân ta đã phát triển cuộc chiến tranh nhân dân lên tầm cao mới, sáng tạo
ra nhiều cách đánh linh hoạt, phong phú. Lực lượng vũ trang ba thứ quân và lực
lượng chính trị của ta đã phối hợp đấu tranh chặt chẽ, chủ động tiến công địch
trong mọi thời gian và thời tiết, đánh địch bằng ba mũi giáp công với mọi thứ vũ
khí từ thơ sơ đến hiện đại. Nhiều người tiến công, một người cũng tiến công;
tiến công bằng cả quân sự, chính trị, binh vận. Qua cuộc chiến đấu ác liệt, gian
khổ, dai dẳng với địch, nhân dân ta đã dũng cảm và sáng tạo ra phương châm
“ba bám”1, trụ vững trên các địa bàn, kết hợp tiến công với nổi dậy, chống địch
càn quét và phá ấp chiến lược, đi đôi với xây dựng làng, xã chiến đấu, xây dựng
các căn cứ lõm cách mạng. Làng xã chiến đấu và căn cứ lõm giải phóng được
xây dựng khơng chỉ để phòng giữ, đánh địch tại chỗ mà còn để tiến cơng, tạo thế
bố trí cài răng lược ép địch lại. Làng, xã chiến đấu, căn cứ lõm hợp cùng với căn
cứ hậu phương trực tiếp trên toàn chiến trường miền Nam với hậu phương chiến
lược miền Bắc thành căn cứ cách mạng rộng lớn, liên hoàn để xây dựng cơ sở
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
10
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vật chất, tích trữ và phát triển lực lượng kháng chiến, thực hiện nhiệm vụ tiến
công và phản công tiêu diệt địch, nhằm “lấn đất, ép địch, giành dân, tạo thế
chiến trường”, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Nhờ đó, lực lượng cách
mạng miền Nam càng đánh càng mạnh, càng thắng to. Cuối năm 1964, mặc dù
Mỹ từng bước leo thang đưa “cuộc chiến tranh đặc biệt” lên đỉnh cao, có những
nhân tố của “cuộc chiến tranh cục bộ” và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng
không quân, hải quân, song chúng
Nắm vững thời cơ do cuộc chiến đấu anh dũng của đồng bào và chiến sĩ ta
ở miền Nam tạo ra, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương chỉ đạo cho các chiến
trường mở các chiến dịch tổng hợp đánh qụy đội quân chủ lực ngụy, đi đôi với
phá từng mảng lớn ấp chiến lược. Thực hiện chủ trương và thể hiện quyết tâm
của Trung ương, lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta ở miền Nam, nòng cốt là
bộ đội chủ lực đã mở các chiến dịch tiến cơng Bình Giã, Đồng Xồi, Ba Gia, kết
hợp với đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng rộng khắp, đánh bại quân
chủ lực, địa phương ngụy, đồng thời đánh một số trận phủ đầu quân viễn chinh
Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme, Dầu Tiếng xuân-hè-thu năm 1965. Qua
cuộc tiến công, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn, làm phá sản chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Thắng lợi trong giai đoạn này chứng minh sự chỉ đạo chiến lược của Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là chính xác. Đảng đề ra đường lối, phương pháp
cách mạng sáng tạo, xử lý các tình huống trong chiến tranh kịp thời, nhạy bén;
chuẩn bị lực lượng chủ động, tích cực. Tuy nhiên, ta chưa giành được thắng lợi
quyết định như dự kiến, vì đội quân ngụy bị đánh bại, nhưng chưa tan rã về tổ
chức, Mỹ tăng viện trợ và đưa ồ ạt quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam,
thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Tuy lực lượng ta còn hạn chế, nhưng
vẫn giữ vững thế chủ động chiến lược, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân
đều khắp trên cả ba vùng chiến lược, sẵn sàng chủ động cả về tư tưởng, tổ chức
và quyết tâm chuẩn bị lực lượng để bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với quân Mỹ.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
11
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
II. Xuất phát từ lí luận Mác- Lênin về mối quan hệ giữa số lượng và
chất lượng. Truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của ông cha ta
“binh quý hổ tinh, bất quý hổ đa”. Từ đòi hỏi yêu cầu cao của nhiêm vụ đối
với lực lượng vũ trang nhân dân.
V.I Lênin chỉ ra rằng: đảng cộng sản việt nam phải lãnh đạo mọi mặt sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc. Đảng chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có
sáng kiến để lơi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi
sinh. Trong quân đội, chế độ chính ủy được thực hiện, cán bộ chính trị được lấy
từ đại biểu ưu tú của cơng nơng,thưc chất đó là đại diện của Đảng, để thực hiện
sự lãnh đạo của đảng trong quân đội. Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động
của các cấp các nghành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động. Sự
lãnh đạo của đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc để
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của ông cha ta “binh quý hổ
tinh, bất quý hổ đa”. Từ đòi hỏi yêu cầu cao của nhiêm vụ đối với lực lượng vũ
trang nhân dân.
Trong hành trình tiến hành sử nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân. Trên chặng đường
lịch 66 năm xây dưng và trưởng thành của các lực lượng vũ trang nhân dân việt
nam, mỗi chiến công, mỗi bài học kinh nghiệm của đội quân cách mạng đều gắn
liền với tình thương yêu, sử quan tâm giáo dục và lời cổ vũ thường xuyên của
Người.
Từ nhận thức sâu sắc rằng: chiến tranh là sự kế tục của chính trị băng thủ
đoạn bảo lực, và sức mạnh của vật chất, phải “dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bạo vệ chính quyền”,nên
trong hành trình tiến hành sử nghiệp giải phóng dân tộc , xây dựng và bảo vệ tổ
quốc việt nam xã hội chủ nghĩa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến
việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
12
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Mang theo hành trang của mình lịng u nước, thương dân sâu sắc. Cùng
những truyền thống tốt đẹp, nhũng bài học kinh nghiêm trong lịch sử hàng ngàn
năm dưng nước và giữ nước của dân tộc, Bác Hồ đã sớm đến với chủ nghĩa
Mac- Lenin, đến với con đường cách mạng nhằm giải phóng nhân dân khỏi kiếp
lâm than, nơ lệ và xây dưng chế độ xã hội mới. Để giải phóng dân tộc, thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng lực lượng chính trị
của cách mạng là điều cơ bản nhất, là việc phải làm đầu tiên, rồi mới xây dưng
quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang. Đó là quan điệm “người trước súng sau”,
là xây dưng lực lượng chính trị của quần chúng để trên nền tảng đó xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân việt nam, và tiến hành khởi nghĩa vũ trang, đánh đuội
kẻ thù, dành chính quyền
Từ đó, sử lãnh đạo của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt nam giải
phóng qn đã cùng tồn dân vùng lên đấu tranh, giành thắng lợi trong các cuộc
chiến tranh, lập nên nhà nước việt nam Dân chủ cộng hòa.
Như vậy là, khơng chỉ tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí
Minh cịn sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân, lãnh đạo nhân dân tiến hành
khởi nghĩa vũ trang, dành chính quyền về tay nhân dân, đưa những người việt
nam từ thân phân những người nô lệ thành chủ nhân của một nước việt nam độc
lập.
Chiến tranh đã lùi xa, những thành tựu của một nước việt nam hịa bình,
độc lâp thống nhất, đi lên xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế như ngày hôm
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
13
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
nay gắn liền với nguồn gốc sức mạnh nộ lực nên những chiến công của quân đội
ta, của nhân dân ta. Nguồn sức mạnh đó chính là sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
Tịch Hồ Chí Minh, là bản lĩnh chính trị vững vàng, là sự thấm nhuần đạo đức
người cách mạng, là tinh thần đoàn kết, phấn đấu hi sinh của những người quân
nhân cách mạng.
Từ thực tiến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng ta luôn coi
trọng xây dựng chất lượng, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở.Do đó lực lượng
vũ trang nhân dân của ta hồn thành tốt nhiệm vụ được đảng và nhà nước giao
phó.
Từ sự chống phá của kẻ thù trong chiến lược “diễn biến hịa bình”, bảo
loạn lật độ nhằm phi chính trị hóa qn đội.
“Diễn biến hịa bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật độ chế độ chính trị
của các nước tiến bộ trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng
phương pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tiến
hành
Nội dung : kẻ thù sự dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, văn hóa, đối
ngoại, an ninh...để phá hủy, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa
Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tao ra các lực lượng chính trị đối
lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền..., làm mơ hồ giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong nhân dân lao động.
Khích lệ lối sống tư sản và làm phai nhạt mục tiêu, lí tượng xã hội chủ
nghĩa ở một số bộ phận sinh viên
Triệt đệ khai thác và lợi dụng những khó khăn sai sót của Đảng, nhà nước
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nên sức ép từng bước chuyển
hóa và thây đội đường lối chính trị, chế độ xã hội theo quỹ đạo chủ nghĩa tư
bản.
Sử hình thành và phát triển:
Chiến lược “Diễn biến hịa bình” đã ra đời và phát triển cùng với sự điều
chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
14
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược diễn
biến hịa bình của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch được hình thành và
phát triển qua nhiều giai đoan khác nhau.
Giai doan 1945-1980: đây là giai đoan mạnh nhất và hình thành chiến
lược “diễn biến hịa bình” được bắt nguồn từ mĩ
tháng 4 năm 1948 quốc hội mĩ chính thức phê chuẩn kế hoạch Macsan,
tăng viện trở để khích lệ lực lượng dân chủ. Cài cài cắm giãn điệp vào các Đảng
cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng
sản Tây Âu hướng họ phủ thuộc vào mĩ
Tháng 12 năm 1957 tổng thống Ai-Xen-Hao đã tuyên bố mĩ dành thắng
lợi bằng hịa bình và mục đích của chiến lược là làm suy yếu và lật độ các nước
xã hội chủ nghĩa.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
15
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
CHƯƠNG II.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ
TRANG NHÂN DÂN TRONG THỜI KÌ MỚI
I. Đặc điểm và những quan điểm nguyên tắc cơ bản xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân
1.1 Cả nước đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch chống phá ta quyết liệt.
Đất nước đã hòa bình thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội với hai
nhiệm vụ chiến lược, đây là điều kiện thuận lợi cho xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân. Hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau
để cùng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh”. Do đó, khi chúng ta đặt nhiệm vụ trọng tâm vào xây dựng chủ nghĩa
xã hội, không được một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản dộng đẩy mạnh chiến lược hịa
bình chống phá cách mạng.
Đây là một khó khăn lớn cho ta trong xây dựng lượng vũ trang nhân dân,
vi chiến lược “Diễn biến hịa bình” của chủ nghĩa đế quốc chúng xác định chống
phá ta về mọi mặt, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân la một trọng điệm, vơi
mục tiêu là vơ hiệu hóa,phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhân dân. Do đó,
cần phải nứm chắc âm mưu thủ đoạn chiến lược “diễn biến hịa bình” của địch
để có kế hoạch phịng ngừa, bảo đảm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
vững mạnh về mọi mặt.
1.2. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong điều kiện quốc tế
đã thay đổi, có nhiều diễn biến phức tạp.
Tình hình thế giới: Chủ nghĩa xã hội ở đông âu, Liên Xô bị sụp đổ, phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Nhưng trên
thế giới, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng chiến tranh cục
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
16
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, chạy đua vũ trang, hoạt động khủng bố,
tranh chấp biên giới, tài nguyên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày
càng phức tạp.
Trên thế giới hiện nay, hồ bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn,
phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia dân tộc. Các quốc gia độc lập ngày
càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát
triển của mình. Cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh,
tiến bộ và công bằng xã hội đang có những bước tiến mới.
Các nước lớn, sau sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực, đang điều chỉnh
chiến lược và các mối liên minh mới, vừa lợi dụng và kiềm chế lẫn nhau nhằm
xác lập trật tự thế giới đa cực, chống lại tham vọng của Mỹ thiết lập trật tự thế
giới đơn cực do Mỹ làm bá chủ.
Tất cả những động thái đó làm cho các thế lực đế quốc hiếu chiến, bá
quyền không dễ gì làm mưa làm gió. Trái lại xu thế hồ hỗn, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, vừa liên kết, vừa cạnh tranh trong quan hệ quốc tế phát triển song
diễn biến hết sức phức tạp. Các nước đang phát triển như nước ta có thể lợi dụng
bối cảnh đó để tập trung phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Thế giới đang trong quá trình hội nhập và hợp tác trên nhiều lĩnh vực,
trước hết là kinh tế, vừa tạo ra những thời cơ vận hội mới cho kinh tế nước ta
tiếp tục phát triển, nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nước ta trên nhiều lĩnh vực.
Lợi dụng chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, kẻ địch dùng mọi
thủ đoạn thu thập những thơng tin về chính trị nội bộ, kinh tế, cơ mật quốc gia;
chúng tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại chống chủ nghĩa xã hội, móc nối, kích
động các phần tử chống đối... để phá hoại sự nghiệp cách mạng của ta. Do đó,
đây cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN
Việt Nam hiện nay.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
17
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Khu vực Đông Nam Á, tiềm ẩn nhiều yếu tố mất ổn định, các nước
lớn đang tăng cường ảnh hưởng của mình để lôi kéo các nước ASEAN. Khu
vực Đông Nam á, Châu Á Thái bình Dương là khu vực nhạy cảm, tập trung
nhiều khả năng phát triển năng động nhưng cũng là khu vực tiềm ẩn nguy cơ
mất ổn định.
Do các yếu tố thuận lợi về địa lý, giao thông đường biển, khống sản...
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đơng Nam Á có tốc độ phát triển kinh tế
vào loại cao nhất thế giới, và sẽ trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất của thế giới
trong thế kỷ XXI. Cùng với sự phát triển năng động về kinh tế, ở khu vực này
xu thế liên kết kinh tế ngày càng cao với sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của
diễn đàn kinh tế châu á- Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các nước Đơng
Nam Á (ASEM). Đặc biệt, ASEM ngày càng trở thành một tổ chức khu vực có
sự liên kết, hợp tác kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ngày càng mở rộng và đi
vào chiều sâu của mười nước Đông Nam á, đang hướng tới hình thành khu vực
mậu dịch tự do, có quan hệ đối tác chặt chẽ với các nước lớn và các trung tâm
kinh tế của thế giới. Có thể nói, Châu Á - Thái Bình Dương và Đơng Nam Á
đang là khu vực hồ bình, ổn định và hợp tác là xu thế nổi trội, là môi trường
thuận lợi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, cũng vì tầm quan trọng của nó, khu vực này là nơi diễn ra
nhiều sự cạnh tranh quyết liệt. Các nước lớn đều có chiến lược đối với Châu ÁThái Bình Dương và Đơng Nam Á. Trong nội bộ các nước ở khu vực này cũng
còn nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội phức tạp như vấn đề dân tộc, tơn giáo,
phân hố giàu nghèo, đói nghèo… Vì vậy, “khu vực này vẫn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định”. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc của nhân dân ta hiện nay.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
18
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
1.3. Sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đất nước
ta bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế thế giới hồn thiện hơn.
Về tình hình trong nước:
Thuận lợi cơ bản: tiềm lực và vị thế của nước ta được tang cường, Đảng
ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo. Nhân
dân ta có truyền thống u nước, đồn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Lưc lượng vũ trang ta tuyêt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân. Trên
cơ sơ phát huy những thuận lợi của nước ta trong hiệp hội ASEAN, thành viên
tổ chức thương mại thế giới để giữ vững mơi trường hịa bình và phát triển kinh
tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền tảng vững chắc để xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân
Đảng ta dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo trong các cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã giành được những thành tựu to lớn và rất quan trọng làm cho thế và
lực của nước ta có sự phát triển vượt bậc.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
19
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường; nước ta có
truyền thống yêu nước, lao động cần cù, thơng minh, sáng tạo, đồn kết và nhân
ái. Những năm gần đây, kinh tế nước ta tăng trưởng khá ổn định; đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ta được cải thiện đáng kể.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng - an ninh được
tăng cường; quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực được tiến hành chủ động, đạt kết quả tốt.
Vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Đây
là những thuận lợi rất cơ bản đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản về thành tựu do công cuộc đổi mới đất
nư ớc đem lại, nước ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ thách thức.
Thách thức lớn: Nước ta vẫn tồn tại những thách thức lớn được Đại hội
Đảng lần thứ X đề cập: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới: tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên gắn với tệ quan liêu tham nhũng,
lãng phí nghiêm trọng; những biêu hiên xa rời xã hội chủ nghĩa; các thế lực thù
địch thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Hiện nay và
trong những năm tới, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề phải giải quyết,
trong đó có mâu thuẫn chủ yếu là: Nhu cầu phải đầu tư cho quốc phòng an ninh,
cho xây dựng lực lương vũ trang nhân dân ngày càng lớn và cấp thiết, nhưng
khả năng của nền kinh tế, ngân sách của nhà nước là rất hạn hẹp.
Đất nước ta cũng đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn.
Đại hội IX của Đảng chỉ rõ 4 nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn
tham nhũng và tệ quan liêu; “Diễn biến hồ bình” do các thế lực thù địch gây ra,
đến nay vẫn tồn tại, diễn biến hết sức phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau
không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Điều cần phải nhận thức rõ là: tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư
tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
20
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
chậm được khắc phục, vẫn tồn tại đang cản trở việc thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và giảm lịng tin của nhân
dân. Mặt khác, nước ta hiện nay vẫn là nước kém phát triển về kinh tế, mức sống
của nhân dân còn thấp... Đây là những nhân tố tác động cực kỳ quan trọng đến sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay của nước ta.
Như vậy, những vấn đề đề cập trên, tuy chưa phải là toàn bộ những nhân
tố tác động đến sự nghệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta hiện nay, nhưng đây là
những nhân tố cơ bản nhất, ảnh hưởng thường xuyên và trực tiếp đến sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc XHCN Việt Nam hiện nay. Nắm vững các nhân tố này có ý
nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc XHCN của
Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.4 Thực trạng của lực lượng vũ trang nhân dân ta.
Trong những năm qua, lưc lượng vũ trang nhân dân ta đã có bươc trưởng
thành lớn mạnh cả về bản lĩnh chính trị, chất lượng tổng hợp, trình độ chính
quy, sức mạnh chiến đấu khơng ngừng đươc nâng lên. Đã hoàn thành tốt cả ba
chức năng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu giải quyết hiệu quả những
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp mà Đảng, nhà nước giao cho. Song, trên thực tế
cần tập trung tháo gỡ một số vấn đề sau:
Về chất lượng chính trị: trên thực tế, trình độ lí ln, tính nhạy bén, sắc
sảo và bản lĩnh chính trị của khơng ít cán bộ, chiến sĩ ta chưa tương xứng với vị
trí, yêu cầu, nhiêm vụ của lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của lưc lượng vũ
trang nhân dân cịn có những mặt hạn chế, chưa đáp ứng đươc các tình huống
phưc tạp. Cơng tác huấn luyện, đào tạo các cán bộ cịn có những nơi dung bất
cập, chưa thật sát nhiêm vụ và năng lực thực hành theo cương vị đạm nhiệm.
Về trình độ chính quy của qn đội ta chưa đáp ứng được yêu cầu tác
chiến hiện đại và chưa tương xứng với công tác xây dựng. Chấp hành kỉ luật của
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
21
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
một bổ phận lực lượng vũ trang còn chuyển biến chậm, vấn đề xảy ra những vụ
việc, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang.
Về trang bị của lực lượng vũ trang còn lac hậu và thiếu đồng bộ.
Vấn đề nghiên cưu phát triện hoàn thiên nền khoa học nghệ thuật quân sự
Việt Nam trong thời kì mới cần được tổ chức một cách khoa học, phối hợp chặt
chẽ giữa viện nghiên cứu, cơ sơ đào tạo.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG THỜI KÌ MỚI
2.1 Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Ý nghĩa: đây là quan điêm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đôi với lực lượng vũ trang sẽ
quyết định bản chất cách mạng,mục tiêu, phương hướng chiến đấu, đường lối tổ
chức và cơ chế hoạt động lực lượng vũ trang nhân dân. Bảo đảm nắm chắc quân
đội trong mọi tình huống. Thực tiến cách mạng việt nam trong mấy chục năm
qua đã chứng minh điều đó.
Nội dung: Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn duy nhất nắm quyền lãnh đạo
lực lượng vũ trang nhân dân theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”,
Đảng không nhường hoặc chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất cứ giai cấp, lực lượng,
tổ chức nào. Đảng có hệ thống tổ chức từ trung ương đến cơ sở, lãnh đạo mọi
hoạt động của lực lương vũ trang.
Trong quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng lãnh đạo theo hệ thống dọc từ
Đảng ủy Quân sự trung ương đến các đơn vị cơ sở trong toàn quân. Trực tiếp
lãnh đạo các đơn vị ở địa phương là các cấp ủy Đảng ở địa phương.
Đảng lãnh đạo trên mọi hoạt động của lực lương vũ trang nhân dân trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức...cả trong xây dựng và chiến đấu.
2.2 Tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang
Nội dung: Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để dữ vững
tính độc lập tự chủ, chủ động khơng bị chi phối ràng buộc.
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
22
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khác phục mọi khó khăn xây dựng đơn
vị vững mạnh toàn diện. Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về
khoa học công nghệ để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Tập
trung từng bước hiện đại hóa trang bị kỹ thuật, quản lý khai thác bảo quản có
hiệu quả trang bị hiện có.
Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.
2.3 Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính,
lấy xây dưng chính trị làm cơ sở.
Nội dung: Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất
lượng.
Nâng cao chất lượng là chính, đồng thời có số lương phù hợp với tình
hình nhiệm vụ và khả năng kinh tế của đất nước. Phải có cơ cấu hợp lý giữa các
thứ quân, giữa lực lượng thường trực với lực lượng dự bị động viên.
Thường xuyên làm tốt công tác huấn luyện, diễn tập để nâng cao trình độ
sẵn sàng chiến đấu với lực lương vũ trang nhân dân.
Xây dựng lực lương vũ trang nhân dân có chất lượng tồn diện cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức. Về chính trị phải thường xun làm tốt các cơng tác
qn triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân nhân
dân tin tưởng vào đường lối quan điểm của Đảng, chính sách của nhà nước. Tin
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
23
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
tưởng tuyệt đối tự giác chấp hành nghiêm mọi đường lối, chủ trương chính sach
pháp luật.
Chăm lo xây dưng, củng cố các tổ chức chính trị trong lực lương vũ trang
nhân dân vững mạnh. Chăm lo xây dựng cơ quan chính trị vững mạnh, đội ngũ
cán bộ chính trị, đảng viên có phẩm chất năng lực tốt đủ sức mạnh lãnh đạo đơn
vị.
2.4. Bảo đảm lực lượng vũ trang nhân dân luôn trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu thắng lợi.
Ý nghĩa: Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ
bản, thường xuyên của lực lượng vu trang nhân dân, có ý nghĩa quan trọng bảo
đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân chủ động đối phó kịp thời và thắng lợi
trong mọi tình huống có thể xảy ra.
Nội dung: Lực lượng vũ trang nhân dân phải luôn trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu, đánh địch kịp thời, bảo vệ được mình, hồn thành tốt nhiệm vụ trong
mọi tình huống.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về mọi mặt, duy trì và
chấp hành nghiêm các chế độ, quy định về sẵn sàng chiến đấu, trực ban, trực
chiến, trực chỉ huy.
2.5: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự
nghiệp quốc phòng và an ninh, quán triệt tư tưởng cách mạng tiến cơng,
chủ động đánh thắng địch trong mọi hồn cảnh tình huống chiến tranh
Thực tiễn của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như
trong công cuộc đổi mới hiện nay cho thấy, Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng, trong đó có nhiệm vụ quốc phịng và an ninh. Vì vậy, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng là đòi hỏi cấp thiết của xây dựng quốc phòng và an
ninh hiện nay, đồng thời đó cịn là quy luật trong xây dựng qn đội nhân dân và
công an nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện. Đại hội IX của Đảng nhấn
mạnh “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
24
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Đảng đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc
phòng và an ninh” .
Đối với quốc phòng và an ninh, Đảng hoạch định đường lối, quan điểm,
đề ra nhiệm vụ, nguyên tắc chỉ đạo; xây dựng chiến lược quốc phòng và an ninh
quốc gia. Ban chấp hành Trung ương và Bộ chính trị trực tiếp quyết định và xử
lý những vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Các cấp uỷ và thường vụ cấp
uỷ địa phương trực tiếp xử lý những vấn đề quốc phòng và an ninh trên địa bàn
và báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương.
Đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân, Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt, bảo đảm cho quân đội và công an trung thành tuyệt đối với
Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, xứng đáng là lực lượng
nịng cốt cùng tồn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng uỷ quân sự Trung ương và Đảng uỷ công an nhân dân nghiên cứu đề
xuất để Ban chấp hành Trung ương quyết định những vấn đề về đường lối,
nhiệm vụ quốc phịng - an ninh, trật tự an tồn xã hội, lãnh đạo mọi mặt công tác
trong quân đội và công an.
Trong giai đoạn hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với quân đội
và công an phải tập trung xây dựng quân đội và công an vững mạnh về mọi mặt,
trong đó lấy xây dựng chính trị làm cơ sở; hết sức chú trọng tới việc hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an ở mọi cấp. Chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức trong sáng, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Luôn cảnh
giác và kiên quyết đập tan mọi âm mưu “phi chính trị” hố qn đội và cơng an
của các thế lực thù địch hịng xố bỏ, hạ thấp vai trị lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội và công an.
Như vậy việc vân dụng tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức là quan trọng đặc
biệt trong tình hình nước ta hiện nay.
Tư tưởng của Người về bảo vệ Tổ quốc là cơ sở khoa học để chúng ta tiếp
tục kiên định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa , thực hiện thắng lợi hai nhiệm
GVHD: Đại tá Trương Xuân Dũng
25